Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

phát huy vai trò của giai cấp công nhân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (190.84 KB, 33 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Mục đích và nhiệm vụ của tiểu luận
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
5. Kết cấu của đề tài
Chương I
KHÁI QUÁT MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN
1.1. Khái niệm giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của nó
1.1.1. Khái niệm giai cấp công nhân
1.1.2. Đặc điểm của giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của nó
1.1.2.1. Đặc điểm của giai cấp công nhân
1.1.2.2. Sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1
Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, giai cấp công
nhân Việt Nam mà đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam quan vinh luôn nêu
cao bản chất cách mạng, lãnh đạo toàn dân tộc làm nên những thắng lợi có ý nghĩa
lịch sử vô cùng to lớn. Ngày nay, trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta lại lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân
dân cả nước tiếp tục làm nên những kỳ tích mới. Trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, vai trò cách mạng, vai trò lãnh đạo, tính tiên phong của giai
cấp công nhân càng trở nên quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự thành công
và chiều hướng phát triển của đất nước.
Việt Nam tiến hành công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện thế
giới có nhiều biến động. Sự phát triển không ngừng của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ , xu hướng toàn cầu hóa cùng với kinh tế thị trường trên thế giới không
chỉ tác động, điều chỉnh các hoạt động kinh tế, mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến mọi


vùng thành thị, nông thôn, mọi lĩnh vực trong đời sống và hoạt động của con
người.
Bên cạnh những tác động tích cực thì mặt trái của kinh tế thị trường, của xu hướng
toàn cầu hóa làm cho nhiều người chỉ quan tâm đến lợi ích vật chất, lợi ích cá
nhân. Nó sinh ra thói vụ lợi, thực dụng, vị kỷ và chủ nghĩa cá nhân cực đoan, đề
cao một chiều các giá trị vật chất, lối sống tiêu dùng, tôn thờ đồng tiền, xem
thường đạo đức, văn hóa tinh thần, dẫn đến tình trạng một số công nhân không tích
cực tham gia các hoạt động xã hội, không quan tâm đến vấn đề chính trị, tư tưởng,
chứa đựng những mầm mống phân hóa giàu nghèo, phân hóa lợi ích và trình độ
Điều này tác động không nhỏ đến tính thống nhất và sức mạnh của giai cấp công
nhân với tư cách là giai cấp ưu tú mang sứ mệnh lịch sử là giai cấp lãnh đạo.
Trước tình hình đó, vấn đề đặt ra hiện nay là làm thế nào để phát huy những yếu tố
tích cực cũng như hạn chế những điểm còn hạn chế của công nhân trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, để giai cấp công nhân có thể tiếp tục làm
tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang lãnh đạo thắng lợi sự nghiệp cách mạng của dân tộc
Việt Nam, xứng đáng là lực lượng tiên phong thực sự của toàn dân tộc là việc làm
hết sức thiết thực và cấp bách.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
a) Mục đích
2
Tiểu luận làm rõ vai trò, sứ mệnh lịch sử, những nét tích cực và hạn chế của
giai cấp công nhân Việt Nam dưới sự tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở đó nêu ra một số giải pháp nhằm xây
dựng giai cấp công nhân lớn mạnh toàn diện, đáp ứng nhu cầu của đất nước, xứng
đáng là lực lượng lãnh đạo đi đầu của toàn xã hội.
b)Nhiệm vụ
Một là, khái quát một số vấn đề về giai cấp công nhân, về quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và ảnh hưởng của nó đến vai trò và chất lượng của giai
cấp công nhân Việt Nam.
Hai là, đưa ra một số phương hướng, giải pháp nhằm xây dựng giai cấp công

nhân Việt Nam trưởng thành, vững mạnh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a) Đối tượng
Tiểu luận nghiên cứu một số vấn đề về giai cấp công nhân nói chung, về quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam và thực trạng giai cấp công
nhân Việt Nam trong quá trình ấy.
b) Phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận tập trung nghiên cứu thực trạng chất lượng, số lượng và một số vấn
đề có liên quan của giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa giai đoạn hiện nay.
4.Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
a) Cơ sở lý luận
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin; quan điểm, đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước ta về giai cấp công nhân.
b) Cơ sở thực tiễn
Ảnh hưởng của Phật giáo đến nhân sinh quan người Việt trong giai đoạn hiện
nay.
3
c)Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận sử dụng phương pháp tổng hợp, thu thập và phân tích tài liệu ;
phương pháp quan sát kết hợp với sử dụng phương pháp khái quát hóa , v.v
5. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung tiểu
luận gồm 3 chương.
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN
1.1. Khái niệm giai cấp công nhân
Bàn về khái niệm giai cấp công nhân, cho tới nay, đây thực sự là vấn đề khó
và phức tạp. Những năm gần đây, trong nhiều chương trình, đề tài nghiên cứu,
nhiều hội thảo, hội nghị khoa học vấn đề này được nêu ra và tập trung luận giải.
Nhưng vẫn chưa có được một cách giải quyết thấu đáo để đi tới một định nghĩa

tương đối thống nhất về giai cấp công nhân. Bởi lẽ, định nghĩa đó phải bao quát hết
được những đối tượng là công nhân, đồng thời phải khu biệt được những đối tượng
không phải là công nhân trong thực tiễn phát triển rất đa dạng, đan xen của nền
kinh tế. Tùy thuộc vào lập trường giai cấp, thái độ chính trị, trình độ nhận thức và
phương pháp tiếp cận khác nhau mà vẫn còn những ý kiến khác nhau, thậm chí trái
ngược nhau khi đưa ra định nghĩa về giai cấp công nhân. Nhìn chung, có ba loại ý
kiến chủ đạo như sau:
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, trong thời đại ngày nay, thời đại công nghệ
thông tin, do sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học – công nghệ, do sự
4
điều chỉnh “có hiệu quả” của chủ nghĩa tư bản, đặc biệt trong lĩnh vực xã hội, giai
cấp công nhân không còn nữa, hoặc đã tan biến vào tầng lớp trí thức.
Loại ý kiến thứ hai cho rằng, giai cấp công nhân không những không biến
mất, mà còn bổ sung thêm trong thành phần của mình đội ngũ trí thức.
Loại ý kiến thứ ba cho rằng, giai cấp công nhân vẫn tồn tại và phát triển
cùng với sự phát triển của xã hội, nhưng được bổ sung những phẩm chất mới. Giai
cấp công nhân đang trong quá trình “trí thức hóa”.
Vậy, giai cấp công nhân là gì? Địa vị và sứ mệnh lịch sử của nó ra sao? Đây
là vấn đề còn đang gây nhiều tranh cãi. Chính C. Mác và Ăngghen khi nghiên cứu
về giai cấp công nhân cũng đã đặt ra câu hỏi: “ Vấn đề là ở chỗ giai cấp vô sản
thực ra là gì, và phù hợp với sự tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp vô sản buộc
phải làm gì về mặt lịch sử”.
C.Mác và Ăngghen đã dùng nhiều thuật ngữ khác nhau để nói về giai cấp
công nhân như: giai cấp vô sản, giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ dựa vào việc bán sức
lao động của mình, lao động làm thuê ở thế kỷ XIX, giai cấp vô sản hiện đại, giai
cấp công nhân đại công nghiệp,
Dù khái niệm giai cấp công nhân có nhiều tên gọi khác nhau như thế náo đi
nữa, thì theo C.Mác và Ăngghen vẫn chỉ có hai thuộc tính cơ bản:
Về phương thức lao động, phương thức sản xuất, đó là những người lao
động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công

