Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

vai trò của giai cấp công nhân việt nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa & hiện đại hóa, xây dựng quan hệ sản xuất mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.55 KB, 30 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Giai cấp công nhân Việt Nam tuy mới ra đời , còn non trẻ nhưng đã sớm
trở thành lực lượng chính trị -xã hội độc lập, thống nhất về tư tưởng và tổ
chức ,do đó sớm dành được vị trí lãnh đạo trong phong trào đấu tranh cách
mạng của toàn dân tộc.
Giai cấp công nhân Việt Nam có được vai trò như vậy là do họ đã có
những đặc điểm của giai cấp công nhân quốc tế, ngoài ra, họ còn mang những
đặc điểm riêng như giai cấp công nhân Việt Nam kế thừa được truyền thống yêu
nước,sớm tổ chức ra chính đảng của mình,gắn bó mật thiết với giai cấp nông
dân và tầng lớp trí thức , hình thành khối liên minh vững chắc giữa giai cấp
nông nhân và tầng lớp trí thức: giai cấp công nhân Việt Nam gắn bó mật thiết
với cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân quốc tế và đã nhận được sự giúp đỡ
mọi mặt của giai cấp công nhân quốc tế.
Qua khảo nghiệm tất cả các phong trào yêu nước đã diễn ra vào cuối thế
kỷ 19và đầu thế kỷ 20 ở Việt Nam ,chúng ta có thể rút ra kết luận ;chỉ có đường
lối cứu nước theo lập trường của giai cấp công nhân dướ sự lãnh đạo của Đảng
Cộng Sản Việt Nam mới đưa cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức
bóc lột thuộc địa của thực dân Pháp đến thành công.
Giai cấp công nhân Việt Nam từ khi ra đời ,nhất là tư khi có chính đảng
của mình đã trở thành lực lượng chính trị tiên phong đi đầu trong cuộc đấu tranh
giành độc lập dân tộc va xây dựng chủ nghĩa xã hội.Trong giai đoạn cách mạng
hiện nay ,giai cấp công nhân đã và đang vươn lên để đáp ứng nhưng yêu cầu
của sự nghiệp đổi mới theo con đuờng xã hội chủ nghĩa, trước hết ,phải từng
bước phát triển cả số lượng và chất lượng, khắc phục những hạn chế do điều
kiện và hoàn cảnh lịch sử để lại như kém phát triển về kinh tế, trình độ chưa cao
1
v vn hoỏ, khoa hc k thut, tỏc phong tp quỏn thúi quen, tõm lý cũn chu
nh hng kh nng ca ngi sn xut nh.
Vỡ vy m nghiờn cu giai cp cụng nhõn l vn cp bỏch ,tỡm hiu
ti ny lm em phn no hiu rừ v giai cp cụng nhõn cng nh s mnh lch
s ca giai cp cụng nhõn trong thi i ngy nay.


Ngy nay trong cuc cỏch mng khoa hc v cụng ngh giai cp cụng
nhõn v nụng dõn khụng th thc hin c mc tiờu cỏch mng ca mỡnh nu
khụng cú i ng trớ thc v bn thõn giai cp cụng nhõn v nụng dõn , khụng
dn dn c trớ thc hoỏ . Mt khỏc , tng lp trớ thc ch cú th cú iu kin
phỏt huy kh nng ca mỡnh khi h phc v c lc cho s nghip cỏch mng
ca giai cp cụng nhõn v nụng dõn c bit l s nghip cụng nghip húa hin
i húa, ng thi cú iu kin vt cht thc hin c m ca mỡnh.
Để hoàn thành tốt đề tài này, em đã nhận đợc sự giúp đỡ tận tình của giáo
viên trực tiếp giảng dạy bộ môn chủ nghĩa xã hội khoa học. Ngoài ra, chúng em
còn sử dụng một số tài liệu có liên quan đến đề tài này đợc lấy từ sách tham
khảo và intenet.
Chúng em xin chân thành cảm ơn.
2
Phần I: Giai cấp công nhân & giai cấp công nhân
Việt Nam
Chơng I: Khái niệm về giai cấp công nhân
1.1.Sự ra đời, phát triển và sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân nói chung
Quan im ca Ph.ngghen v giai cp cụng nhõn c phỏt trin qua
nhng tỏc phm vit chung vi C.Mỏc nh: Gúp phn phờ phỏn trit hc phỏp
quyn Hờghen, Tuyờn ngụn ca ng Cng sn cng nh trong nhiu tỏc
phm vit riờng ca mỡnh nh: Tỡnh cnh ca giai cp lao ng Anh,
Nhng nguyờn lý ca ch ngha cng sn, Vn nh , Chng uyrinh,
Ngun gc ca gia ỡnh, ch t hu v nh nc, Gúp phn phờ phỏn D
tho Cng lnh nm 189l ca ng Dõn ch xó hi c bit sau khi C.Mỏc
qua i, Ph.ngghen ó gỏnh vỏc nhng nhim v phc tp, nng n c v lý
lun v thc tin trong vic cung cp cho giai cp cụng nhõn lý lun khoa hc
nhn thc v ci to th gii, nht l qua vic sp xp, chnh lý b sung
xut bn b T bn s ca C. Mỏc li, ng thi tip tc ch o hot
ng ca phong tro Cụng nhõn quc t, u tranh kiờn quyt chng li mi

