Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

luan van(Hien D-Hoang)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.63 KB, 50 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập ở trường, dưới sự hương dẫn, chỉ dạy tận tình
của quý thầy cô giáo, tôi đã thực hiện báo cáo thực tập tốt nghiệp cuối khóa với
đề tài: “ Điều tra tình hình sản xuất ngô tại xã Hương Long, thành phố Huế ”.
Trong suốt thời gian thực tập tốt nghiệp tôi đã có dịp hệ thống lại vốn kiến
thức đã được học ở trường trong những năm qua, đồng thời đã đúc rút được môt
số kinh nghiệm thực tế.
Để hoàn thành báo cáo tốt nghiệp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
đến quý thầy cô giáo trong khoa Nông Học, Trường Đại Học Nông Lâm Huế.
Đặc biệt là cô giáo Th.s Nguyễn Thị Thanh, đã tận tình hướng dẫn tôi trong quá
trình thực hiện báo cáo tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn các cán bộ trong UBND và HTX xã Hương Long,
đã nhiệt tình giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực tập tại xã.
Xin chân thành cảm ơn tất cả những người đã giúp tôi hoàn thành báo cáo
tốt nghiệp này
Huế, ngày 10 tháng 5 năm 2008
Sinh viên thực tập:
Phạm Hồng Cảnh
MỤC LỤC
PHẦN I: 3
ĐẶT VẤN ĐỀ 3
1.1. Mở đầu 3
PHẦN II: 6
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 6
2.1. LỊCH SỬ, NGUỒN GỐC, VAI TRÒ VỊ TRÍ CỦA CÂY NGÔ TRONG
SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP 6
PHẦN III: 22
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 22
NGHIÊN CỨU 22
3.3. Phương pháp nghiên cứu 23
PHẦN IV: 24


KÊT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 24
4.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ ĐIỀU KIỆN KINH TẾ XÃ HỘI 24
4.2. Thời gian hoàn thành các giai đoạn sinh trưởng và phát triển của các
giống ngô 36
4.4. Tình hình sâu bệnh hại của một số giống ngô và một số biện pháp phòng
trừ: 42
4.5. HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA VIỆC SẢN XUẤT NGÔ Ở CÁC HỘ ĐIỀU
TRA 46
PHẦN V 48
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 48
5.1. KẾT LUẬN 48
5.2. ĐỀ NGHỊ: 49
PHẦN IV 50
TÀI LIỆU THAM KHẢO 50
2
PHẦN I:
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Mở đầu.
Cây Ngô ( ZeamaysL) là loại lương thực có tầm quan trọng trong nền kinh
tế quốc dân và kinh tế toàn cầu. Nhờ có sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật mà
nhiều loại giống ngô mới ra đời đem lại năng suất và chất lượng cao, không
ngừng góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế, giải quyết cơ bản hoạt động đời sống
nhân dân.
Ngô là loại ngũ cốc quan trọng trên thế giới, nó cung cấp dinh dưỡng cho
con người và gia súc, gia cầm. Đồng thời là nguyên liệu cho các ngành công
nghiệp chế biến.
Những năm gần đây, cây ngô còn là cây thực phẩm được ưa chuộng, các
loại ngô nếp, ngô đường để dùng luộc, nướng, đóng hộp, bắp ngô bào tử để làm
rau cao cấp, đây là loại rau có hàm lượng dinh dưỡng cao và không có dự trữ
thuốc bảo vệ thực vật. Một số loại ngô còn là nguyên liệu của các nhà máy sản

xuất rượu, cồn, tinh bột, dầu, đường gluco, bánh kẹo. Ngô dùng để sản xuất ra
khoảng 670 mặt hàng khác nhau trong đó các ngành công nghiệp lương thực
thực phẫm và công nghiệp nhẹ
Vì cây ngô là thức ăn quan trọng của gia súc hiện nay, trên 70 % chất tinh
trong thức ăn hỗn hợp từ ngô. Ngoài ra ngô còn là thức ăn ủ xanh và ủ chua lý
tưởng cho đại gia súc, đặc biệt là phong trào nuôi bò sữa. Có thể nói, ngô là loại
cây trồng có tiềm năng to lớn nhất trong 2 quá trình tạo năng suất sơ cấp và thứ
cấp, là đối tượng nghiên cứu cho di truyền học tế bào vì bộ NST ít(2n = 10), lai
tạo giữa các giống giữa các dòng, dễ lai tạo và có ưu thể lai cao, đồng thời công
3
tác đột biến ngày càng được đẩy mạnh nhằm tạo ra các giống ngô giàu lizin và
cải tiến thành phần hóa học.
Diện tích trồng ngô đã có bước tăng nhanh từ sau năm 1995 và hiện nay cả
nước có khoảng trên 800.000 ha. Cuối thế kỷ XX thì sản lượng ngô nước ta đạt
gần 2 triệu tấn hàng năm. Tuy nhiên so với tiềm năng thì cây ngô nước ta có thể
có những bước phát triển mạnh mẽ hơn. Năng suất ngô nước ta còn thấp, thấp
hơn trung bình của thế giới và thấp hơn quá xa so với các nước có năng suất ngô
cao. Ở các tỉnh đồng bằng Sông Hồng, cây ngô là một trong những loại cây đưa
vào vụ Đông có hiệu quả. Do đó ở nhiều vùng đã nhận thức được vai trò quan
trọng của việc phát triển vật tư, vốn, ra sức đẩy mạnh việc sản xuất ngô, thường
xuyên cải tiến các biện pháp kỹ thuật và áp dụng các kỹ thuật mới trong sản xuất
ngô và khuyến khích các vùng phát triển vùng trồng ngô.
Nước ta là một nước nông nghiệp, số lao động làm nghề nông chiếm gần
80%. Tuy nhiên khả năng thâm canh sử dụng giống, áp dụng khoa học kỹ thuật
vẫn chưa được chú trọng. Bởi lẽ đó, năng suất và chất lượng chưa cao. Mặt khác
trong 10 năm trở lại đây sản xuất của nước ta đã không ngừng tăng lên cả về
diện tích lẫn năng suất, nhưng do dân số tăng nhanh về mặt số lượng nên sản
lượng ngô sản xuất ra vẫn chưa đáp ứng đủ cho nhu cầu thị trường.
Đối với TØnh NghÖ An nói chung và x· DiÔn Hoµng huyÖn DiÔn Ch©u nói
riêng do điều kiện tự nhiên như đất đai đa dạng, khí hậu thời tiết khắc nghiệt,