nghiệp ngày càng hiện đại và quốc tế hóa cao.
Về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, đó là những người không
có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột
giá trị thặng dư.
Căn cứ vào hai thuộc tính cơ bản mà C.Mác và Ăngghen đã nêu ở trên, có
thể đưa ra khái niệm về giai cấp công nhân như sau:
Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển
cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển
của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao; là lực lượng lao
động cơ bản trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra
5
của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và
phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại ngày nay. Ở các nước tư bản, giai cấp
công nhân là những người không có hoặc về cơ bản không có tư liệu sản xuất, làm
thuê cho giai cấp tư sản và bị bóc lột giá trị thặng dư; ở các nước xã hội chủ nghĩa,
giai cấp công nhân là những người đã cùng nhân dân lao động làm chủ những tư
liệu sản xuất chủ yếu, là giai cấp lãnh đạo xã hội trong quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Ngày nay, thế giới đã đổi thay, bộ mặt của giai cấp công nhân đã có nhiều
thay đổi khác trước, ngay trong chính các nước tư bản chủ nghĩa và các nước theo
con đường chủ nghĩa xã hội.
1.2. Đặc điểm của giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của nó
1.2.1. Đặc điểm của giai cấp công nhân
Hiện nay, do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ và xu
hướng toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, giai cấp công nhân hiện đại đã có
cho mình những đặc điểm mới, bên cạnh những đặc điểm truyền thống từ trước đó.
Có thể khái quát những đặc điểm cơ bản, phổ biến, phản ánh bản chất của giai cấp
công nhân như sau:
Thứ nhất, giai cấp công nhân vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của nền sản
xuất công nghiệp ngày càng hiện đại, quốc tế hóa cao.

Thứ hai, giai cấp công nhân vừa là động lực chủ yếu, vừa là lực lượng lãnh
đạo quá trình chuyển biến cách mạng từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Cùng với quá trình hiện đại hóa và quốc tế hóa, xã hội hóa nền sản xuất hiện
đại, giai cấp công nhân từng bước trưởng thành về mọi mặt, cả về số lượng và chất
lượng. Giai cấp công nhân thực sự là động lực chủ yếu của cách mạng, đồng thời là
là lực lượng lãnh đạo quá trình chuyển biến cách mạng từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản trong mỗi nước cũng như toàn thế giới.
Thứ ba, giai cấp công nhân có bản chất quốc tế. Nền tảng của đặc điểm này
của giai cấp công nhân chính là từ chủ nghĩa yêu nước và truyền thống dân tộc mà
phát triển lên. Giai cấp công nhân thực hiện trọng trách lịch sử của mình trê cơ sở
liên hệ mật thiết với dân tộc và phát huy bản sắc dân tộc của mỗi nước nhằm thực
6
hiện lý tưởng, mục tiêu là tiến tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, thực
hiện đoàn kết dân tộc với đoàn kết quốc tế. Đồng thời, bản chất quốc tế của giai
cấp công nhân còn bắt nguồn từ bản chất quốc tế hóa ngày càng rộng lớn của nền
sản xuất công nghiệp hiện đại, từ tính cách mạng triệt để của giai cấp công nhân và
từ sự thống nhất lợi ích của giai cấp công nhân trên toàn thế giới, như chủ nghĩa
Mác- Lênin đã khẳng định: “ Giai cấp vô sản toàn thế giới đoàn kết lại”
Thứ tư, giai cấp công nhân có hệ tư tưởng dẫn đường là chủ nghĩa Mác-
Lênin, phản ánh cuộc đấu tranh của mình nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử toàn thế
giới: giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con
người. Giai cấp công nhân có đội tiên phong của mình là Đảng cộng sản. Đảng
mang bản chất giai cấp công nhân, của dân tộc và của loài người tiến bộ. Nhờ đó
mà giai cấp công nhân có cho riêng mình những phẩm chất cách mạng như: tính tổ
chức, tính kỷ luật, tính tiên phong và tính triệt để cách mạng.
Từ những đặc điểm nêu trên, có thể thấy rằng giai cấp công nhân là giai cấp
tiên tiến trong xã hội, mang trong mình những đặc trưng, đặc thù mà không giai
cấp nào khác có được. Chính điều này đã đưa vị trí của giai cấp công nhân ngày
càng trở nên vững mạnh hơn.
1.2.2. Sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân

Xuất phát từ địa vị kinh tế-xã hội, là sản phẩm của nền đại công nghiệp ngày
càng hiện đại và quốc tế hóa, là giai cấp tiên tiến, luôn nằm ở vị trí trung tâm của
sự phát triển xã hội, giai cấp công nhân là giai cấp mang sứ mệnh lịch sử cao cả.
Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được thể hiện như sau:
Một là, lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa và giai cấp tư sản, xóa bỏ chế độ
người bóc lột người, giành chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao
động.
Hai là, lãnh đạo, tổ chức và thực hiện quá trình xây dựng xã hội mới- xã hội
xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, thực hiện sự chuyển biến cách mạng từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi mỗi quốc gia cũng như trên
toàn thế giới thông qua đội tiên phong của mình là Đảng cộng sản.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không phải là thục hiện sự chuyển
biến từ chế độ tư hữu này sang chế độ tư hữu khác, thay đổi hình thức bóc lột này
7
sang hình thức bóc lột khác mà là xóa bỏ chế độ tư hữu những tư liệu sản xuất chủ
yếu, xóa bỏ mọi hình thức người bóc lột người để tiến tới xóa bỏ giai cấp nói
chung.
Do địa vị kinh tế- xã hội, giai cấp công nhân có khả năng liên minh với đông
đảo quần chúng lao động để tăng cường sức mạnh của mình trong cuộc đấu tranh
chống giai cấp tư sản. Quần chúng lao động chỉ được giải phóng khi liên minh với
giai cấp công nhân, chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua chính đảng
của giai cấp công nhân. Do vậy, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phong
trào của đa số, mưu cầu lợi ích cho toàn thể nhân dân lao động.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là sự thống nhất biện chứng của hai
quá trình: cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Trong đó, việc xây dựng xã hội
mới là quá trình quan trọng và quyết định nhất. Thực hiện trọn vẹn sứ mệnh lịch
sử này là vô cùng khó khăn, phức tạp, đòi hỏi giai cấp vô sản, một mặt, phải kiên
trì thực hiện sứ mệnh lịch sử trong thời gian lâu dài, mặt khác, phải thường xuyên
gắn bó với dân tộc, đoàn kết dân tộc để tạo nên sức mạnh tổng hợp, đồng thời phải
thường xuyên đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chống mọi kẻ thù của nhân dân và