khuynh hng c hi, ci lng di mi hỡnh thc xut hin trong phong tro
cụng nhõn.
Ph.ngghen ó úng gúp quan trng trong vic nhn thc c im v s
mnh lch s ca giai cp cụng nhõn trong cuc u tranh nhm xoỏ b ỏp bc
bc lt ca ch ngha t bn, xõy dng ch ngha cng sn. Chớnh vỡ vy, lý
lun ca ch ngha Mỏc tr thnh v khớ sc bộn, ngn uc soi ng cho
phong tro u tranh giai cp cụng nhõn ginh thng li, a phong tro cụng
nhõn t u tranh t phỏt n t giỏc, t giai cp t mỡnh n giai cp cho
mỡnh. Cú th khng nh vic phỏt hin ra s mnh lch s ca giai cp cụng
nhõn l phỏt kin v i th ba cựng vi hai phỏt kin v i ca C.Mỏc v
Ph.ngghen v ch ngha duy vt lch s v hc thuyt giỏ tr thng d, ó lm
cho s phỏt trin ca ch ngha xó hi t khụng tng tr thnh khoa hc.
Mc dự ó tri qua hn l50 nm, nht l sau khi Liờn Xụ v cỏc nc xó
hi ch ngha ụng u tan ró, lch s th gii ang trong mt giai on phc
tp ca s phỏt trin, song ch ngha Mỏc - Lờnin núi chung v t tng ca
Ph.ngghen núi riờng v giai cp cụng nhõn vn t rừ sc sng ca nú trong i
3
sống hiện thực, những giá trị tinh thần được thực tiễn khẳng định tính đúng đắn
của nó.
Lý luận Mác - Lênin ra đời trong thời đại cách mạng vô sản, gắn với sự
phát triển của phong trào công nhân quốc tế, do vậy, nếu lý luận Mác - Lênin là
vũ khí tinh thần của giai cấp công nhân thì ngược lại, chính giai cấp công nhân
lại là vũ khí vật chất của lý luận cách mạng đó. Điều này đòi hỏi cần có quan
điểm lịch sử cụ thể khi nghiên cứu về đặc điểm, vai trò của giai cấp công nhân
hay giai cấp vô sản bị bóc lột dưới chế độ tư bản với địa vị mới của giai cấp
công nhân với tư cách người chủ xã hội sau khi đã giành được chính quyền.
Theo Ph.Ăngghen, giai cấp công nhân có 2 đặc điểm cơ bản là:
- Về phương thức lao động, phương thức sản xuất: Đó là những người lao
động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính công nghiệp
ngày càng hiện đại trong nền sản xuất mang tính xã hội hoá cao. Giai cấp công

nhân là giai cấp lao động chủ yếu trong nền sản xuất hiện đại.
- Về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa: giai cấp công nhân phải
bán sức lao động chơ các nhà tư bản và bị tư bản bóc lột về giá trị thặng dư vì
giai cấp công nhân không có tư liệu sản xuất.
Ph. Ăngghen khẳng định: “Người lao động hoặc công nhân (wơrking men)
và người vô sản; giai cấp công nhân, giai cấp không có của, giai cấp vô sản như
những từ đồng nghĩa”. Mặc dù là giai cấp lao động chủ yếu trong nền sản xuất
hiện đại, là “lực lượng sản xuất hàng đầu” như V.I Lênin khẳng định, giai cấp
công nhân vẫn bị bóc lột nặng nề, bị bần cùng hoá không những về đời sống vật
chất (tiền công thấp, chỉ đủ tái sản xuất sức lao động, điều kiện lao động nặng
nhọc độc hại, tình trạng thất nghiệp, vấn đề nhà ở khó khăn, việc sử dụng lao
động nữ và trẻ em không phù hợp) mà cả về đời sống tinh thần như tình trạng
thất học, không có điều kiện tham gia các hoạt động văn hoá, tinh thần.
Từ thực tế này trong quá trình phát triển chủ nghĩa tư bản, Ph.Ăngghen chỉ
rõ mâu thuẫn cơ bản của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa là: “Sản xuất đã trở
thành một hành vi xã hội; trao đổi và cùng với trao đổi là sự chiếm hữu, vẫn là
những hành vi cá nhân, hành vi của những người riêng biệt; sản phẩm của lao
động xã hội bị nhà tư bản cá thể chiếm hữu. Đó là mâu thuẫn cơ bản, từ đó nảy
sinh ra tất cả những mâu thuẫn trong xã hội hiện nay đang vận động, những mâu
thuẫn mà thời đại công nghiệp đang làm cho thấy đặc biệt rõ: Tách người sản
xuất khỏi tư liệu sản xuất. Giam hãm người lao động làm thuê suốt đời. Sự đối
lập giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản”.
4
Giai cấp công nhân là giai cấp của những người lao động được hình thành
và phát triển gắn với nền sản xuất công nghiệp hiện đại, có trình độ xã hội hóa
ngày càng cao, đại biểu cho lực lượng sản xuất, phương thức sản xuất tiên tiến
của thời đại hiện nay, đó là lực lượng lao động cơ bản trực tiếp của xã hội. Giai
cấp công nhân là giai cấp duy nhất có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo và tổ chức tiến
trình cách mạng vô sản, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Ph.Ăngghen viết: “Thực hiện sự nghiệp giải phóng thế giới ấy - đó là sứ mệnh