khả năng tiếp nhận về việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất vẩn chưa cao,
diện tích trồng ngô biến động qua các năm, làm cho năng suất thường thấp hơn
so với các vùng khác trong cả nước. Vì vậy, cần phải đầu tư thâm canh hợp lý thì
cây ngô sẽ cho năng suất cao và sản xuất ngô sẽ mang lại hiệu quả kinh tế hơn.
Trước những thực trạng đó chúng tôi tiến hành điều tra tình hình sản xuất
ngô tại x· DiÔn Hoµng, huyÖn DiÔn Ch©u, TØnh NghÖ An nhằm tìm hiểu tình
hình phát triển sản xuất ngô của vùng này như thế nào. Để giải quyết vấn đề đó
tôi tiến hành đề tài: “ĐIỀU TRA TÌNH HÌNH SẢN XUẤT NGÔ TẠI XÃ
diÔn hoµng, huyÖn DiÔn Ch©u”
4
1.2. Mục đích của đề tài.
Điều tra đánh giá thực trạng về điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã
hội và tình hình sản xuất của xã để từ đó đánh giá tiềm năng sản xuất ngô và tìm
ra những khó khăn, thuận lợi trong việc sản xuất ngô.
Điều tra tình hình sử dụng đất đai của xã DiÔn Hoµng, huyÖn DiÔn Ch©u,
TØnh NghÖ An qua một số năm.
Điều tra tình hình sâu bệnh hại trên các giống ngô, từ đó để đánh giá khả
năng chống chịu sâu bệnh của các giông ngô.
Đề xuất các biện pháp khoa học kỹ thuật phù hợp cho người nông dân
trồng ngô đạt năng suất cao.
Qua kết quả điều tra sẽ phân tích đánh giá được những mặt mạnh, mặt yếu
của việc sản xuất ngô. Từ đó đánh giá được thực trạng phát triển sản xuất ngô
của địa phương, đồng thời có hướng khắc phục những mặt yếu kém và phát huy
những mặt mạnh.
5
PHẦN II:
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. LỊCH SỬ, NGUỒN GỐC, VAI TRÒ VỊ TRÍ CỦA CÂY NGÔ TRONG
SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP.
2.1.1. Lịch sử nguồn gốc:

Những nghiên cứu về nguồn gốc cây trồng Vailov (1926) đã cho rằng
Mehio và Pêru là những trung tâm phát sinh và đa dạng di truyền của ngô.
Mehicô là trung tâm thứ nhất (trung tâm phát sinh), vùng Andet (Peru) là trung
tâm thứ hai, nơi cây ngô đã trải qua quá trình tiến hoá nhanh chóng. Nhận định
này của Vailov đã được nhiều nhà khoa học chia sẽ (Galinat 1997, Wilkess 1980,
Kato 1984).
Theo Wilkesss (1980) ngô bắt đầu từ cây hoang dã ở miền trung Mêhicô
trên độ cao 1500m của vùng bán khô hạn, có mưa vào mùa hè khoảng 350mm.
Mẫu phấn ngô cổ nhất được tìm thấy ở độ sâu 70m và xác định vào niên đại sông
băng, ít nhất cách đây 60000 năm. Những khai quật của hang động bát của New
Mêhicô đã cung cấp nhiều thông tin về nguồn gốc cây ngô. Ở đây người ta tìm
thấy cùi ngô dài 2-3cm và đã xác định tuổi vào khoảng 3.600 năm trước công
nguyên. Ngày nay các nhà khoa học trên thế giới hầu như đã công nhận và thống
nhất Mêhicô là trung tâm phát sinh cây ngô, thậm chí người ta còn cho rằng cái
nôi đầu tiên của thung lũng Tehuaca nằm ở bang Puebla ở đông nam Mehicô.
Có thể nói cuối thế kỹ 15, sau khi Chistopher Columbus tìm ra ở châu Mỹ
từ trung Mỹ ngô phát triển đến gần cả phía bắc và phía nam châu Mỹ.
Năm 1493 Columbus đã mang ngô vào châu Âu (Tây Ban Nha), năm 1521 ngô
được đưa đến bán đảo đông Ấn Độ và quần đảo Inđônêxia. Củng từ thời gian
6
này ngô lan truyền sang các thuộc địa Bồ Đào Nha ở châu Phi đến Ấn Độ và
đông nam á. Ở Trung Quốc lần đầu tiên ngô được nhắc đến vào năm 1516. Ngô
vào Việt Nam có thể thông qua hai con đường: Từ Trung Quốc và Inđônêxia.
Theo nhà bác học Lê Quý Đôn nêu trong "Vân Đài Loại Ngữ" thì vào thời đầu
Khang Hy (1682-1723), Trần Thế Vinh là người đầu tiên phong đi sứ sang
Trung Quốc thấy loại cây này mang về trồng ở hạt Tây Sơn và gọi là ngô.
Hiện nay diện phân bố của cây trồng này bao gồm toàn bộ trái đất, ngô là
cây nhiệt đới, nhưng nó là cây hàng năm, tránh được mùa đông nên phổ biến rất
xa ngoài vùng nhiệt đới và xâm nhập cả vùng ôn đới có mùa hè kéo dài và khá
ấm dịu. Đặc biệt ngô đã xâm nhập sâu vào vùng bắc bán cầu. Ở đây khí hậu lục

địa nên nhiệt độ khá cao trong các tháng mùa hè.Ở bán cầu bắc, giới hạn vùng
trồng ngô lên đến 52
0
vĩ bắc để lấy hạt, còn để lấy thân xanh cỏ thể trồng đến 46
0
vĩ độ nam về độ cao so với mặt nước biển. Ở châu Âu ngô trồng được trên dãy
Cacpat tới độ cao 3.500m. Tính đa dạng và khả năng thích nghi của ngô có lẽ
không có cây nào sánh kịp.
2.1.2. Giá trị kính tế, vai trò của cây ngô trong sản xuất nông nghiệp và
trong đời sống xã hội
Ngô là một trong những cây ngũ cốc có năng suất cao nhất và rất quan
trọng cho loài người. Bên cạnh việc mở rộng diện tích, năng suất ngô ngày càng
tăng lên, do đó mà sản lượng ngô của thế giới không ngừng tăng lên trong những
năm gần đây (FAO: 2000).
Hạt ngô có giá trị dinh dưỡng cao, trong hạt ngô có chứa tương đối đầy đủ
các chất dinh dưỡng cần thiết cho người và gia súc, hạt ngô có hàm lượng protit
và lipit nhiều hơn hạt gạo, bột ngô chiếm 65-83% khối lượng hạt. Đó là nguyên
liệu quan trọng trong công nghiệp chể biến bột. Cứ 100kg ngô hạt cho khoảng
20-21kg ghiten, 73-75 kg tinh bột tách từ mầm 100kg ngô hạt có thể ép được từ
1,8-2,7kg dầu. Một số thành phần hoá học của hạt ngô (chất béo và một số sinh
tố) cao hơn so với hạt gạo. Giá trị sử dụng rộng rãi của ngô được chứng minh
7
bắng 670 mặt hàng khác nhau của các nghành lương thực, công nghiệp thực
phẩm, công nghiệp dược, công nghiệp nhẹ.
Ngô là cây lương thực nuôi sống 1/3 số dân trên toàn thế giới, tất cả các
nước trồng ngô nói chung đều sử dụng ngô làm lương thực ở mức độ khác nhau.
Toàn thế giới sử dụng 21% tổng sản lượng ngô, ở các nước trung Mỹ, Nam Mỹ
và châu Phi sử ngô làm lương thực chính. Các nước Đông Phi sử dụng 85% sản
lượng ngô làm lương thực cho con người. Tây Trung Phi sử dụng 80%, Vì vậy
trên phạm vi toàn thế giới, ngô vẫn là cây thực phẩm, người ta dùng bắp ngô bào