tất cả những thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
Chính vì vậy, giai cấp công nhân hiện đại ngày nay càng phải thể hiện là
“giai cấp dân tộc”, “trở thành dân tộc”, “chịu trách nhiệm trước hết với dân tộc
mình”, để thực hiện tốt sứ mệnh lịch sử vẻ vang như C.Mác và Ăngghen đã
khẳng định.
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ VAI TRÒ CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
VIỆT NAM TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
ĐẤT NƯỚC
8
2.1. Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam là yêu cầu cấp bách của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Khi luận chứng về nguồn gốc quy định vai trò lịch sử của giai cấp công
nhân, chủ nghĩa Mác- Lênin đã khẳng định vai trò của đại công nghiệp, của lực
lượng sản xuất tiên tiến. Rằng, đại công nghiệp đã sản sinh ra giai cấp công nhân,
đồng thời cũng sản sinh ra cơ sở vật chất, thông qua đó, giai cấp công nhân tác
động vào tiến trình phát triển xã hội như một lực lượng chủ đạo. Cần nhận thức rõ
rằng: “đại công nghiệp” ở thời kỳ C.Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin khác xa so với “
đại công nghiệp” trong thời đại ngày nay. Tuy vậy, dù có thay đổi về trình độ và
mức độ phát triển, song đại công nghiệp vẫn là điều kiện, là cơ sở khách quan quy
định thuộc tính và vai trò lịch sử của giai cấp công nhân. Mỗi bước tiến của công
nghiệp là sự phát triển tương ứng về số lượng và chất lượng của giai cấp công
nhân.
Đối với Việt Nam, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên chủ nghĩa
xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, nghèo nàn với nền kinh tế chậm phát
triển, hậu quả chiến tranh nặng nề, lại phải tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến
lược xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta đã sớm nhận thức được việc
cần thiết phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với nước ta, chỉ
có đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa mới có thể thoát khỏi nguy cơ tụt hậu
so với các nước trong khu vực và trên thế giới, mới có thể bảo đảm an ninh, ổn
định chính trị, xã hội, giữ vững được độc lập và định hướng xã hội chủ nghĩa.

Tư tưởng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được Đảng ta xác định là
nhiệm vụ trọng tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ Đại hội III. Đại
hội IV, V, VI của Đảng đã tiếp tục khẳng định, cụ thể hóa và hiện thực hóa từng
bước. Tuy nhiên, có thể nói, suốt một thời gian dài, (từ năm 1960 đến năm 1986)
quan niệm và cách tiến hành công nghiệp hóa ở nước ta hầu như không thay đổi,
chủ yếu tập trung phát triển công nghiệp nặng trong khi thực tiễn đất nước không
đủ điều kiện để thực hiện.
Đại hội VI của Đảng(1986) đã đánh dấu bước chuyển hướng chiến lược về
công nghiệp hóa từ ưu tiên phát triển công nghiệp nặng sang lấy nông nghiệp, công
nghiệp sản xuất hành tiêu dùng và hàng xuất khẩu làm trọng tâm. Từ đó đến nay,
9
việc nhận thức và cách tiến hành công nghiệp hóa đã từng bước phù hợp với tình
hình thực tiễn của đất nước.
Công nghiệp hóa là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội theo hướng
phát triển mạnh công nghiệp, tạo ra sự vượt trội của công nghiệp trong cơ cấu kinh
tế và cơ cấu lao động, áp dụng rộng rãi với hiệu quả cao những tiến bộ khoa học,
công nghệ mới, hiện đại, làm nền tảng cho sự tăng trưởng và phát triển nhanh,
vững chắc của toàn bộ nền kinh tế- xã hội.
Trong bối cảnh hiện nay, công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa.
Hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ chỗ theo những quy trình công
nghệ thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến những quy trình công nghệ
, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của tiến bộ
khoa học- kỹ thuật, tạo ra năng suất lao động, hiệu quả và trình độ văn minh kinh
tế, xã hội cao.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là hai quá trình khác nhau, nhưng lại đan xen,
lồng ghép bổ sung cho nhau tạo nên sự phát triển toàn diện cả về kinh tế và xã hội.
Trên tinh thần đó, Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa VII
đã xác định nội dung cơ bản của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta
là “quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh,

dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử
dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương
pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học-
công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện và 5 năm thực hiện Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ VII, đất nước đã vượt qua những thử thách khó khăn và
thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng. Đại hội VIII trên cơ sở
đánh giá một cách khách quan, khoa học những tiền đề được tạo ra sau 10 năm đôi
mới, đã nhận định: nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội và đã chuyển
sang thời kỳ mới- thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mục tiêu cơ
bản được Đảng ta xác định: “ xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có
cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ,
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh
10
thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
văn minh. Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp”.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ làm thay đổi tư duy, trí tuệ, tư
chất, nhân cách con người, kích thích tính năng động sáng tạo và tạo cho con người
khả năng thích ứng cao và ngày càng tự giác hơn với môi trường, đúng như chủ
nghĩa Mác- Lênin đã khẳng định. Cùng với quá trình cải tạo hoàn cảnh, con người
cũng cải tạo mình. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ tạo ra tiền đề, điều
kiện, mở ra triển vọng và đặt ra yêu cầu cho việc xây dựng giai cấp công nhân phát
triển toàn diện về mọi mặt, cả về số lượng và chất lượng.
Đánh giá một cách khách quan, sau nhiều năm tiến hành công nghiệp hóa,
trình độ phát triển công nghiệp và công nghệ ở nước ta đã đạt được những thành
tựu quan trọng, tạo cơ sở vật chất- kỹ thuật ban đầu, góp phần quan trọng vào sự
nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, so với các
nước trong khu vực và trên thế giới, những thành công của chúng ta vẫn còn rất
khiêm tốn. Bởi vậy, “ chất lượng nguồn nhân lực từ giai cấp công nhân ở nước ta

hiện nay còn thấp so với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước cả về số lượng và chất lượng. Mô hình tháp lao động ở nước ta hiện nay là
88% lao động không lành nghề, 5,5% lao động lành nghề, 3,5% chuyên viên kỹ
thuật, 2,7% kỹ sư, 0,3% nhà khoa học và chuyên gia. Trong khi đó, tháp lao động
của các nước công nghiệp thường là 35% lao động không lành nghề, 35% lao động
lành nghề, 24,5% chuyên viên kỹ thuật, 5% kỹ sư, 0,5% nhà khoa học và chuyên
gia”. Vậy là, để xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh toàn diện không có con
đường nào khác ngoài việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ tạo ra tiền đề, điều kiện, môi trường để phát triển
giai cấp công nhân; ngược lại, sự thành bại của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước sẽ tùy thuộc vào sự phát triển, lớn mạnh của giai cấp công nhân.
Không có sự tưởng thành, lớn mạnh của giai cấp công nhân thì không có thắng lợi
của sự nghiệp đổi mới và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sở dĩ có điều
đó là vì:
Thứ nhất, sự phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam là nhân tố căn bản,
then chốt tăng cường và quyết định sự phát triển lực lượng sản xuất.
11
Thứ hai, sự lớn mạnh toàn diện của giai cấp công nhân sẽ là nhân tố bảo
đảm sự ổn định chính trị- xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho tiến trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thứ ba, sự phát triển toàn diện của giai cấp công nhân sẽ bảo đảm cho việc
giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa thực chất là nội dung chủ yếu của
cuộc đấu tranh giai cấp, của cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường, cách thức, là phương tiện để giai cấp công
nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Do đó, sự nghiệp đổi mới, quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhất thiết phải do giai cấp công nhân thông qua đảng
tiên phong của mình lãnh đạo và phải được bảo đảm, tăng cường trong suốt tiến
trình thực hiện.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo sự phát triển cho công nghiệp, nhờ đó