lịch sử của giai cấp công nhân do những điều kiện khách quan quy định”.
Từ quan điểm của các nhà kinh điển Mác - Lênin có thể thấy sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân do địa vị kinh tế - xã hội khách quan quy định. Giai
cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất, đại diện cho lực lượng sản xuất hiện
đại, là giai cấp lao động sản xuất vật chất chủ yếu trong nền sản xuất xã hội.
Đây là giai cấp bị bóc lột nặng nề, có lợi ích đối kháng trực tiếp với giai cấp tư
sản, do vậy là giai cấp triệt để cách mạng nhất vì lợi ích cơ bản của giai cấp
công nhân đối lập với lợi ích của giai cấp tư sản, đó là lực lượng quyết định
trong việc đấu tranh thủ tiêu quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Giai cấp công nhân chỉ có thể giải phóng mình bằng cuộc cách mạng xã hội
giải phóng toàn xã hội khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa. Lợi ích cơ bản của giai cấp
công nhân là xoá bỏ áp bức bóc lột, bất công, giành chính quyền và tư liệu sản
xuất về tay mình và nhân dân lao động để xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Giai
cấp công nhân có bản chất quốc tế (xuất phát từ quá trình quốc tế hoá sản xuất,
quá trình toàn cầu hóa hiện nay) và có bản sắc dân tộc, do xuất phát từ mỗi dân
tộc, trở thành “giai cấp dân tộc”, chịu trách nhiệm trước hết với dân tộc mình.
Là “con đẻ” của nền đại công nghiệp, giai cấp công nhân có ý thức tổ chức kỷ
luật cao.
Trong điều kiện hiện nay với tác động của quá trình toàn cầu hoá, sự phát
triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ, sự phát triển của kinh tế
thị trường, nhiều học giả tư sản muốn phủ nhận bản chất và sứ mệnh lịch sử của
giai cấp công nhân, cho rằng giai cấp công nhân đã bị “tri thức hoá”, “tư bản
hoá”. Đúng là hiện nay trong giai cấp công nhân có xu hướng tăng tỷ trọng lao
động có trình độ cao, diễn ra xu hướng tri thức hoá ngày càng tăng phù hợp với
yêu cầu của tiến bộ khoa học và công nghệ. Mặt khác, với sự phát triển trình độ
cao của kinh tế thị trường, các loại hình dịch vụ ngày càng phát triển, mô hình
“chế độ sở hữu cổ phần”, “dân chủ hoá” có sự tham gia của người lao động
được mua cổ phiếu ở các công ty, doanh nghiệp tu bản gia tăng, người lao động
cũng tham gia vào quá trình quản lý và quyết định chính sách, điều này cho thấy
5