tử làm rau cao cấp. Sở dĩ ngô rau được ưa chuộng vì nó sạch và có hàm lượng
dinh dưỡng cao. Các thể loại ngô nếp, ngô đường được dùng làm ăn tươi hoặc
đóng hộp xuất khẩu.
Ở các nước phát triển có nền chăn nuôi công nghiệp, ngô là thức ăn lý
tưởng cho nhiều loại gia súc, là nguồn thức ăn chủ lực để chăn nuôi cung cấp
thịt, trứng, sữa. từ 70-90% sản lượng ngô tại đây được dùng để sản xuất thức ăn
gia súc, hơn 50% tổng số thức ăn gia súc là các dạng khác của ngô. Hầu như
70% chất tinh trong thức ăn tổng hợp là từ ngô, điều đó phổ biến trên toàn thế
giới. Ngoài việc cung cấp chất tinh, cây ngô còn là thức ăn xanh và ủ chua lý
tưởng cho đại gia súc, đặc biết là bò. Thông thường để sản xuất 1kg sữa bò cần
5kg thức ủ tươi bằng ngô, 1kg bò tươi cần 2,5kg ngô hạt,
Ngoài việc ngô là nguyên chính cho các nhà máy thức ăn gia súc tổng
hợp, ngô còn là nguyên liệu cho các nhà máy sản xuất rượư, cồn, tinh bột, dầu,
gulucoza, bánh kẹo, Người ta đã sản xuất ra khoảng 670 mặt hàng khác nhau
từ ngô của các nghành công nghiệp lương thực thực phẩm, công nghiệp dược và
công nghiệp nhẹ (như làm giây, làm sợi, ).
Trên thế giới hàng năm lượng ngô nhập khẩu khoảng 700 triệu tấn. Đó là
nguồn lợi lớn của các nước nhập khẩu và đạt được được hiệu quả kinh tế cao.
Các nước xuất khẩu chính như Pháp, Mỹ, Achentina, Trung Quốc, Thai Lan, các
nước nhập khẩu chính là Nhật Bản, Hàn Quốc, châu Phi, Mêhicô,
8
2.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, SẢN XUẤT NGÔ TRÊN THẾ GIỚI VÀ
Ở VIỆT NAM:
2.2.1. Tình hình nghiên cứu và sản xuất ngô trên thế giới:
Ngô là cây có phạm vi phân bố rộng, nhờ đó mà hiệ nay cây ngô có mặt
trên toàn thế giới, cây ngô đứng thứ ba về diện tích, đứng thứ hai về sản lượng
và đứng thứ nhất về năng suất. Sở dĩ được như vậy là các nước trồng ngô trên
thế giới ngày cành nhận thức được vị trí của cây ngô trong vấn đề giải quyết
lượng thực, thực phẩm, đặc biệt là giả quyết thức ăn cho gia súc, nên đã phát
triển ngô một cách hết sức mạnh mẽ và đẩu tư thâm canh bằng việc đầu tư thêm

những tư liệu sản xuất tiên tiến trên đơn vị diện tích. Trong đó có thành tựu của
cuộc cách mạng về giống ngô đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển sản
xuất ngô của thế giới. Việc sử dụng các loại giống ngô ở các nước phản ánh khá
rõ trình độ sản xuất của mỗi nước.
Khoảng nữa thế kỹ vừa qua, diện tích trồng ngô trên toàn thế giới đã tăng
lên gấp rưỡi, năng suất tăng lên gấp 2,5 lần và tổng sản lượng ngô hang năm tăng
lên 4 lần. Trước đại chiến thế giới thư II, so với năng suất lúa thì ngô còn kém
khá xa. Nhiều thập kỷ vừa qua, với sự bùng nổ năng suất của nhiều vùng trồng
ngô trên toàn thế giới. Nhờ vậy, mặc dầu diện tích trồng ngô ít hơn trồng lúa
nước và kém xa lúa mỳ nhưng ngô vẫn chiếm hơn 1/3 sản lượng ngũ cốc của thế
giới.
Cây ngô được tiến hoá và phát triển bắt đầu từ khi người da đỏ thuần hoá
ở thung lũng Tehucan - miền Trung Mêhicô và được phổ biến trồng khắp nơi từ
Bắc xuống Nam, nền văn minh của thổ dân chây lục mới. Khi người dân châu
Âu đến Bắc Mỹ họ đã thấy người dân da đỏ trồng ngô mà chủ yếu là ngô 8 hàng
hạt, cùi có màu trắng và thân mảnh, không cao lắm, hạt nhẵn và chủ yếu là ngô
đá rằn được trồng khoảng 20.000 ha. Đi xuống phía Nam Manylanol và Virgnia,
người da đỏ trồng một ít ngô 16-30 hàng hạt có thân to, cùi đỏ có năng suất cao
và hạt mềm. Loại ngô này được đưa vào Mỹ từ Mêhicô và được trồng khoảng
8.000 ha. Người dân dọc bờ biển phía Đông từ Pennsy Irania xuống phía Nam là
ngô "hạt bí".
9
Theo TS Paul Weather Wax, vùng trồng ngô thâm canh của người da đỏ
không trùng với thâm canh ngày nay. Vùng ngô của châu Mỹ cổ đại không phải
là những thảo nguyên màu mỡ của vùng Trung - Tây Hoa Kỳ và nay gọi là vành
đai ngô, cũng không phải là những cánh đồng hoang ở Achentina mà là những
thung lũng khô hạn của bang Arzona, New Mêhicô của cao nguyên Mêhicô và
thung lũng Ande Nam Mỹ.
Theo Jenos, Andersen và Cutter, 1924 cho rằng: Kiểu cấu trúc nội nhũ của
ngô trồng có ý nghĩa về sinh thái, chính vì vậy mà ở những vùng địa lý khác