đem lại những lợi ích thiết thân cho giai cấp công nhân. Công nhân và công nghiệp
là hai mặt của một vấn đề trong mối quan hệ biện chứng thống nhất. Sự phát triển
công nghiệp là điều kiện cho sự phát triển công nhân. Ngược lại, mỗi bước tiến của
giai cấp công nhân lại là điều kiện để thúc đẩy công nghiệp phát triển. Trong mối
quan hệ ấy, lợi ích của giai cấp công nhân là lợi ích trực tiếp của sự phát triển công
nghiệp. Mọi chủ trương, đường lối phát triển công nghiệp nói riêng, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nói chung đều đem lại lợi ích trực tiếp cho giai cấp công nhân.
Bởi vậy, ở một mức độ nào đó có thể hiểu, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát
triển công nghiệp là vì giai cấp công nhân. Tuy vậy, chúng ta cần phải hiểu là:
“Công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa này được tiến hành dưới sự lãnh đạo
của Đảng của giai cấp công nhân, đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân, của
nhân dân lao động và của cả dân tộc”.
2.2. Thực trạng của giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước
2.2.1. Hiện trạng số lượng và cơ cấu đội ngũ công nhân
Khi xem xét về mặt số lượng của giai cấp công nhân Việt Nam, có thể thấy
rằng giai cấp công nhân Việt Nam phát triển trải qua nhiều thời kỳ, đặc biệt từ năm
1986 đến nay là giai đoạn ghi nhiều dấu ấn về sự biến đổi cả về số lượng và chất
lượng. Trước thời kỳ đổi mới, năm 1985, đội ngũ công nhân ở nước ta có 3,38 triệu
12
người, chiếm 16% lực lượng lao động xã hội; năm 1998 số lượng công nhân tăng
lên 5.646.675 người; năm 1999 là 6.304.350 người; năm 2000 là 7.639.994 người,
năm 2002 là 10,81 triệu người, chiếm 13,55% dân số. So với tỷ lệ tăng dân số và
lao động xã hội, thì tỷ lệ tăng công nhân trong các loại hình doanh nghiệp nói
chung cao hơn rất nhiều lần. Chỉ tính từ năm 1998 đến năm 2000, trong khi tỷ lệ
lao động xã hội tăng 2% / năm thì tỷ lệ tăng công nhân trên 10% / năm. Số lượng
công nhân tăng ở cả 4 loại hình doanh nghiệp( doanh nghiệp nhà nước, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, kinh tế hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể), trong
đó tăng nhanh nhất là ở khu vực hộ kinh doanh cá thể(trên 20% / năm), chậm nhất
là khu vực doanh nghiệp nhà nước( trên 2% / năm).

Về cơ cấu ngành nghề
Bên cạnh thành phần kinh tế nhà nước đang được sắp xếp lại, một số doanh
nghiệp đang được cổ phần hóa, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tăng
nhanh, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ngày càng nhiều. Trong cơ cấu
công nhân, có đội ngũ công nhân quốc phòng gồm hàng chục vạn người có kỹ
thuật, kỷ cương đang nắm giữ bộ phận công nghiệp quan trọng, là lực lượng quan
trọng của giai cấp công nhân nước ta.
Hiện nay, trong giai cấp công nhân có một bộ phận công nhân có cổ phần
trong doanh nghiệp. Theo báo cáo của Ban đổi mới doanh nghiệp nhà nước, tới nay
đã có trên 900 doanh nghiệp hoặ bộ phận doanh nghiệp đã cổ phần hóa. Trong các
doanh nghiệp này, 100% công nhân làm việc từ 3 năm trở lên đều được mua cổ
phần.
Bên cạnh đó, do tác động của cơ chế thị trường, việc chuyển dịch công nhân
về ngành nghề, địa bàn làm việc và tuổi đời gia tăng. Sự thay đổi nghề và nơi làm
việc diễn ra ở mọi lứa tuổi. Người có học vấn càng cao càng thay đổi nhiều nghề,
nhiều nơi làm việc, đặc biệt là sự chuyển dịch từ doanh nghiệp nhà nước và các
doanh nghiệp khác sang doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Về cơ cấu tuổi nghề của công nhân
Theo kết quả điều tra của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, hiện nay,
công nhân có tuổi nghề phổ biến là từ 1 đến 5 năm, chiếm 30,62%; từ 6 đến 10
năm chiếm 16,3%; từ 11 đến 20 năm chiếm 16,77%; trên 20 năm là 18,76%. Như
13
vậy, xét theo cơ cấu tuổi nghề thì tuyệt đại bộ phận là công nhân thời kỳ đổi mới.
đội ngũ công nhân này đa phần có trình độ học vấn, ít chịu ảnh hưởng của thời bao
cấp, có khả năng thích nghi với khoa học công nghệ hiện đại, năng động, sáng tạo,
song cũng ít ổn định trong nghề nghiệp.
2.2.2.Hiện trạng chất lượng giai cấp công nhân
Điều cần khẳng định là cùng với sự tăng lên nhanh chóng về số lượng thì
chất lượng đội ngũ công nhân cũng được nâng lên đáng kể. Sự lớn mạnh về chất
lượng của đội ngũ công nhân Việt Nam được thể hiện ở những điểm sau:

Về trình độ lý luận chính trị và sự giác ngộ chính trị
Đông đảo công nhân Việt Nam đều tin tưởng và ủng hộ đường lối đổi mới,
đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và đường lối phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất trí cao với việc từ bỏ cơ chế quản lý
tập trung, quan liêu bao cấp, ủng hộ việc tổ chức và sắp xếp lại sản xuất, lao động
trong các doanh nghiệp nhà nước. Tuy vậy, theo kết quả điều tra, trình độ lý luận
chính trị của công nhân nói chung còn thấp, đa phần là chưa qua lớp học chính trị
nào, chỉ có 20,72% công nhân có trình độ lý luận trung cấp; 5,5% sơ cấp chính trị
và 1,02% đạt trình độ cử nhân chính trị.
Trong các doanh nghiệp nhà nước, cùng với quá trình đổi mới, giai cấp công
nhân tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, tự lực, tự cường, năng động sáng
tạo, thích ứng nhanh với cơ chế thị trường và khoa học công nghệ hiện đại, đưa
doanh nghiệp nhà nước vượt qua thách thức, tạo thế phát triển. Công nhân trong
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phát huy được tinh thần yêu nước, ý thức tự
tôn dân tộc, tích cực học tập và thích ứng nhanh với khoa học công nghệ tiên tiến,
tham gia tích cực vào tổ chức chính trị- xã hội và chủ động đấu tranh bảo vệ lợi ích
người lao động trên cơ sở luật lao động. Tuy nhiên, trong giai cấp công nhân cũng
còn một bộ phận hoài nghi với sự đổi mới, với sự đấu tranh chống tham nhũng,
quan liêu, tệ nạn xã hội, với cuộc đấu tranh ngăn chặn tình trạng tha hóa về đạo
đức, lối sống của một bộ phận công nhân đang diễn ra có xu hướng ngày càng trầm
trọng
Về trình độ học vấn
14
Trình độ học vấn là chìa khóa để tiếp nhận tri thức khoa học, công nghệ hiện
đại. Thực tế qua quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
cho thấy, trình độ học vấn của công nhân càng cao, thì họ càng có điều kiện để tiếp
nhận khoa học công nghệ hiện đại, và do đó càng có cơ hội thích ứng với sự
chuyển đổi nghề nghiệp. Theo điều tra của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam,
trình độ học vấn nói chung của công nhân đã được nâng lên, nhưng chưa đồng đều.
Hiện nay có khoảng 62,22% công nhân có trình độ trung học phổ thông; 27,24%