dường như giai cấp công nhân đã bị “tư bản hoá”, dường như chủ nghĩa tư bản
đang chuyển sang mô hình “chủ nghĩa tư bản nhân dân”, “chủ nghĩa tư bản của
người lao động”, “xã hội hậu tư bản” như một số học giả phương Tây quan
niệm.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy giai cấp công nhân vẫn bị bóc lột nặng nề bằng
những phương thức tinh vi hơn, sự bần cùng hoá vẫn diễn ra, khoảng cách về
thu nhập, giầu nghèo trong các nước tư bản có xu hướng doãng ra ngày càng xa
hơn. Mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản giữa tính chất xã hội hoá của sản
xuất ngày càng cao với tính chất tư nhân tư bản chủ nghĩa về sở hữu tư liệu sản
xuất ngày càng tăng, tuy thời điểm nhất định được giải quyết tạm thời, song về
lâu dài không thể xoá bỏ được căn bản mâu thuẫn này, đòi hỏi phải có cuộc
cách mạng xã hội triệt để.
1.2.Kh¸i niÖm giai cÊp c«ng nh©n
Về lý luận cần làm rõ sự khác nhau giữa hai khái niệm “giai cấp công
nhân” và “giai cấp vô sản” (GCVS) đã được Mác sử dụng khi đề cập đến sự
hình thành ý thức giai cấp của công nhân.
Trước hết, cần phân biệt rõ sự khác nhau giữa giai cấp công nhân và giai
cấp vô sản. Khi trình bày “Lịch sử phát triển giai cấp vô sản” thì Mác và
Ăngghen đã loại dần những người vô sản nói chung ra, để cuối cùng chỉ nói đến
“những người vô sản đầu tiên xuất hiện trong công nghiệp và trực tiếp do công
nghiệp sản sinh ra” .Vì vậy, chúng ta chỉ chú ý trước tới những công nhân công
nghiệp Như vậy, không phải Mác nói vô sản chung chung, bất kỳ, mà chỉ là
“vô sản trong công nghiệp”, do nền đại công nghiệp sản sinh ra. Theo cách đặt
vấn đề như trên thì giai cấp công nhân hiện đại chỉ bắt đầu sản sinh từ cuộc cách
mạng công nghiệp cơ khí - là công nhân đại công nghiệp. Các ông rất thận trọng
khi nói vô sản công nghiệp, phân biệt rất rõ với loại vô sản lưu manh, các loại
tầng lớp vô sản nông thôn và thị thành là những lực lượng khác nhau về chất
lượng. Các ông đã viết: "còn tầng lớp vô sản lưu manh, cái sản phẩm tiêu cực ấy
của sự thối nát của những tầng lớp thấp nhất trong xã hội cũ, có thể được cách
mạng vô sản lôi cuốn vào phong trào; nhưng điều kiện sinh hoạt của họ lại

khiến họ sẵn sàng bán mình cho phe phản động hơn”
Trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay, giai cấp công nhân Việt
Nam bao gồm những người lao động trí óc và những người lao động chân tay
hoạt động sản xuất trong ngành công nghiệp và dịch vụ thuộc các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác nhau, đại diện cho phương thức sản xuất tiên
6
tin di s lónh o ca ng Cng sn Vit Nam. Mc dự cũn cú nhng hn
ch nhng h vn ang i u trong s nghip cụng nghip hoỏ, hin i hoỏ
t nc.
1.3.Giai cấp công nhân là nòng cốt chủ đạo lãnh đạo
liên minh công-nông- trí thức ở các thời kỳ
Giai cp cụng nhõn l ht nhõn vng chc trong khi liờn minh cụng nhõn -
nụng dõn - trớ thc, cng l nn tng cỏc khi i on kt ton dõn tc. Giai
cp cụng nhõn hin nay ó l ngi lm ch xó hi.
Vi t cỏch l sn phm ca nn i cụng nghip, ta thy rng, cụng
nghip cng phỏt trin thỡ s phõn cụng lao ng cng cao, dn n s ph
thuc cng ln, tớnh xó hi ca sn phm cng cao, thnh qu lao ng l ca
chung, nú ũi hi phi s hu chung gii phúng lc lng sn xut.
Vi t cỏch l lc lng sn xut cú kh nng to lp phng thc sn xut
mi, vic lónh o thc hin theo xu hng phỏt trin y ca GCCN. Tớnh cỏch
mng trit ca giai cp cụng nhõn l do a v kinh t ny quy nh ch
khụng phải vỡ khụng cú t liu sn xut, vỡ b ỏp bc, vỡ nghốo kh m trit
cỏch mng. Mặc dù cỏc yu t ny gúp phn quan trng, song khụng phi l yu
t quyt nh, v theo ú, GCCN l giai cp trung tõm ca thi i, s phỏt trin
ca nú s kộo theo v quy nh ton b xu hng phỏt trin chung ca quc gia
dõn tc v ca nhõn loi. Tuy nhiờn lónh o, trong thc t cn 3 iu kin:
-Mt l, phi cú lý lun cỏch mng, h t tng nh l v khớ tinh thn
hng dn hot ng ca ton b giai cp. GCCN i biu cho PTSX tin b
nht, cú nng lc tuyt vi, trớ tu minh mn xõy dng nờn cho nhõn loi
mt nn vn minh muụn phn ti p.