nhau thì sự phân bố ngô cũng khác nhau. Ở Mêhicô chủ yếu là ngô răng ngựa
chiếm ưu thế, còn ở phía Nam nước Mỹ, vùng núi Pêru thì chủ yếu là ngô bột,
phần phía Bắc của Mỹ là ngô tẻ chiếm ưu thế.
Những năm đầu của thế kỹ XIX, Peter Browne đã tiến hành điều tra rất tỉ
mỉ về cây ngô ở vùng Penny Vannia, để trình lên ban khoa học tự nhiên Chester.
Vào năm 1873 , sau khi đề cập đến nguồn gốc và mô tả biện pháp trồng trọt,
Browne đã mô tả 35 giống khác nhau, phần lớn là hổn hợp của "hạt bí" và ngô
đá, ngoài ra còn mô tả ngô bọc như ngô Texas và nhiều giống khác.
Năm 1856, ở Mỹ đã chọn ra giống Liming (tên người tạo giống) có năng
suất cao. Đên cuối thế kỷ XIX, châu Mỹ đã có đến 770 giống ngô cải lương.
Năm 1990, xuất hiện môn di truyền hiện đại, được áp dụng vào di truyền
ngô. Vào năm 1908-1912 một nhóm nhà nghiên cứu Mỹ (East, Esluillg, Hayesd,
Jonesd) đã đưa ra khái niệm dòng tự phối và lai đơn, lai kép. Đây là cơ sở cho
việc chọn tạo giống sau này.
Giống lai đầu tiên từ chương trình ngô của H.A. Wallace là "Coper Cross"
giữa dòng từ Ieaming và một số dòng từ "Booel butcher", "Coper Cross" đưa vào
khảo nghiệm tại ban Iowa từ năm 1922-1924 cho năng suất cao.
Năm 1942 ngô lai đã hoàn toàn thay thế ngô cũ (78%) ở vành đai ngô của
Mỹ. Năm 1965 ngô lai chiếm (95%) diện tích ngô toàn nước Mỹ. Nếu tăng năng
suất bình quân 1933 là 1.511 kg/ha thì năng suất năm 1981 là 6.884 kg/ha.
Sự tăng trưởng năng suất ngô ở Mỹ vào thập kỷ 60 gầm đây là rất đáng
ghi nhận. Nhờ ứng dụng ngô lai vào sản xuất đã làm cho năng suất bình quân
10
tăng ổn định. Với sự ra đời của các giống ngô lai kép, năng suất ngô ở Mỹ tăng
bình quân 60 kg/ha/năm. Sau khi chuyển sang trồng ngô lai đơn thay thế ngô lai
kép thì năng suất đã tăng 118 kg/ha/năm. Thành quả rực rỡ đó đã dẫn đến các
nước ở Tây Âu, Đông Âu, đã nhập trực tiếp giống ngô lai để sản xuất.
Năm 1976 so với năm 1965, sản lượng ngô ở Ba Lan tăng lên 15 lần;
Bungari tăng 2,5 lần; Pháp tăng 2,3 lần; Cộng hoà liên bang Đức tăng 5,6 lần.
Trông phần thứ nhất của thế kỷ XX, các nhà khoa học B.P. Sokolov, M.I.

Khadz Hinov (Liên Xô cũ), đã bắt đầu những công trình nhân giống tự phối để
tạo ra ngô lai. Năm 1947, giống ngô lai khác giống của Liên Xô được đưa vào
sản xuất. Năm 1952, có 8 giống lai kép đầu tiên giữa các dòng tự thụ phấn, trong
đó có các giống Vir 42 nổi tiếng được đưa vào sản xuất.
Liên Xô (cũ) là nước sử dụng ngô lai chậm hơn so với các nước khác.
Năm 1953, diện tích trồng ngô chỉ đạt 3,5 triệu ha và chưa sử dụng ngô lai, năng
suất trung bình từ 12-15 tạ/ha. Sau được nhà nước chú ý và mở rộng diện tích
ngô, các giống ngô lai được trồng nhiều. Năm 1961 -1965 năng suất tăng lên
22,9 tạ/ha trên diện tích 51.444.000 ha, chiếm 50% diện tích trồng ngô và chủ
yếu các giống ngô lai kép chiếm ưu thế trên đồng ruộng.
Ở thập kỷ 60-70, những nghiên cứu ở Ấn độ, Mêhicô đã chỉ ra rằng phát
triển các giống ngô hổn hợp và sử dụng hợp lý, phát triển, chọn lọc chu kỳ sẻ
nhanh chóng đưa năng suất các giống ngô này ngang với giống ngô lai mà đầu tư
thấp hơn. Giống hỗn hợp đã bùng nổ ở rất nhiều nước thuộc châu Á, châu Phi,
châu Mỹ La Tinh, như Ấn Độ chỉ trong năm 1967 đã đưa hàng loạt các giống
hỗn hợp (như Amber, Jawahar, Kisan, Vikrâm sona, Vijay) vào sản xuất. Còn ở
Mêhicô sao giai đoạn ngô lai rầm rộ (1950-1970) đặc biệt là sau chường trình
thu thập các giống ngô địa phương đợt 2 vào năm 1971-1972 thì công tác chọn
giống ngô hỗn hợp rất được chú trọng. Hàng loạt giống được đưa vào sản xuất
như V
433
, V
522
, V
324
,
Sau 20 năm, với những thành tựu nổi bật của chường trình ngô hỗn hợp
(TDTD) của CTMMYT, đã chọn tạo thành công các giống ngô từ nơi Tuxpenno
và đã tạo ra 853 giống thí nghiệm. Trong đó có nhiều giống được đưa vào sản
11

xuất rộng rãi như Salogo ở Zaire (Cộng hoà Công Gô), Hendureno Plan Baja ở
Hendures, ICTAB-1 ở Guatemala.
Như vây, sự phát triển sản xuất cây ngô giữa thế kỷ XX đã phát tiển mạnh
mẻ không chỉ ở châu Âu, châu Mỹ mà còn ở châu Phi, châu Á.
Vào đầu thế kỷ XX, hàng năm liên đoàn Nam Phi xuất sang châu Âu gần
100.000 tấn ngô làm thức ăn cho gia súc, đến giữa thế kỷ XX thì đã xuất trên
650.000 tấn (Heclriek, 1919 Hum Lum, 1942).
Rum Phius cho rằng: Ngô ở Đông Nam Á và Đông Á vào năm 1946 người
Bồ Đào Nha đã nhập ngô vào Java và cây ngô đã nhanh chóng có vị trí vững
chắc ở vùng này và đã lan ra nhiều nước. Giữa thế kỷ XX, hàng năm Indonêxia
sản xuất trên 2 triệu tấn ngô. Đầu thế kỷ XX, Đông Dương đã sản xuất khoẩng 3
triệu tấn ngô hạt. Tuy nhiên hiện nay, tuỳ thuộc vào trình độ sản xuất, mức độ
đầu tư thâm canh ở mỗi nước mà xu hướng phát triển sản xuất ngô cũng khác
nhau. Ở các nước phát triển, việc trồng ngô chủ yếu là dựa vào năng suất thì sử
dụng các giống ngô lai có năng suất cao như: Hy Lạp đạt 9,9 tân/ha, Úc đạt 8,3
tấn/ha, Ý đạt 7,8 tấn/ha, Mỹ đạt 7,5 tấn/ha và tốc độ tăng hàng năm là 4,1% và
cung cấp 45% sản lượng ngô trên thế giới. Trong đó Canada sản lượng thu được
hàng năm tăng 8,4%, Tây Âu là 2,8%, Đông Âu và Liên Xô (cũ) là 2,4%.
Ở những nước đang phát triển chủ yếu là mở rộng diện tích. Theo thống
kê gần đây diện tích trồng ngô chiếm 60% nhưng sản lượng chỉ chiếm 35% tổng
sản lượng thế giới. Năng suất tăng 2,8% trong khi đó mở rộng diện tích là 1,1%.
Dẫn đầu là Trung Quốc với 4,3% năm, tiếp đến là Brazil, Mêhicô, Ấn Độ.
Vào năm 1993-1994, theo thống kê của trung tâm cải lương ngô và lúa mỳ
quốc tế (CIMMYT, 1993/1994) thì diện tích trồng ngô trên thế giới là
129.804.000 ha, năng suất bình quân chung của các nước phát triển Tây Âu, Bắc
Mỹ là 6,9 tân/ha. Các nước có diện tích trồng ngô lớn trên thế giới như Mỹ
28.050 nghìn ha với năng suất 7,5 tấn/ha, Trung Quốc 21.405 nghìn ha với năng
suất 4,5 tân/ha, Thái Lan 1.433 nghìn ha, Ấn Độ 6.981 nghìn ha.
Trên thế giới hiện nay sử dụng khoảng 63-65% diện tích trồng ngô lai.
Các nước phát triển có trình độ thâm canh cao, cây ngô trồng trên diện tích lớn,