có trình độ trung học cơ sở; 4,12% có trình độ tiểu học và 0,23% công nhân không
biết chữ. Có 11,10% tốt nghiệp trung học chuyên nghiệp, 1,56%có trình độ đại học
và trên đại học. Số công nhân trẻ ( dưới 30 tuổi) có trình độ học vấn cao hơn, có tới
89% tốt nghiệp phổ thông trung học.
Trình độ học vấn của công nhân trong các ngành sản xuất cũng rất khác
nhau. Công nhân cơ khí có trình độ học vấn cao nhất (chỉ có 0,7% là chưa tốt
nghiệp cấp II), còn ở ngành dệt là thấp (trên 3,5 % ). Công nhân nữ thường có trình
độ học vấn thấp hơn công nhân nam, nghĩa là ở những doanh nghiệp nào nhiều nữ
thì tỷ lệ công nhân có trình độ học vấn cấp II chiếm số lượng đông, chẳng hạn như
ngành dệt (40,3%).
Như vậy, có thể thấy rằng trình độ học vấn của công nhân nước ta còn thấp
so với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và còn rất thấp so với
mặt bằng trình độ học vấn của công nhân trong khu vực và trên thế giới.
Với hiện trạng như trên, cần có một chính sách đò tạo, đào tạo lại thích hợp
để có thể nâng cao trình độ học vấn của đội ngũ công nhân, đáp ứng yêu cầu của sự
phát triển đất nước.
Về trình độ tay nghề, chuyên môn nghiệp vụ
Theo báo cáo của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, hiện nay số công
nhân kỹ thuật đã qua đào tạo là 2.618.746 người, số có trình độ trung học chuyên
nghiệp là 1.503.541 người. Trong số 1,7 triệu công nhân kỹ thuật, có 13,4% có
trình độ tay nghề bậc 4/7 trở lên, trong đó ngành cơ khí, điện, điện tử, số công
nhân có trình độ thợ bậc cao chiếm tỷ lệ cao hơn cả. Một bộ phận công nhân, nhất
là công nhân tre khắc phục khó khăn tự học tập, rèn luyện nâng cao kiến thức, học
ngoại ngữ, học nghề mới Một bộ phận công nhân được trí thức hóa, hình thành
một đội ngũ công nhân tự động hóa ở một số ngành công nghiệp. Qua điều tra của
15
Viện Công nhân và Công đoàn năm 1999-2000 cho thấy, bậc thợ, tay nghề của
công nhân như sau:
Lao động giản đơn: 6,73%
Bậc 2-3 : 26,07%

Bậc 4-5 : 23,87%
Bậc 6-7 : 8,42%
Với số liệu này cho thấy, trình độ tay nghề của công nhân nước ta còn rất
thấp, tình trạng mất cân đối nghiêm trọng trong cơ cấu lao động kỹ thuật giữa các
bộ phận công nhân. Đội ngũ công nhân chủ yếu có tay nghề là bậc 2-3 (26,07%),
bậc cao, bậc 6-7 chỉ chiếm 8,42%. Hơn nữa, trình độ tay nghề của công nhân
không đồng đều ở các ngành và các địa phương. Chẳng hạn, ở tỉnh Đồng Nai, công
nhân bậc 6-7 chỉ chiếm 5,15%, trong khi đó công nhân bậc 6-7 ở ngành giao thông
chiếm tới 21,67%. Điều đáng quan tâm là khá nhiều doanh nghiệp được trang bị
công nghệ hiện đại, song trình độ công nhân kỹ thuật chưa tương xứng. Hiện tượng
thiếu công nhân lành nghề là phổ biến. Theo điều tra của Viện Kinh tế Trung ương
và của Sở Lao động –Thương binh và Xã hội Thành phố Hồ Chí Minh, trong 3
năm từ 1998-2000, ở 400 doanh nghiệp còn thiếu 27% chuyên gia kỹ thuật, 32%
công nhân kỹ thuật, trong khi đó thừa 17% lao động không có tay nghề, riêng
doanh nghiệp nhà nước thừa 30%. Hiện tượng công nhân được đào tạo đã rất
khiêm tốn, nhưng trên thực tế số công nhân được đào tạo có tay nghề cũng không
được sử dụng có hiệu quả. Theo số liệu của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam,
hiện nay cả nước mới có 75,85% số công nhân được đào tạo làm việc đúng ngành
nghề, còn tới 24,15% không làm việc đúng theo nghề đào tạo.
Cùng với việc thực hiện đường lối mở cửa, chủ động hội nhập tạo lập nền
kinh tế độc lập tự chủ, đội ngũ công nhân nước ta đã phát huy tính chủ động trong
việc học tập ngoại ngữ, tuy vậy số lượng và chất lượng học ngoại ngữ chưa
cao.Kết quả khảo sát thực tế của Viện Công nhân và Công đoàn cho thấy, chỉ có
19,82% số công nhân được hỏi trả lời có trình độ ngoại ngữ A, B, C, trong đó tiếng
Anh: 12,62%, tiếng Nga: 4,53%.
16
Kết quả trên cho thấy, mức độ học ngoại ngữ của công nhân nước ta còn rất khiêm
tốn, song nếu có một cơ chế, chính sách tạo động lực, nhất định sẽ khơi dậy và
phát huy được tinh thần ham học hỏi, hiểu biết của công nhân.
2.2.3.Vấn đề việc làm, điều kiện làm việc và đời sống của công nhân

Vấn đề việc làm
Với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, Đảng và
Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế
tham gia tích cực vào phát triển kinh tế, tạo nhiều việc làm, bước đầu vấn đề việc
làm cơ bản đã được giải quyết. Theo báo cáo của Bộ Lao động – Thương binh và
Xã hội, thời kỳ 1991-1998 đã giải quyết được 7, 9 triệu người có việc làm. Riêng
năm 1998 đã giải quyết được 1,3 triệu việc làm. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX
đã tổng kết, hằng năm nước ta giải quyết được 1,2 triệu việc làm. Cùng với giải
quyết việc làm tại chỗ, Đảng và Nhà nước cũng quan tâm đến việc xuất khẩu lao
động, không chỉ để tạo việc làm mà còn để công nhân Việt Nam có điều kiện tiếp
cận với nền khoa học công nghệ tiên tiến, nâng cao chất lượng lao động. Quá trình
xuất khẩu lao động diễn ra qua các giai đoạn: giai đoạn 1980 đến 1990 chúng ta đã
đưa được khoảng 30 vạn lao động sang làm việc tại các nước Liên Xô cũ và Đông
Âu , 2 vạn lao động và chuyên gia sang làm việc tại Irăc và một số nước châu Phi (
hiện nay còn khoảng 2 vạn người tại Nga và Đông Âu); giai đoạn từ 1990 trở lại
đây, số lượng người Việt Nam đi lao động nước ngoài ngày càng tăng: năm 1996 là
12.660 người, năm 1997 là 18.470 người, năm 1999 là 21.810 người, năm 2000 là
31.468 người, năm 2001 là 37.000 người, năm 2002 là 45.000 người.
Tuy vậy, nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt, mặt khác do tốc độ
phát triển dân số nhanh, hằng năm nguồn lao động bổ sung cho xã hội lớn, trong
khi đó nền kinh tế phát triển chậm nên chưa thể đáp ứng được nhu cầu việc làm
của xã hội. Đặc biệt hiện nay, do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới, một
số cơ sở sản xuất, kinh doanh đang làm ăn thua lỗ dẫn đến tình trạng thiếu việc
làm. Bởi vậy, nhìn chung vấn đề giải quyết việc làm ở nước ta còn kém, thậm chí
ở không ít cơ sở, tình trạng thất nghiệp còn phổ biến. Theo báo cáo của Bộ Lao
động- Thương binh và Xã hội, năm 1998 trong các doanh nghiệp nhà nước, số
công nhân thất nghiệp là 8%, năm 1999 là gần 10%. Riêng ở Thành phố Hồ Chí
Minh, cũng năm 1998 với nỗ lực của toàn Thành phố đã giải quyết được 170.000
17
lao động, song vẫn còn tới 40.000 bị mất việc làm; trong các doanh nghiệp có

100% vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp Chung Shin có 6000 công nhân thì có
tới 1.210 người không có việc làm. Theo điều tra của Viện Công nhân và Công
đoàn, năm 1999 cả nước có từ 15-20% công nhân thiếu việc làm. Tuy thiếu việc
làm, song số công nhân có việc làm vẫn phải kéo dài thời gian lao động. Kết quả
khảo sát thực tế của Viện Công nhân và Công đoàn cho biết, số công nhân làm việc
dưới 8 giờ/ ngày là 9,7%; 8 giờ là 68,64%, từ 9 giờ đến 11 giờ là 17,58%. Ngoài
ra, trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, tình trạng phổ biến là công
nhân phải làm thêm từ 500- 600 giờ/ năm ( trong khi Luật lao động cho phép
không quá 200 giờ). Đặc biệt, thời gian làm việc đối với lao động nữ trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng xấp xỉ gấp 2 lần. Theo điều tra của
Trung tâm Nghiên cứu khoa học về phụ nữ, tại Thành phố Hồ Chí Minh có tới
42% nữ công nhân phải làm việc 72 giờ/ tuần (12 giờ/ ngày) và gần như 100%
công nhân phải làm tăng ca. Hơn nữa, do thu nhập thấp, công nhân còn phải làm
thêm ngoài doanh nghiệp.
Như vậy, có thể thấy rằng việc làm cho công nhân vẫn là vấn đề bức xúc và
cấp bách. Điều đó đòi hỏi cần phải có một biện pháp giải quyết sâu sắc, triệt để
nhằm khắc phục tình trạng trên, để từ đó đưa đất nước ta phát triển giàu đẹp hơn.
Điều kiện làm việc của công nhân
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều đầu tư , chủ yếu về
tài chính, công nghệ để cải thiện điều kiện làm việc của công nhân, bởi vậy, nhìn
chung điều kiện làm việc của người lao động trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh
thuộc mọi thành phần kinh tế, ở tất cả các địa phương đã được cải thiện một bước
đáng kể. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, việc cải thiện điều kiện việc làm cho công nhân
vẫn rất chậm, chưa cơ bản và còn mang tính chắp vá. Điều kiện và môi trường lao
động của nhiều cơ sở, nhất là các cơ sở tư nhân và hợp tác xã còn rất kém, có nơi
còn không đảm bảo bởi bị ô nhiễm và quá khắc nghiệt.
Trong môi trường còn bị ô nhiễm nặng, các phương tiện bảo hộ lao động
vừa thiếu vừa kém chất lượng đã ảnh hưởng không nhỏ tới sức khỏe người công
nhân. Hiện nay, tình trạng khá phổ biến ở nước ta là: trình độ công nghệ, tổ chức
lao động còn lạc hậu, lao động thủ công nặng nhọc còn chiếm tỷ lệ cao, nhà xưởng,

máy móc cũ kỹ, hư hỏng có nguy cơ xảy ra những sự cố nguy hiểm nghiêm trọng;
18
mức độ ô nhiễm( bụi hơi, khí độc, nóng, ồn, rung, bức xạ) vượt quá giới hạn cho
phép nhiều lần. Sức khỏe công nhân, đặc biệt là công nhân nữ ở một số ngành bị
giảm sút. Tình trạng tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp có chiều hướng gia
tăng. Từ năm 1997 đến năm 2000, bình quân mỗi năm có 3.500 vụ, trung bình mỗi
năm có 400 người chết, riêng năm 2002 có 4.298 vụ, trong đó có 461 người chết.
Kết quả khảo sát của Bộ Y tế ở 252 cơ sở khám bệnh cho thấy, trong số 14.852
người được khám thì có 1.190 người mắc bệnh nghề nghiệp, trong đó mắc bệnh
phổi là 788 người, điếc nghề nghiệp là 103 người. Đặc biệt, theo kết quả khám sức
khỏe 18.000 công nhân trong các cơ sở sản xuất tại Thành phố Hồ Chí Minh thì có
tới 40% công nhân có sức khỏe dưới mức trung bình, 60% công nhân nữ mắc bệnh
phụ khoa.
Mức thu nhập của công nhân
Trong vài năm gần đây, do cơ chế thay đổi, do tăng trưởng kinh tế khá, mức
sống của công nhân lao động có được cải thiện hơn. Tuy nhiên, nhìn chung mức
thu nhập của công nhân còn phổ biến là thấp. Theo điều tra của Viện Công nhân và
Công đoàn , có tới 20,48% công nhân thu nhập dưới 300.000 đồng/ tháng; từ
300.000-500.000 đồng/ tháng là 32,61%, từ 500.000- 700.000 đồng/ tháng là
16,56%; từ 1.000.000- 2.000.000 đồng/ tháng là 8,20%; trên 2.000.000 đồng/ tháng
chỉ có 0,23%. Như vậy, số công nhân có thu nhập thấp vẫn chiếm tỷ lệ lớn.
Do mức thu nhập còn chưa cao nên đời sống tinh thần của của công nhân
vẫn chưa được cải thiện đáng kể. Kết quả nghiên cứu của Viện Công nhân và Công
đoàn cho biết, chỉ có 14,77% công nhân đi xem phim và biểu diễn nghệ thuật;
4,4% công nhân tham gia sinh hoạt câu lạc bộ; 23,59% tham gia hoạt động thể
thao, 15,98% tham quan, du lịch( chủ yếu do doanh nghiệp tổ chức).
Vấn đề nhà ở của công nhân
Mặc dù Nhà nước đã có nhiều đổi mới chính sách nhà ở, như năm 1991 ban
hành Pháp lệnh về nhà ở, năm 1992 chủ trương đưa tiền nhà ở vào lương và
chuyển phương thức quản lý nhà ở sang kinh doanh, song tới nay vẫn đang xuất

hiện nhiều bất hợp lý và sơ hở trong cơ chế thực hiện, gây nên tình trạng bất công
về nhà ở. Nhà ở của nhiều gia đình công nhân còn chật hẹp. Nhiều doanh nghiệp
chỉ quan tâm khai thác sức lao động của công nhân mà không quan tâm đến chỗ ở
của người lao động, kể cả những công nhân chưa có gia đình. Vì vậy, một số nơi đã
19
xuất hiện “lán công nhân” do dân tự xây dựng tạm và cho công nhân thuê, mức giá
từ 120.000-150.000 đồng/ tháng/ người với diện tích khiêm tốn. Theo điều tra của
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, năm 1999 có tới 23% số công nhân trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thuê nhà kiểu này. Thực tế này dễ nảy sinh
các tệ nạn xã hội, mà thật khó lường được hậu quả.
Như vậy, từ thực trạng nêu trên, chúng ta có thể rút ra nhận định rằng, nhìn
chung giai cấp công nhân Việt Nam đang trong thời kỳ “trẻ hóa”, chất lượng và số
lượng đội ngũ lao động đang không ngừng tăng lên, đời sống của giai cấp công
nhân đã được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, ở một mặt nào đó, giai cấp công nhân
nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Do vậy, trong thời gian tới, cần có những biện pháp,
chính sách hợp lý để giải quyết thấu đáo tình trạng trên, góp phần đưa chất lượng
giai cấp công nhân nước ta phát triển vững mạnh hơn nữa, đưa đất nước vươn
mình lên tầm cao mới.
2.3. Vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm đổi mới
2.3.1. Vai trò tích cực của giai cấp công nhân Việt Nam
Vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm đổi mới không
chỉ được thể hiện trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển, mà hơn nữa, còn được
thể hiện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội:
Thứ nhất, giai cấp công nhân Việt Nam là đội quân chủ lực, lực lượng sản xuất chủ
yếu có mặt trong tất cả các thành phần và các ngành của nền kinh tế quốc dân.
Mặc dù còn chiếm tỷ lệ khiêm tốn trong lực lượng lao động và trong dân số, song
giai cấp công nhân Việt Nam đã và đang là đội quân chủ lực, lực lượng sản xuất cơ
bản, chủ yếu có mặt trong tất cả các thành phần kinh tế, các ngành nghề và ngày
càng có vai trò to lớn trong nền kinh tế quốc dân. Cùng với quá trình đẩy mạnh