-Hai l, GCCN phi t mỡnh t chc ra chớnh ng, thc hnh mi hot
ng ca giai cp. Cú chớnh ng ca mỡnh, giai cp cụng nhõn hot ng vi t
cỏch l giai cp v ton xó hi. Bt k hot ng xó hi no cng cn cú t chc
v thụng qua ú to ra sc mnh. ng cng sn ca GCCN l sn phm tt yu
ca phong tro cụng nhõn.
-Ba l, phi ginh ly chớnh quyn nh nc bin nú thnh cụng c thc
hin s mnh lch s ca giai cp trong thc t. Khụng cú cụng c thc hin s
mnh lch s giai cp ca mỡnh, GCCN mói mói úng vai trũ b lnh xng,
khụng th vn lờn a v lm ch. Xó hi cn cú cỏc qui phm phỏp lut
buộc mi ngi tuõn th trt t ca li ớch chung. Khi xó hi ó duy trỡ c
trt t bn vng ng nhiờn cỏc qui phm phỏp lut s khụng cú giỏ tr thc, vỡ
7
xã hội không cần nó nữa. Tương tự như vậy, nhà nước cũng sẽ tự tiêu vong khi
mà xã hội không cần đến nó nữa, điều đó sẽ xảy ra trong tương lai lâu dài của
nhân loại mà không phụ thuộc vào bất kỳ ý chí của giai cấp hay tầng lớp xã hội
nào.
GCCN để thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình tất yếu phải có đầy đủ
các yếu tố nêu trên
8
Chơng II
Sơ lợc quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa ở
Việt Nam
2.1 Công nghiệp hóa hiện đại hóa là quá trình tất yếu
Sau 10 nm u i mi y gian kh nhng t thnh tu v vang, éi
hi VIII ca éng (1996) ó ch ra rng t nc ta bc vo thi k mi, thi
k y mnh cụng nghip húa, hin i húa, ng thi ch ra mc tiờu phn u
n nm 2020 (ngha l khong 1/4 th k) nc ta c bn tr thnh mt nc
cụng nghip theo hng hin i.
Núi cụng nghip húa khụng phi l núi mt vn c k, trỏi li, i vi
nc ta, trong vũng na th k qua v c hin nay vn l vn luụn luụn mi,

luụn luụn ũi hi cú nhn thc ỳng, cú ni dung v cỏch lm ỳng n.
Trong lch s, cỏc nc phng Tõy ó tin hnh cụng nghip húa cỏch
õy hai trm nm. éú l cỏc cuc cụng nghip húa t bn ch ngha, cú mc
ớch, bc i, cỏch lm phự hp vi ch ngha t bn, din ra mt cỏch t phỏt,
nhm thu li nhun nhanh, nhiu, khng nh vai trũ ca phng thc sn xut
t bn ch ngha gn lin vi giai cp t sn - giai cp chim hu nhng t liu
sn xut ch yu ca xó hi, to nờn chin thng hon ton v trit ca
phng thc sn xut t bn ch ngha i vi mi phng thc sn xut trc
kia.
Tỏc dng khỏch quan m cụng nghip húa em li l thay lao ng th
cụng nng sut thp tng tn ti hng nghỡn vn nm bi lao ng bng mỏy.
Nh mỏy múc m khc phc c nhng hn ch ca cỏc giỏc quan v sc lc
c bp con ngi nhm thớch ng v ci to thiờn nhiờn phc v cho i sng
con ngi. Cụng nghip húa l mt bc ngot v i phỏt trin lc lng sn
xut ca loi ngi, to iu kin ci thin cn bn i sng chung ca xó hi
con ngi.
Nc ta, trong iu kin lm cỏch mng lt ch thuc a na phong
kin, b qua ch t bn ch ngha i lờn ch ngha xó hi, thỡ cụng nghip
húa l mt tt yu, l mt s nghip cỏch mng v vang, nhm xõy dng c s
vt cht k thut, quyt nh thng li ca thi k quỏ lch s. Vỡ vy éng
ta ó ra ng li cụng nghip húa xó hi ch ngha, coi ú l nhim v
trung tõm sut thi k quỏ i lờn ch ngha xó hi, l mt ng li, quan
im c bn ht sc ỳng n, lm cho ch ngha xó hi khụng ch l c vng
ca nhõn dõn ta m l mt hin thc p , cú c s bo m v phng din
9
kinh tế. V.I. Lê-nin đã từng nói, năng suất lao động là cái căn bản tạo nên chiến
thắng của một trật tự xã hội mới.
Công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa cũng đã tạo cho chủ nghĩa tư bản một
chiến thắng như thế - chiến thắng chế độ phong kiến và mọi nền sản xuất nhỏ.
Bây giờ đến lượt chúng ta, cũng chỉ có thể bằng công nghiệp hóa xã hội chủ