12
sử dụng chủ yếu 100% các giống ngô lai, phần lớn là lai đơn và lai kép có ưu thế
lai cao. Ở các nước đang phát triển, việc trồng ngô đã đạt được những thành tựu
nổ bật, bình quân sử dụng ngô lai chiếm 38% như Đài Loan, Bắc Triều Tiên,
Brazil, Mehico, Đặc biệt là Trung Quốc sử dụng ngô lai với diện tích 22 triệu
ha, ngô lai chiếm 96%. Ở các nước kém phát triển, việc sử dụng ngô lai chỉ
chiếm 10-20% diện tích, phần còn lại là các giống địa phương, do đó dẫn đến
năng suất thấp (khoảng 15-30 tạ/ha), hiệu quả trồng ngô thấp.
Theo CIMMYT-1993-1994 những nước có tỷ lệ diện tích ngô hạt so với
tổng diện tích cây cốc là: Angola (83%), Kenya (80%), Malaixia (95%),
Zimbabue (73%), Zaire (70%), Nam Phi (60%), Mêhicô (71%), Philipines
(52%), Venezula (56%).
Những năm gần đây trên thế giới đã sử dụng nhiều giống ngô theo hướng
ngô rau (ngô bào tử) như Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Mỹ La Tinh, Nam
Phi, Một số nước chủ lực phát triển ngô rau là Mỹ, Hồng Kông Xingapre,
Australia, Malaixia, Pháp, Đức, Đặc biệt là Thái Lan là nước đi đầu trong lĩnh
vực này đã xuất khẩu 363.761 tấn, thu 33 triệu USD.
Theo thống kê từ 1.901 diện tích trồng ngô của toàn thế giới chỉ đạt 62
triệu ha, sản lượng 82 triệu tấn. Đến năm 1950 diện tích là 86 triệu ha, sản lượng
145 triệu tấn, năm 1996 diện tích là 140 triệu ha và sản lượng đạt 576 triệu tấn.
Ở châu Á năm 1994 ngô đạt năng suất 3,61 tân/ha, đứng thứ tư trên thế
giới (so với năm 1980 tăng 1,33 triệu tấn/ha). Diện tích 38,8 triệu ha, đứng thứ
hai trên thế giới. Trong đó Đông Nam Á có sản lượng 18 triệu tấn, Indonexia có
gần 9 triệu tấn, Việt Nam có trên 1 triệu tấn.
Ngành sản xuất ngô thế giới tăng lên liên tục từ đầu thế kỷ 20 đến nay, nhất
là trong hơn 40 năm gần đây, ngô là cây trồng có tốc độ tăng trưởng về năng suất
cao nhất trong các cây lương thực chủ yếu. Vào năm 1961 năng suất ngô trung
bình của thế giới chỉ chưa đến 20 tạ/ha, năm 2004 đã đạt 49,9 tạ/ha. Năm 2007,
theo USDA, diện tích ngô đã vượt qua lúa nước, với 157 triệu ha, năng suất 4,9
tấn/ha và sản lượng đạt kỷ lục với 766,2 triệu tấn. (FAOSTAT, USDA 2008),

13
Kết quả trên có được, trước hết là nhờ ứng dụng rộng rãi lý thuyết ưu thế
lai trong công tác chọn giống, đồng thời không ngừng cải thiện các biện pháp kỹ
thuật canh tác. Đặc biệt, từ 10 năm nay, cùng với những thành tựu mới trong
chọn tạo giống lai nhờ kết hợp phương pháp truyền thống với công nghệ sinh
học thì việc ứng dụng công nghệ cao trong canh tác cây ngô đã góp phần đưa sản
lượng ngô thế giới vượt lên trên lúa mì và lúa nước. Với 52% diện tích trồng
bằng giống được tạo ra bằng công nghệ sinh học, năng suất ngô nước Mỹ năm
2005 đạt hơn 10 tấn/ha trên diện tích 30 triệu hecta. Năm 2007, diện tích ngô
chuyển gen trên thế giới đã đạt 35,2 triệu ha, riêng ở Mỹ đã lên đến 27,4 triệu ha,
chiếm 73% trong tổng số hơn 37,5 triệu ha ngô của nước này
(GMO.COMPASS).
Bảng 2.1: Diện tích, năng suất,sản lượng ngô trên thế giới từ 1961 – 2008
Năm Ngô
Diện tích
(1000ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(1000tấn)
1961 104,8 2,0 204,2
2004/05 145,0 4,9 714,8
2005/06 145,6 4,8 696,3
2006/07 148,6 4,7 704,2
2007/08 157,0 4,9 766,2
(Nguồn: Sokhoahoccn.angiang.gov.vn)
Như vậy chúng ta thấy rằng việc phát triển sản xuất ngô trên thế giới là rất
mạnh mẽ cả về diện tích lẫn năng suất. Tình hình sử dụng các giống ngô cũng rất
đa dạng, trong đó xu hướng chủ yếu là phát triển gieo trồng các giống ngô lai
nhằm đạt năng suất cao mang lại hiệu quả kinh tế cho người trồng ngô.