công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế công nghiệp hiện đại, giai cấp
công nhân từng bước phát triển, lớn mạnh về mọi mặt. Trong suốt quá trình cách
mạng, nhất là trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, giai cấp công nhân Việt
Nam vẫn luôn giữ vững và phát huy bản chất cách mạng, truyền thống đoàn kết,
cần cù lao động, tinh thần chịu đựng gian khổ, thông minh, sáng tạo trong xây
dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, góp phần tích cực đưa đất nước bước vào thời
20
kỳ phát triển mới- thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; chủ động, tích
cực hội nhập vào quá trình toàn cầu hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
Thứ hai, giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và phát triển nền kinh tế công nghiệp hiện đại
Trong những năm đổi mới, giai cấp công nhân Việt Nam đã tỏ rõ la lực
lượng có khả năng sáng tạo trong sản xuất, tiên phong trong việc kiến tạo nền kinh
tế công nghiệp hiện đại và năng động, nhạy bén trong tổ chức đời sống xã hội. Đội
ngũ cãn bộ khoa học kỹ thuật, kỹ sư giỏi, công nhân bậc cao, thợ giỏi, thợ lành
nghề ngày càng tăng. Họ nhanh chóng thích ứng với cơ chế thị trường, tiếp cận
nhanh với khoa học công nghệ tiên tiến, có nhiều phát minh, sáng kiến có giá trị
kinh tế cao được áp dụng vào sản xuất, góp phần quyết định vào việc thực hiện
thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng. Trong công cuộc đổi mới, công nhân lao
động đã có nhiều phát hiện, đề xuất nhiều giải pháp và kinh nghiệm quý báu cho
Đảng và Nhà nước đúc kết thành các nghị quyết và chính sách quan trọng, để chỉ
đạo thực hiện có hiệu quả việc giữ vững và phát triển sản xuất, ổn định chính trị-
xã hội. Nhiều công nhân trưởng thành trong quá trình lao động tại các nhà máy,
công trường xây dựng. Họ sẽ là lực lượng đi đầu trong việc áp dụng những thành
tựu khoa học công nghệ trong sản xuất.
Thứ ba, giai cấp công nhân đã và đang là cơ sở chính trị- xã hội của Đảng Cộng
sản Việt Nam, là chỗ dựa vững chắc của Đảng và Nhà nước.
Là giai cấp tiên phong, lực lượng kiên quyết ủng hộ và đi đầu trong công
cuộc đổi mới vì chủ nghĩa xã hội, giai cấp công nhân Việt Nam đã và sẽ là lực
lượng nòng cốt trong khối liên minh công- nông- trí thức, nền tảng của khối đại

đoàn kết toàn dân. Số đông công nhân nước ta vững vàng về chính trị, tin tưởng ở
sự lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước. Giai cấp công nhân luôn là
lực lượng tích cực, kiên quyết và đi tiên phong trên mặt trận đấu tranh chống tiêu
cực, tham nhũng, đặc quyền đặc lợi và các hiện tượng tiêu cực khác trong đời sống
kinh tế- xã hội. Ở nhiều cơ sở, địa phương, thông qua tổ chức công đoàn , công
nhân tích cực tham gia công tác kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh tế, phân phối
lưu thông , phát hiện nhiều vụ than ô, ức hiếp, trù đạp, vi phạm quyền làm chủ của
quần chúng, làm sai chế độ chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Trong
công tác xây dựng đảng và chính quyền nhà nước, công nhân tích cực tham gia
21
đóng góp những ý kiến vào các dự thảo nghị quyết của Đảng cũng như các chương
trình, nghị quyết của Nhà nước và của doanh nghiệp. Đặc biệt, công nhân đã tích
cực học tập lý luận chính trị và học tập các bộ luật lao động, chủ động trong ký
thỏa ước lao động và đấu tranh chống vi phạm pháp luật; công nhân đã tạo ra dư
luận, phối hợp với tổ chức đảng, chính quyền làn tốt công tác cán bộ, đặt các cơ
quan Đảng, chính quyền trước sự giám sát, phê bình của quần chúng.
Thứ tư, giai cấp công nhân Việt Nam có vai trò to lớn trong sự nghiệp bảo vệ tổ
quốc.
Là lực lượng lao động chủ yếu trong nền kinh tế công nghiệp, giai cấp công
nhân còn là lực lượng chính tri- xã hội quan trọng, đã và đang góp phần to lớn đối
với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Trước đây, trong thời kỳ đất nước có chiến tranh,
công nhân không chỉ là lực lượng chế tác ra những vũ khí cung cấp cho chiến
trường, mà họ còn là những công nhân mặc áo lính trực tiếp chiến đấu, quyết sống
chết với kẻ thù. Ngày nay, trong điều kiện thời bình, họ lại là lực lượng đi đầu,
nòng cốt trong sự nghiệp phát triển kinh tế, tạo dựng cơ sở vật chất cho nền quốc
phòng toàn dân. Đồng thời giai cấp công nhân còn tham gia xây dựng nền công
nghiệp quốn phòng hiện đại, một trong những yếu tố quan trọng taọ nên sức mạnh
của lực lượng vũ trang nhân dân.
2.3.2. Những hạn chế, yếu kém ngăn trở việc phát huy vai trò tích cực
của giai cấp công nhân Việt Nam