nghĩa để tạo nên chiến thắng sản xuất nhỏ và con đường tư bản chủ nghĩa, mới
chứng tỏ được rằng trong điều kiện xuất phát từ nền kinh tế kém phát triển,
nhưng dưới sự lãnh đạo của Ðảng, biết phát huy cao độ nội lực đồng thời hội
nhập kinh tế quốc tế một cách chủ động và khéo léo, tranh thủ sức sản xuất hiện
đại của thế giới, thì vẫn có thể phấn đấu đi lên chủ nghĩa xã hội. t
Trước nay, Ðảng ta vẫn luôn luôn chỉ ra rằng, chúng ta tiến hành công cuộc
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, tuy rằng có kế thừa kinh nghiệm của quá
trình công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa, nhưng căn bản phải có mục đích, bước
đi và cách làm phù hợp với bản chất của chủ nghĩa xã hội. Mục đích của công
nghiệp hóa ở nước ta phải là phát triển sản xuất gắn liền với cải thiện điều kiện
lao động và đời sống của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. Lợi nhuận là
cần thiết, song không chạy theo lợi nhuận đơn thuần, càng không xác định nó là
mục đích chủ yếu.
Chúng ta không theo "chủ nghĩa duy kinh tế", trái lại từng bước phát triển
lực lượng sản xuất phải gắn liền với từng bước có tiến bộ xã hội. Chúng ta phải
chú ý từng bước công nghiệp hóa gắn liền với từng bước xây dựng quan hệ sản
xuất mới - quan hệ sản xuất mới này có nhiều mặt.
Quá trình công nghiệp hóa bao giờ cũng gắn liền với xây dựng và phát
triển các ngành công nghiệp. Chủ nghĩa tư bản thường bắt đầu chủ yếu từ công
nghiệp nhẹ, sản xuất các hàng hóa tiêu dùng. Ðiều đó rất phù hợp với lợi ích
thiết thực của các nhà tư bản, nhất là lúc chủ nghĩa tư bản còn đang non yếu, vì
vốn ít, nhưng lại chu chuyển nhanh, tiền công rẻ, lợi nhuận nhiều, do đó thuận
lợi cho tích lũy và tích tụ tư bản, giúp các tư bản cá biệt lớn lên nhanh chóng.
Chủ nghĩa tư bản cuối thế kỷ 20 đã khác, lúc này chủ nghĩa tư bản thế giới
đã là một hệ thống lớn mạnh, tín dụng thế giới rất phát triển, thì một nước tư
bản chủ nghĩa như Hàn Quốc lại có thể có bước đi cả công nghiệp nhẹ và công
nghiệp nặng ngay từ đầu, chỉ trong vòng thập niên 60 và thập niên 70 của thế kỷ
trước mà đã hoàn thành công nghiệp hóa, trở thành một quốc gia có nền công
nghiệp hiện đại, đủ sức sản xuất hàng chục triệu tấn thép, sản xuất nhiều máy
móc tiên tiến từ máy cái đến các máy phụ trợ, từ máy công cụ cho đến các máy

sản xuất hàng tiêu dùng, theo đó tất yếu đã sản xuất được nhiều hàng tiêu dùng
10
phù hợp thời đại. Không đầy 20 năm mà Hàn Quốc tự trang bị được kỹ thuật
cho nền kinh tế quốc dân, nền kinh tế Hàn Quốc không những tự khẳng định
mình mà còn có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, ngay cả với hàng hóa
Mỹ (như mặt hàng ô-tô ).
Các nước xã hội chủ nghĩa thì lại càng khác hẳn, xét về mục đích và điều
kiện, thì bước đi, cách làm của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa không giống
công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa. Ngay từ đầu, các nước xã hội chủ nghĩa đã
có thể huy động sức mạnh của toàn xã hội, của Nhà nước, để tính toán phát triển
công nghiệp nặng chứ không chỉ chờ từng tư bản cá biệt tự lớn lên hoặc chờ quá
trình tập trung tư bản như trong xã hội tư bản. Các nước xã hội chủ nghĩa luôn
có yêu cầu bức xúc về độc lập tự chủ, có sức mạnh về kinh tế và quốc phòng để
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, trong khi các lực lượng đế quốc luôn luôn muốn
bóp chết các nhà nước xã hội chủ nghĩa non trẻ.
Chính trong điều kiện như vậy của Liên Xô trước đây, Lê-nin đã nhấn
mạnh rằng công nghiệp hóa nước nhà là ưu tiên phát triển sản xuất tư liệu sản
xuất có ý nghĩa quyết định trong cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lê-nin viết:
"Thế mà chính ngành công nghiệp này, gọi là "công nghiệp nặng", lại là cơ sở
chủ yếu của chủ nghĩa xã hội. Ðồng thời công nghiệp nặng cũng là cơ sở của
khả năng quốc phòng của nước nhà - Không có công nghiệp nặng thì chúng tôi
sẽ không thể xây dựng được công nghiệp nào cả, và nếu không có công nghiệp,
thì nói chung chúng tôi sẽ diệt vong, không còn là một nước độc lập nữa"
Lê-nin đã đề ra một kế hoạch điện khí hóa Liên Xô, thực chất là tiến hành
cuộc cách mạng kỹ thuật, công nghiệp hóa mạnh mẽ đất nước. Thực hiện tư
tưởng vĩ đại của Lê-nin, Ðảng cộng sản Liên Xô và Nhà nước Xô Viết, đứng
đầu là Sta-lin, đã tiến hành 2 kế hoạch 5 năm, dốc sức công nghiệp hóa xã hội
chủ nghĩa (gắn liền với hợp tác hóa nông nghiệp). Chỉ sau 10 năm, Liên Xô đã
trở thành một cường quốc công nghiệp, ngành điện, thép, chế tạo máy phát triển
chưa từng thấy, tự trang bị kỹ thuật khắp các ngành kinh tế quốc dân, sản xuất