2.2.2. Tình hình phát triển sản xuất ngô trong nước:
Ngô được đưa vào Việt Nam khoảng 300 năm trước, do Trần Thế Vinh đi
sứ từ Trung Quốc mang về và được trồng đầu tiên ở hạt Sơn Tây, sau đó được
14
truyền sang vùng khác. Cây ngô là cây lương thực quan trọng thứ hai sau lúa ở
Việt Nam. Ngô được trồng trong các điều kiện sinh thái rất khác nhau, từ 8-23
0
C.
Địa bàn trồng ngô trong nước trải rộng trong nhiều vùng và bị chia cắt rõ rệt do
các điều kiện tự nhiên như: Địa hình, thời tiết, thiên văn, Ngay trong một vùng,
sự biến động về mùa vụ trong năm cũng rất lớn và phức tạp. Ngô được trồng hầu
hết trong các vùng và các vụ tuỳ thuộc vào sự biến động đồng thời của chế độ
mưa và tưới tiêu sẵn có như: Ở các tỉnh phía bắc có ngô xuân, ngô hè thu, ngô
đông và ngô đông xuân; ở các tỉnh phía nam các vụ ngô lệ thuộc vào lượng mưa
và chủ yếu trên diện tích hưởng nước trời: Ngô vụ 1, ngô vụ 2 trong mùa mưa,
ngô vụ 3 cuối mùa mưa và đầu mùa khô.
Theo Lê Quý Đôn, mỗi vùng sản xuất do nhu cầu của thực tế đã chọn và
bảo tồn cho mình những loại ngô khác nhau như: Nghệ An chủ yếu là ngô hạt
trắng, Lang Sơn có đủ màu ( Bùi Huy Giáp, 1998 ).
Theo thống kê tháng 4/1946, sản xuất ngô tăng 1,9 tấn, sản lượng tăng 2,3
lần so với bình quân năm 1938- 1943 ( Nguyễn Trần Trọng, 1977 là nhờ tiến bộ
kỹ thuật mà năng suất ngô đã được cải thiện).
Những năm gần đây nhờ có những chính sách khuyến khích và nhiều tiến
bộ kỹ thuật, cây ngô đã có bước tiến về diện tích, năng suất và sản lượng. Từ
những năm 1985 - 1993 năng suất ngô nước ta nằm trong khoảng 1,47 - 1,77
tấn/ha, năng suất này còn thấp hơn trung bình các nước đang phát triển, nguyên
nhân chính là do trồng các giống ngô năng suất thấp.
Trong thời gian qua nước ta có những bước chuyển biến quan trọng trong
nghề trồng ngô và việc chuyển từ các giống ngô địa phương, các giống tự do cải
tiến sang trồng ngô lai. Đồng thời các thí nghiệm khảo nghiệm giống ngô nhập

nội cũng như chọn tạo các giống lai quy ước phát triển mạnh mẽ. Năm 1991
nước ta đã nhập giống ngô lai đơn DK888 của công ty Kekald (Mỹ), giống này
tỏ ra thích hợp và cho năng suất cao. Năm 1994 nước ta đã trồng thử nghiệm
giống ngô lai kép B.9681 của công ty liên doanh Bioseed Việt Nam, giống này
cho năng suất cao ở các tĩnh phía bắc. Diện tích ngô lai nước ta từ 500 ha (năm
1991) chiếm 0,11% diện tích ngô cả nước lên 450.000ha (năm 2000 chiếm
15
63,0% diện tích ngô cả nước. Do áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật đặc
biệt là việc sử dụng các giống ngô lai vào sản xuất nên năng suất ngô nước ta
tăng lên đáng kể. Năm 1991 nước ta bắt đầu sử dụng ngô lai, năng suất bình
quân cả nước là 15,6 tạ/ha, đến năm 2003 là 32,2 tạ/ ha. Đặc biệt nhiều tỉnh đạt
năng suất bình quân khá cao trong năm 2003 như: Đà Nẵng 60 tạ/ha, An Giang
57,7 tạ/ha.
Tình hình đưa ngô lai vào nước ta trong những năm đầu rất khó khăn do
nhiều địa phương chưa có dịp tiếp xúc và chưa hiểu biết về giá trị kinh tế của
ngô lai. Trong những năm gần đây nhà nước đã có những chính sách thích hợp
đưa ngô lai vào sản xuất vì vậy diện tích ngô lai đã tăng nhanh. Thực tế cho thấy
về tốc độ tăng năng suất vùng phía nam nhanh hơn vùng phía bắc. Hiện nay các
vùng trông ngô nhiều, có tỷ lệ diện tích trồng ngô cao trên tổng diện tích canh
tác là vùng Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Gần đây nghề trồng ngô ở nước ta đã
có những bước chuyển biến đáng kể, nhưng chỉ là bước khởi động chưa mạnh
mẽ trên phạm vi cả nước.
Theo thống kê của Bộ Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn, diện tích
trồng ngô lai của cả nước năm 1995 là 163.000 ha chiếm 29% diện tích trồng
ngô: các tỉnh miền Bắc có 84,9 nghìn ha chiếm 22,6% diện tích; các tỉnh miền
Nam có 781 ha chiếm 43% diện tích. Đến năm 1996 thì diện tích ngô lai tăng lên
chiếm 40% diện tích, các tỉnh phía Bắc chiếm 31% diện tích; các tỉnh miền Nam
chiếm 59% diện tích. Về năng suất ngô lai tăng hơn so với các giống thụ phấn tự
do khoảng 17 tấn/ha. Năng suất ngô lai 1995 là 38,6 tạ/ha, năm 1996 là 39,7
tạ/ha.

Năng suất điển hình bình quân trong 3 năm là 1994, 1995, 1996 của một
số tỉnh là rất cao như Đăclak là 53,7 tạ/ha, Đồng Nai là 55 tạ/ha, Lâm Đồng là
56,9 tạ/ha và An Giang là 78,2 tạ/ha. Trong đó có các tỉnh có tỷ lệ ngô lai trên
diện tích trồng ngô lớn như Đồng Nai chiếm 97%, Trà Vinh chiếm 80%, Đaclak
chiếm 72,2%, Hà Tây chiếm 67%, Bà Rịa - Vũng Tàu chiếm 83,5%, Vĩnh Phú
chiếm 58,7%.
16
Theo Trần Hồng Uy, Nguyễn Hữu Phúc, Phan Xuân Hoà, Nguyễn Thị Ba,
Nguyễn Mạnh Thưởng và cộng tác viên, vụ đông xuân năm 1975 giống ngô
LVN10 được trồng ở các tỉnh, năm 1998 có khoảng 3.000 ha giống này trồng
vào tất cả các vụ ở Vĩnh Phúc, Hà Tây, Phú Thọ, Hà Nội, Nghệ An, năng suất
đạt từ 7 - 8 tấn/ha.
Theo nghiên cứu của PTS. Phạm Hồng Quảng, ở các tỉnh Nam Bộ và Tây
Nguyên có các giống DK888, LVN10 là những giống chủ lực, còn các tỉnh phía
Bắc và miền Trung có các giống Pacific 11, Bioseed 1681, P3011, là các giống
có năng suất từ 9 - 10 tấn/ha và được nông dân trồng nhiều.
Ở nước ta ngô được trồng từ Bắc chí Nam, từ đồng bằng đến miền núi, có
thể trồng nhiều vụ trong năm với các giống ngô lai và các giông ngô địa phương
phù hợp với chế độ tưới nước, lượng mưa, điều kiện thời tiết khí hậu ở từng
vùng. Diện tích ngô ở nước ta tập trung chủ yếu ở những vùng bãi ven sông có
đất phù sa màu mỡ. trong những năm gần đây ngô đã được phát triển mạnh mẽ
về diện tích, năng suất và sản lượng được thể hiện ở bảng số liệu sau đây:
17
Bảng 2.2: Tình hình sản xuất ngô ở Việt Nam từ năm 1985 - 2006
Năm Diện tích
(1000 ha)
Năng suất
(tấn/ha)
Sản lượng
(1000 tấn)