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập, trước yêu cầu của
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bên cạnh những mặt
mạnh thể hiện vai trò to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giai cấp
công nhân Việt Nam cũng bộc lộ một số yếu kém, hạn chế việc phát huy vai trò
tiên phong của mình.
Thứ nhất, trình độ học vấn, trình độ lý luận chính trị, trình độ ngoại ngữ và trình độ
tay nghề của công nhân cìn thấp và mất cân đối trong cơ cấu lao dộng kỹ thuật
giữa các bộ phận công nhân.
Trong quá trình hội nhập và phát triển nền kinh tế tri thức ở nước ta hiện
nay, ý thức học tập nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ và tay nghề
của công nhân nhìn chung còn chưa tương xứng với yêu cầu đặt ra. Tình trạng thừa
22
lao động giản đơn, thiếu lao động có tay nghề kỹ thuật cao đang diễn ra phổ biến.
Mặt khác , do nền sản xuất của nước ta chưa phát triển, chưa thu hút được số lượng
lớn công nhân nên cơ cấu lao động kỹ thuật rất bất hợp lý.
Thứ hai, lòng say mê nghề nghiệp, ý thức tổ chức, kỷ luật lao động, tác phong công
nghiệp của công nhân còn hạn chế.
Điều này trước hết bắt nguồn từ nền kinh tế kém phát triển của nước ta,
chúng ta chưa tạo lập được một nền kinh tế công nghiệp hiện đại, công tác tuyên
truyền, giáo dục của chúng ta còn chưa tốt, xã hội và ngay cả công nhân cũng chưa
nhận thức đúng, đầy đủ về vị trí, vai trò của giai cấp công nhân- lực lượng vật chất
để biến những ý tưởng tốt đẹp về chủ nghĩa xã hội thành hiện thực. Hơn nữa, đại
bộ phận công nhân nước ta xuất thân từ tầng lớp nông dân cho nên vẫn còn tồn tại
tư tưởng tiểu nông, làm ăn theo thời vụ, manh mún. Do vậy, hiện nay còn không ít
công nhân thiếu tác phong công nghiệp, làm việc tùy tiện, thiếu tôn trọng các quy
trình, quy tắc, quy phạm kỹ thuật, thiếu tính tổ chức, kỷ luật.
Như vậy, sự giác ngộ của đa số công nhân về địa vị giai cấp của mình còn
thấp; ý thức chính trị chưa được nâng cao, trước những diễn biến phức tạp của tình
hình thế giới và trong nước, một bộ phận công nhân còn hoài nghi, dao động, thiếu
tin tưởng vào đường lối, chính sách của Đảng. Bên cạnh đó, do bên sử dụng lao

động còn thiếu tôn trọng quyền làm chủ của công nhân, thậm chí có nơi còn xúc
phạm nhân cách công nhân, bởi vậy, công nhân chưa thiết tha với nghề nghiệp, làm
việc chỉ vì mưu sinh. Đây là một hạn chế đáng quan tâm của Đảng ta về giai cấp
công nhân.
Thứ ba, ý thức tham gia vào các tổ chức chính tri- xã hội của công nhân không cao.
Biểu hiện rõ nhất là, tỷ lệ đảng viên, đoàn viên thanh niên, đoàn viên công
đoàn trong công nhân còn thấp, nhất là trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Mặc dù nhận thức về vai trò của Đảng trong việc thúc đẩy sản xuất của công
nhân là khá tốt, nhung rất ít người có mong muốn vào Đảng. Song ngay tổ chức
công đoàn, tổ chức trực tiếp bảo vệ lợi ích của công nhân cũng chưa thu hút được
toàn bộ công nhân, vẫn còn bộ phận khá lớn công nhân đứng ngoài, không tham
gia.
23
Thứ tư, có một bộ phận công nhân bị thoái hóa và tha hóa về thái độ lao động,
phẩm chất giai cấp và đạo đức, lối sống.
Hiện nay, khi mặt trái của nền kinh tế thị trường và cua quá trình toàn cầu
hóa đang tác động tiêu cực vào mọi mặt của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực
sản xuất công nghiệp, thì sự phối kết hợp giữa các tổ chức Đảng, Công đoàn và
Đoàn thanh niên trong giáo dục, quản lý công nhân, trong việc phát huy quyền làm
chủ của công nhân chưa tốt. Một bộ phận công nhân bị sa thải khỏi guồng máy sản
xuất, trong khi chờ cơ hội để được tái tuyển dụng đã bằng mọi cách để kiếm sống,
tồn tại; trong số đó không ít công nhân bị tha hóa, biến chất, thậm chí sa ngã vào
những tệ nạn xã hội. Hơn nữa, hiện tượng tham nhũng, ăn hối lộ, lợi dụng sơ hở
của chính sách để làm giàu bất chính của một số cán bộ quản lý đang diễn ra ở mức
nghiêm trọng, cộng với sự tự rèn luyện của công nhân chưa cao, nên trong hàng
ngũ công nhân đã xuất hiện một bộ phận chây lười lao động, có lối sống buông thả,
sa ngã vào tệ nạn cờ bạc, nghiện hút, mê tín dị đoan Ngoài ra, trong đội ngũ
công nhân cũng đã có hiện tượng chủ nghĩa thực dụng, tâm lý coi thường kỷ
cương, bất chấp nhân phẩm đạo đức, làm đủ mọi việc miễn có lợi cho bản thân.
Tất cả những bất cập nêu trên hiện vẫn đang là vấn đề nhức nhối làm cản trở việc

xây dựng và phát huy vai trò to lớn của giai cấp công nhân trong sự nghiệp đổi
mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Điều đó đòi hỏi chúng ta cần phải
nhận thức rõ để có những giải pháp hữu hiệu nhằm khắc phục có hiệu quả.
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN XÂY DỰNG GIAI CẤP CÔNG
NHÂN VIỆT NAM TRƯỞNG THÀNH, VỮNG MẠNH TRONG SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
Xuất phát từ yêu cầu xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh toàn
diện nhằm xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh ngang tầm với sứ mệnh lịch sử
và đưa giai cấp công nhân trở thành lực lượng đi đầu , lực lượng lãnh đạo sự
24
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cần nắm vững và thực hiện tốt
những giải pháp sau:
3.1. Nâng cao nhận thức về vai trò của giai cấp công nhân trong quá trình
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Trước hết là phải đổi mới nhận thức về đội ngũ công nhân.
Xã hội cần thấy được toàn diện vai trò của giai cấp công nhân, đặc biệt là về
kinh tế là lực lượng sản xuất hàng đầu và về chính trị là lực lượng tiền phong; thấy
được trong giai cấp công nhân có nhiều nhóm trình độ công nghệ khác nhau và
công nghiệp hóa tất yếu sẽ dần nâng cao trình độ văn hóa tay nghề cho công nhân;
giai cấp công nhân trong sản xuất hiện đại luôn vận động và phát triển theo yêu cầu
khách quan của phát triển công nghệ và theo quy luật của kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức này cần được làm sáng tỏ, phát triển hơn nữa trên các phương
diện triết học, chính trị, xã hội, văn hóa theo các cấp độ lý luận cũng như thông tin
đại chúng. Công tác tư tưởng- lý luận, thông tin đại chúng cần tuyên truyền rộng
rãi bằng nhiều hình thức trong các buổi sinh hoạt chính trị, chương trình học tập lý
luận chính trị Qua đó, xã hội hiểu đúng và đầy đủ hơn, tin yêu và có trách nhiệm
hơn đến công nhân.
Nhận thức về vai trò to lớn, toàn diện của giai cấp công nhân phải được
thấm sâu vào các văn bản pháp quy của Đảng, Nhà nước và các tổ chức đoàn thể;

nó phải được thể hiện cụ thể trong các kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế, xã
hội, văn hóa; từ quy hoạch các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ đến
thực hiện các chương trình cải cách hành chính và chống quan liêu, tham nhũng,
lãng phí; chương trình hỗ trợ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chương trình nhà ở,
chương trình xây dựng công nghệ cao
Thứ hai, cần đổi mới nhận thức về quá trình phát huy vai trò của công nhân.
Thực chất của việc phát huy vai trò đội ngũ công nhân là thực hiện đồng bộ,
có hiệu quả các biện pháp về nhận thức, tư tưởng, chính trị, kinh tế, văn hóa-xã
hôi nhằm phát huy ý nghĩa, tác dụng của đội ngũ này trên cả hai phương diện: lực
lượng sản xuất hàng đầu và lực lượng chính trị tiên phong. Phát triển cơ cấu, số
lượng, chất lượng giai cấp công nhân cần gắn với nâng cao đời sống vật chất, tinh
25

×