hàng loạt máy cày, máy bừa, máy gặt đập. Về sau, nền công nghiệp to lớn ấy
của Liên Xô đã sản xuất hàng vạn xe tăng, đại bác, hàng ngàn máy bay chiến
đấu, hàng trăm chiến hạm, góp phần to lớn tiêu diệt chủ nghĩa phát-xít thế giới,
giải phóng loài người, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô.
Nói đến Trung Quốc, chính nhờ vào coi trọng xây dựng công nghiệp nặng,
trước hết là thép và cơ khí chế tạo máy, mà ngày nay Trung Quốc gần như sản
xuất được mọi thứ, đã trở thành một cường quốc quân sự và đang trở thành một
cường quốc kinh tế. Sau gần 30 năm thực hiện cải cách, mở cửa đời sống của
11
nhõn dõn Trung Quc t tỡnh trng úi kộm, lc hu lờn trỡnh thu nhp bỡnh
quõn u ngi gn 2.000 USD mt nm.
Trong hon cnh, iu kin ca nc ta, Bỏc H ó sỏng sut ch ra rng,
"c im to nht ca ta trong thi k quỏ l t mt nc nụng nghip lc
hu tin thng lờn ch ngha xó hi khụng phi kinh qua giai on phỏt trin t
bn ch ngha
Vỡ vy, nhim v quan trng nht ca chỳng ta l phi xõy dng nn tng
vt cht v k thut ca ch ngha xó hi".
Vi kt qu tc tng trng kinh t rt cao, gii quyt khụng nhng
lng thc m cũn xut khu na, bt u cú tớch ly t ni b nn kinh t quc
dõn, i sng nhõn dõn c n nh v ci thin rừ rt, éi hi VIII ca éng
(6-1996) ỏnh giỏ t nc ó thoỏt khi tỡnh trng khng hong kinh t - xó
hi, kt thỳc chng u thi k quỏ , ó to c nhng tin y mnh
cụng nghip húa. éi hi VIII ch rừ t õy t nc ta bc vo thi k mi,
thi k y mnh cụng nghip húa, hin i húa, phn u n nm 2020 nc
ta c bn tr thnh mt nc cụng nghip theo hng hin i.
Cụng nghip húa xó hi ch ngha l nhim v trung tõm trong sut thi k
quỏ lờn ch ngha xó hi ca nc ta. Nhng nó ũi hi phảI có ng li
quan im v c bc i, cỏch lm ỳng n. Thng li ca cụng nghip húa,
hin i húa s quyt nh thng li ca thi k quỏ . Cụng nghip húa xó hi
ch ngha va mang tớnh nhõn dõn va mang tớnh éng sõu sc, l mt s

nghip cỏch mng rt v vang ca éng, Nh nc v nhõn dõn ta.
2.2 Đặc điểm hiện đại hóa và công nghiệp hóa ở nớc ta
a.Vn rỳt ngn thi gian cụng nghip húa v ui kp cỏc nc
Cú nhiu lý do tin tng rng CNH ca nc ta cú nhiu kh nng
rỳt ngn thi gian so vi cỏc nc CNH c in chõu u trc õy. Mt mt,
vic gn kt c yờu cu CNH v HH vo cựng trong mt quỏ trỡnh s cho phộp
trỏnh c trựng lp trong nhiu bc cú tớnh chuyn tip v mt s khõu c
cu li hai ba ln. Mt khỏc, tin trỡnh CNH ca chỳng ta khụng phi l mt quỏ
trỡnh t phỏt, t iu chnh, m l mt tin trỡnh cú iu khin, ch o theo mt
ng li v mt chin lc nht quỏn vi nhng bc i cú chn lc, cú tớnh
toỏn hp lý. Ngoi ra, chỳng ta cng tha hng c nhiu kinh nghim c
thnh cụng v tht bi ca cỏc nc i trc.
Vi phỏt trin khỏ nhanh ca nc ta nh hin nay, n nm 2020 GDP
bỡnh quõn u ngi cng mi t trờn di 2.000 USD. Vi mc thu nhp y,
12
các chỉ tiêu phát triển khác cũng khó có khả năng đạt mức cao, chất lượng của
sự phát triển khó bảo đảm vững chắc. Bởi vậy, con đường an toàn cho việc thực
hiện mục tiêu phát triển bền vững và rút ngắn thời gian có thể dựa trên hai yếu
tố. Một là, nhanh chóng phát triển công nghệ mới, công nghệ cao để nâng cao
và duy trì tốc độ phát triển. Hai là, chuẩn bị tốt nhất các điều kiện tiền đề cho
CNH, HĐH (giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ, kết cấu hạ tầng, thể chế
quản lý ) để nắm bắt và lợi dụng tối đa thời cơ thuận lợi khi nó xuất hiện để tạo
ra những bước phát triển có tính nhảy vọt với tốc độ đột biến cao hơn. Nội dung
đó cũng đã được thể hiện trong Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, đây đồng thời
cũng là sự đúc rút từ kinh nghiệm của một số nước công nghiệp mới.
Vấn đề đuổi kịp các nước đi trước có thể thực hiện được trong một khoảng
thời gian hợp lý hay không cũng là một vấn đề cần được làm rõ. Nếu so sánh
với một vài nước khu vực, thì thời gian đuổi kịp còn khá dài. Ví dụ, thu nhập
bình quân đầu người hiện nay của Thái Lan, Trung Quốc cao gấp 3- 4 lần so với
Việt Nam, nhưng tốc độ tăng thu nhập cũng xấp xỉ hoặc cao hơn ta. Trong khi