1985 397,3 1,47 587,1
1986 400,0 1,42 569,8
1987 405,6 1,38 561,0
1988 510,5 1,60 814,8
1989 509,4 1,65 837,9
1990 431,8 1,55 671,0
1991 447,6 1,50 672,9
1992 578,0 1,56 747,9
1993 496,5 1,77 882,2
1994 534,7 2,14 1.143,9
1995 556,8 2,13 1.184,2
1996 615,2 2,50 1.536,7
1997 662,9 2,49 1.650,6
1998 649,7 2,48 1.612,0
1999 694,8 2,55 1.753,1
2000 730,2 2,75 2.005,9
2001 729,5 2,96 2.161,7
2002 816,4 3,08 2.511,2
2003 912,7 3,44 3.136,3
2004 990,4 3,49 3.453,6
2005 995,0 3,52 3.500,0
18
2006 974,0 3,62 3.820,0
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2006)
Bên cạnh việc mở rộng diện tích, áp dụng tiến bộ công nghệ sinh học, đặc
biệt đưa ra các giông ngô lai năng suất cao, phẩm chất tốt và sản xuất đại trà, do
đó đã hình thành một số vùng trồng ngô tập trung có quy mô lớn như vùng Đông
Nam Bộ đạt 30 vạn tấn, miền trung du Bắc Bộ đạt 50 vạn tấn, đưa cây ngô trở
thành một trong những cây lương thực tiềm năng và triển vọng.
Bảng2.3: Tiến bộ sản xuất ngô lai của Việt Nam giai đoạn 1985 – 2000.

Chỉ tiêu Diện tích
(1000 ha)
Năng suất
( tạ/ha)
Sản lượng
(1000 tấn)
Ngô lai
Diện tích % so tổng
diện tích
1985 392,7 14,0 584,9 0 0,00
1990 432,0 15,5 671,0 5 -
1991 447,0 15,6 672,0 500 0,11
1992 457,4 16,0 707,2 12,800 2,80
1993 502,0 18,0 900,0 50,000 10,00
1994 511,0 19,0 1.000,0 100,000 20,00
1995 550,8 21,0 1.177,2 140,000 25,10
1996 600,0 23,2 1.400,0 230,000 38,30
1997 662,9 24,9 1.650,6 300,000 45,20
1998 644,7 24,8 1.612,0 350,000 54,20
1999 691,8 25,3 1.753,1 380,000 54,90
2000 714,0 27,0 1.929,5 450,000 63,00
( Nguồn: Cây ngô nghiên cứu và sản xuất - Trấn Văn Minh, 2004)
2.2.4. Tình hình sản ngô của tỉnh Thừa Thiên Huế.
Cả nước nói chung và tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng, cây ngô được trồng
khắp nơi từ đồng bằng cho đến miền núi và có thể trồng nhiều vụ trong năm đối
với giống ngô lai và giống ngô địa phương. Trước đây, do điều kiện kinh tế khó
19
khăn, trình độ sản xuất kém, khả năng thâm canh thấp nên chủ yếu dùng giống
ngô địa phương. Những năm gần đây đã có nhiều giống ngô lai được đưa về
trồng tại tỉnh, kết hợp với biện pháp thâm canh nên năng suất đạt khá cao.

Bảng 2.4: Tình hình sản xuất ngô ở tỉnh Thừa Thiên Huế.
Chỉ tiêu
Năm
Diện tích
(ha)
Năng suất
(Tấn/ha)
Sản lượng
(tấn)
2000 1.200 2,250 2.700
2001 1.400 2,430 3.400
2002 1.400 2,790 3.900
2003 1.300 3,000 3.900
2004 1.400 3,000 4.200
2005 1.800 2,830 5.100
2006 1.800 3,500 6.300
(Nguồn: Số liệu ở cục thống kê tỉnh Thừa Thiên Huế)
Qua bảng thống kê cho thấy năng suất và sản lượng ngô ở tỉnh Thừa Thiên
Huế tăng lên rõ rệt nhất là năm 2006, năm 2000 năng suất 2,250 tấn/ha nhưng
đến năm 2006 năng suất tăng lên 3,500 tấn/ha tăng 1,25 tấn/ha. Diện tích cũng
tăng dần qua các năm nhưng không đáng kể nguyên nhân là do việc mở rông
diện tích đất cho các ngành công nghiệp và du lịch nên cần phải thu hẹp diện tích
nông nghiệp lại
Vấn đề đặt ra cho tỉnh Thừa Thiên Huế trong thời gian này là sự phát triển
ngô cần phải quan tâm hàng đầu, nhất là về giống, đầu tư xây dựng đội ngũ cán
bộ khuyến nông ở vùng sâu,vùng xa nhằm giúp cho nhân dân tiếp cận được kỹ
thuật trồng và biện pháp phòng trừ sâu bệnh hại ngô.
2.2.5. Tình hình sản xuất ngô của thành phố Huế.
20
Thành phố huế là một khu vực chủ yếu tập trung các ngành công nghiệp

và dịch vụ du lịch còn ngành nông nghiệp chiếm tỷ lệ thấp hơn và chỉ tập trung ở
các vùng ven thành phố mặc dù vậy trong những năm qua nông nghiệp thành
phố Huế cũng có những bước chuyển biến đáng kể trong đó việc trồng ngô là
một phần quyết định đến sự chuyển biến đó. Trong những năm gần đây các vùng
trồng ngô trên địa bàn thành phố Huế rất coi trọng việc trồng ngô, đặc biệt là ngô
thực phẩm.Vì vậy mặc dù diện tích trồng ngô không có sự thay đổi lớn nhưng
cho thấy hiệu quả kinh tế vẩn ổn định. Tình hình sản xuất ngô ở thành phố Huế
được thể hiện ở bảng sau:
Bảng 2.5: Tình hình sản xuất ngô của thành phố Huế.
Chỉ tiêu
Năm
Diện tích
(ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(tấn)
200
4
Cả năm 94 20,5 194,9
Vụ đông xuân 69 21 144,9
Vụ hè thu 25 20 50
2005
Cả năm 90 20 184
Vụ đông xuân 65 21 136,5
Vụ hè thu 25 19 47,5
2006
Cả năm 113,4 19,5 222,4
Vụ đông xuân 69,2 20 138,4
Vụ hè thu 44,2 19 84

