Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Sử dụng các thuốc chống viêm không Steroid (Kỳ 5) pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.51 KB, 5 trang )

Sử dụng các thuốc chống viêm không Steroid
(Kỳ 5)
TS. Đoàn Văn Đệ (Bệnh học nội khoa HVQY)
4.4. Biến chứng thận:
Thuốc chống viêm không steroid có thể làm giảm mức lọc creatinin,
tăng nồng độ creatinin máu. ở những bệnh nhân có suy chức năng thận, sẽ gây
giảm thể tích, giảm dòng máu đến thận do ức chế tác dụng co mạch thận của
prostaglandin, creatinin đôi khi trở về mức bình thường ngay cả khi vẫn tiếp tục
dùng thuốc. Vì vậy các thuốc chống viêm không steroid phải cân nhắc thận
trọng ở những bệnh nhân có tình trạng suy chức năng lọc, bệnh nhân giảm thể
tích máu tuần hoàn hoặc ở người già vì hay có những rối loạn chức năng kể
trên. ở những bệnh nhân bị bệnh khớp thường phối hợp tổn thương thận như bệnh
luput ban
đỏ hệ thống, xơ cứng bì hệ thống cũng cần phải hết sức thận trọng. Viêm
cầu thận cấp, hội chứng thận hư có thể xuất hiện khi dùng thuốc chống viêm
không steroid, nhưng nguy cơ hay gặp nhất là dùng fenoprofen.
Bệnh nhân có thể khỏi hoàn toàn khi ngừng thuốc. Nhưng đôi khi phải
lọc máu, hoặc dùng corticoid liều cao cho đến khi hồi phục chức năng thận.
Suy thận cấp, tăng kali máu có thể xuất hiện khi dùng indomethacin và
triapterine kết hợp.
4.5. Tác dụng phụ trên gan:
Tăng một hay nhiều men gan do tác dụng độc tế bào gan có hồi phục, gặp
khoảng 15% số bệnh nhân dùng thuốc chống viêm không steroid, nhất là với
diclofenac, transaminase có thể trở về mức bình thường sau khi ngừng thuốc. ít
khi thuốc gây rối loạn chức năng gan nặng làm tăng bilirubin, kéo dài thời gian
prothrombin, những trường hợp này cần phải cắt thuốc. Phenylbutazon gây viêm
đường mật, viêm gan dạng u hạt, có thể dẫn đến tử vong
trong một số trường hợp. Trong trường hợp dùng thuốc benoxaprofen có
thể gây độc với tế bào gan dẫn đến tử vong do hội chứng gan thận nên thuốc đã
bị loại khỏi thị trường. Do đó khi dùng thuốc chống viêm không steroid cần
theo dõi men transaminase định kì.


4.6. Tác dụng chống đông máu:
Thuốc chống viêm không steroid có thể có 2 loại tác dụng chống đông.
- Chống ngưng kết tiểu cầu do tác dụng ức chế các protaglandin cần thiết
để hoạt hoá tiểu cầu. Vì tiểu cầu không có mitochondria và không thể tổng
hợp bổ sung men cyclooxygenase, mà quá trình acetyl hoá men này do
aspirin là không hồi phục nên dẫn đến giảm ngưng kết tiểu cầu dưới tác dụng
của các kích thích. Tác dụng ức chế ngưng kết tiểu cầu của aspirin kéo dài 10-
12 ngày cho đến khi hình thành các tiểu cầu mới chưa tiếp xúc với aspirin thay
cho các tiểu cầu đã bị ức chế. Đặc tính này được sử dụng đề phòng huyết khối
và tắc mạch với liều thấp (80mg/ngày). Ngược lại các thuốc chống viêm không
steroid khác ức chế cyclo-oxygenase có hồi phục. Nên các tác dụng trên tiểu cầu
chỉ tồn tại khi còn duy trì nồng độ thuốc trong máu.
- Loại tác dụng khác xuất hiện khi các thuốc chống viêm không steroid
chiếm chỗ gắn warfarin vào vị trí trên protein huyết tương vận chuyển. Do đó
làm tăng tác dụng chống
đông của warfarin. Tác dụng này rõ nhất khi dùng phenylbutazone và
salicylat ở liều gây
độc. Đề phòng chảy máu khi mổ cần phải ngừng aspirin trước 2 tuần,
nhưng các thuốc khác chỉ cần ngừng trước mổ bằng khoảng thời gian để thuốc
đào thải hết khỏi cơ thể. Ví dụ: tolmotil, ibuprofen có thời gian bán hủy cần
ngưng thuốc trước mổ 24 giờ vì thuốc đã đào thải hết và không còn tác dụng
chống ngưng kết tiểu cầu.
4.7. Các tác dụng phụ khác:
Những tác dụng phụ ít gặp hơn đó là các dạng phản ứng da, các dạng
ban, hội chứng tăng nhậy cảm với aspirin như viêm mũi, polyp mũi, hen. Phản
ứng quá mẫn có thể liên quan với tolimetin, zomepirac nhưng cũng có thể xảy
ra với các thuốc chống viêm khác. Thiếu máu, giảm bạch cầu hạt, giảm tiểu
cầu ít gặp khi dùng các thuốc chống viêm không steroid nhưng phenylbutazon
hay gây ra tác dụng phụ này.
Những biến chứng này đôi khi dẫn đến tử vong nhất là ở người già trên

60 tuổi. Dùng salicylate có thể gây ù tai, điếc, khi quá liều có nhiều triệu chứng
thần kinh, nặng hơn dẫn
đến hôn mê và tử vong. Quá liều của các thuốc chống viêm không
steroid khác ít độc hơn so với tình trạng quá liều do saylicylate hoặc
acetaminophen. Đau đầu có thể gặp khi dùng indomethacin, co giật xảy ra ở
người già khi dùng indomethacin, naproxen, hoặc ibuprofen.
- Viêm màng não vô khuẩn có thể gặp ở bệnh nhân luput ban đỏ hệ
thống được điều trị bằng ibuprofen hoặc các thuốc chống viêm khác.
5. Một số thuốc chống viêm mới (thuốc ức chế chọn lọc COX2).
- Dựa trên lý thuyết COX2-các thuốc ức chế chọn lọc COX2 đã được
nghiên cứu và áp dụng trong lâm sàng.
Hiện nay thống nhất dùng tên thuốc chống viêm không steroid ức chế
chọn lọc COX2 để chỉ những thuốc có tác dụng điều trị tương đương các
thuốc chống viêm kinh điển nhưng ít có biến chứng trên ống tiêu hoá. Các tên
gọi ức chế chuyên biệt, các coxib không phản ánh được đầy đủ bản chất của các
thuốc thuộc nhóm này.
Meloxicam (mobic 7,5 mg; 15 mg) là thuốc ức chế chọn lọc COX2 có
sớm nhất. Các thuốc rofecoxib (vioxx), celecoxib là những thuốc được xếp
vào nhóm ức chế chọn lọc COX2. Hiện tại mobic được áp dụng rộng rãi trong
điều trị các bệnh khớp tác dụng chống viêm giảm đau tương tự diclofenac,
nhưng tác dụng phụ trên ống tiêu hoá rất ít gặp so với diclofenac.
- Rofecoxib 25 mg, celecoxib 200 mg đã bắt đầu được sử dụng trong lâm
sàng, giảm tác dụng phụ trên ống tiêu hoá so với các thuốc chống viêm kinh
điển. Nhưng tác dụng phụ trên tim mạch đang được nghiên cứu.


×