2007
Cả năm 110 22,5 250
Vụ đông xuân 80 23 184
Vụ hè thu 30 22 66
( Nguồn: Phòng kinh tế thành phố Huế năm 2007 )
21
PHẦN III:
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu.
- Tìm hiểu các yếu tố tự nhiên, xã hội ảnh hưởng đến quá trình sản xuất
ngô
- Các hộ nông dân đang sản xuất ngô trong địa bàn tại xã DiÔn Hoµng
- Các yếu tố kỹ thuật và phương thức luân canh trong quá trình sản xuất
ngô
- Các giống đang được sản xuất trên địa bàn xã DiÔn Hoµng
3.1.2 Phạm vi nghiên cứu.
Theo dõi điều tra về điều kiện kinh tế, điều kiện tự nhiên và tình hình sản xuất
ngô ở xã DiÔn Hoµng.
3.2. Nội dung nghiên cứu
- Điều tra đánh giá thực trạng về điều kiện tự nhiên, kinh tế-xã hội
- Tìm hiểu điều kiện khí hậu, thuỷ văn
- Đánh giá tình hình sử dụng đất nông nghiệp ở xã DiÔn Hoµng qua một số
năm từ 2005 – 2007
- Diễn biến về diện tích, năng suất, sản lượng ngô qua một số năm từ 2005
– 2007
- Đánh giá tình hình sản xuất ngô của xã như:
+ Thời gian sinh trưởng của một số giống ngô
+ Thời vụ gieo trồng và khoảng cách mật độ trồng

22
- Điều tra một số đối tượng sâu bệnh hại chính trên các giống ngô và biện
pháp phòng trừ
- Khả năng đầu tư phân bón và tưới nước cho cây ngô
- Đánh giá hiệu quả của việc trồng ngô
- Một số biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất ngô đang được áp
dụng trên địa bàn toàn xã DiÔn Hoµng.
3.3. Phương pháp nghiên cứu
3.3.1. Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp từ các cơ quan liên quan
- Cục thống kê tỉnh NghÖ An.
- Phòng N«ng nghiÖp vµ ph¸t triÓn n«ng th«n huyÖn DiÔn ch©u.
- Phßng thèng kª huyÖn DiÔn Ch©u.
- Ban nông nghiệp xã DiÔn Hoµng.
- Ban địa chính x· DiÔn Hoµng.
3.3.2. Điều tra trực tiếp trên các hộ nông dân theo phiếu điều tra (có mẫu phiếu
điều tra đã được chuẩn bị trước)
3.3.3. Phương pháp quan sát điều tra trên đồng ruộng
3.3.4. Sau khi thu thập các số liệu điều tra thì tiến hành tính toán xử lý số liệu,
phân tích và đánh giá các số liệu thu thập được
3.3.5. Các chỉ tiêu điều tra
a. Điều kiện tự nhiên
b. Điều kiện kinh tế xã hội
c. Tình hình sử dụng đất trồng cây hàng năm
d. Tình hình sản xuất ngô ở trong xã
- Diễn biến về năng suất, diện tích và sản lượng ngô trong xã từ 2005 -
2007
- Thời vụ gieo trồng, đất trồng ngô, khoảng cách mật độ
- Tình hình sử dụng đầu tư phân bón và nước tưới
- Hiệu quả kinh tế của việc sản xuất ngô
e. Điều tra tình hình sử dụng giống ngô ở xã Hương Long

23
PHN IV:
KấT QU NGHIấN CU V THO LUN.
4.1. IU KIN T NHIấN V IU KIN KINH T X HI.
4.1.1. iu kin t nhiờn:
4.1.1.1. V trớ a lý:
V trớ a lý úng vai trũ cc k quan trng trong sn xut nụng nghip nú
l yu t nh hng trc tip n quỏ trỡnh sn xut, quỏ trỡnh s dng t ai,
lao ng, phong tc tp quỏn ca nhõn . Xã Diễn Hoàng là một xã thuần nông
nghiệp thuộc phía bắc huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ an. Cách trung tâm huyện
Diễn Châu 19 km c gii hn:
- Phớa Tõy giỏp vi xó Diễn Yên, Diễn Trờng huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
- Phớa Bc giỏp với xã Quỳnh Diễn, xã Quỳnh Thọ huyện Quỳnh Lu, Nghệ An.
- Phớa ụng giỏp vi xã Quỳnh Thọ huyện Quỳnh Lu và xã Diễn Hùng huyện
Diễn châu, tỉnh Nghệ An.
- Phớa Nam giỏp vi xã Diễn Mỹ huyện Diễn châu,tỉnh Nghệ An.
Ton xó cú din tớch 650 ha, trong ú din tớch t nụng nghip chim 448ha.
Xó cú
Xó cú
4 Hợp tác xã nông nghiệp
4 Hợp tác xã nông nghiệp:


- Hợp tác xã Hoàng Phú.
- Hợp tác xã Hoàng Tiến.
- Hợp tác xã Hoàng Tân.
- Hợp tác xã Hoàng Nam.
Và 18 xóm ( Theo thứ tự sắp xếp từ 1 đến 18).
24
4.1.1.2.Thời tiết khí hậu:

Khí hậu tØnh NghÖ An, hàng năm diễn biến thời tiết rất phức tạp
Khí hậu thuộc khu vực nhiệt đới gió mùa, mang tính chuyển tiếp từ á xích đạo
đến nội chí tuyến gió mùa, chịu ảnh hưởng khí hậu chuyển tiếp giữa miền Bắc và
miền Nam nước ta.
Chế độ nhiệt: NghÖ An có mùa khô nóng và mùa mưa ẩm lạnh. Nhiệt độ
trung bình hàng năm khoảng 26°C - 28°C.
+ Mùa nóng: từ tháng 4 đến tháng 9, chịu ảnh hưởng của gió Tây Nam nên
khô nóng, nhiệt độ cao. Nhiệt độ trung bình các tháng nóng là từ 29°C - 32°C,
tháng nóng nhất (tháng 5, 6) nhiệt độ có thể lên đến 38°C- 40°C.
+ Mùa lạnh: Từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau, chịu ảnh hưởng của gió mùa
Đông bắc nên mưa nhiều, trời lạnh. Nhiệt độ trung bình về mùa lạnh là 18°C -
20°C, có thời điểm xuống 9-12
0
C.
Với nhiệt độ các tháng trong năm trên, có ảnh hưởng đến cơ cấu thời vụ của
các loại cây trồng. Vì vậy, việc bố trí thời vụ cho cây trồng là rất quan trọng vì
nó liên quan đến năng suất, sâu bệnh, hiệu quả kinh tế do chênh lệch giá bán
giữa các vụ trong năm.
- Ẩm độ không khí: Ẩm độ không khí là một trong yếu tố không kém phần
quan trọng trong việc cơ cấu các loại cây trồng.
NghÖ An là vùng có ẩm độ không khí tương đối cao, Víi ®é Èm trung bình
81%-83%.
Ẩm độ không khí trung bình các tháng trong năm lại nghịch với nhiệt độ
trung bình các tháng trong năm. Cụ thể đối với nhiệt độ, các tháng thấp nhất là
tháng 11,12,1, 2, 3 .Trong khi đó ẩm độ của các tháng này lại cao. Trái lại các
tháng 4, 5, 6, 7, 8, 9, có nhiệt độ trung bình cao thì ẩm độ trung bình lại thấp.
- Chế độ mưa: Mưa là một yếu tố quan trọng trong việc cung cấp nước cho
cây trồng nó ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng và khả năng chống chịu sâu
bệnh của cây trồng.Lượng mưa trung bình ở Huế khoảng 2500mm/năm. Mùa
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×