đó, nếu tốc độ phát triển của Việt Nam được giữ liên tục như hiện nay thì sau 30
năm nữa cũng vẫn chưa thể đuổi kịp họ về thu nhập. Như vậy, bài toán đuổi kịp
tính với hai nước trên hầu như không khả thi trong trung hạn.
Tuy nhiên, nếu tính so sánh với bình quân của các nhóm nước, mà chúng ta
cần đặt mục tiêu đuổi kịp, như nhóm các nước đang phát triển, nhóm nước châu
Á, hay mức bình quân toàn cầu v.v., thì kết cục bài toán lại hoàn toàn khác. Ví
dụ, so với nhóm các nước đang phát triển, thì sẽ cần 20 năm để đuổi kịp và bắt
đầu vượt lên trước. So với bình quân toàn cầu sẽ cần khoảng 30 năm, và thậm
chí so với mức khởi đầu của các nước đã phát triển, mà tốc độ tăng trưởng liên
tục thường rất thấp, chúng ta cũng sẽ thấy rõ khả năng đuổi kịp là hiện thực.
Hơn nữa, những ước tính trên đây mới chỉ xét đến một yếu tố tăng trưởng
về kinh tế - thu nhập bình quân đầu người, chưa tính đến ảnh hưởng của tỷ giá
hối đoái đang có lợi cho chỉ số tăng trưởng của những nước như Việt Nam và
cũng chưa kể đến khả năng có thể có bước phát triển đột biến khi có cơ hội như
dự kiến của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Các nhà nghiên cứu nước
ngoài ước tính Trung Quốc đã đi được 73% trên con đường công nghiệp hóa, và
cũng theo ước tính trên, Việt Nam cũng đã đạt được 61%. Như vậy, mục tiêu
năm 2020 "cơ bản trở thành một nước công nghiệp" không phải là không có cơ
sở để thực hiện.
13
b.Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Theo b¸o ®iÖn tö §¶ng céng s¶n
- Cần tạo trong nông nghiệp, nông thôn môi trường ban đầu thích hợp để
có thể tiếp nhận những chính sách và giải pháp cụ thể của quá trình CNH, HĐH.
Có ba việc cần làm trước:
+ Sớm hoàn thành chương trình xóa đói, giảm nghèo ở các vùng nông thôn,
tạo mặt bằng kinh tế - xã hội tương đối đồng đều. Quan tâm vấn đề áp dụng
những tiêu chuẩn nghèo đói sát với tiêu chuẩn quốc tế để dễ đánh giá và so
sánh, đồng thời chú trọng đến yêu cầu bền vững, không để xảy ra hiện tượng
đói nghèo trở lại và làm biến dạng môi trường nông thôn.

+ Sớm xây dựng một nền kinh tế hàng hóa ở nông thôn, phá vỡ thế độc
canh, tự cấp tự túc còn rớt lại. Muốn vậy, chỉ giúp nông thôn xây dựng kết cấu
hạ tầng tối thiểu (điện, đường, trường, trạm, chợ) và cho vay vốn ban đầu vẫn
chưa đủ. Còn cần sớm hình thành một mạng lưới công ty, xí nghiệp vừa và nhỏ
(kể cả cực nhỏ) trên cơ sở huy động sự tham gia của các doanh nghiệp từ các
vùng công nghiệp, các lực lượng quân đội tại chỗ làm kinh tế và nguồn vốn của
Nhà nước.
+ Xây dựng quy hoạch về an toàn lương thực và bảo vệ môi trường sinh
thái nông thôn, vừa sử dụng hợp lý đất đai, mặt nước, vừa chủ động phòng
chống thiên tai.
- Việc áp dụng các phương pháp công nghiệp và tổ chức tiên tiến vào sản
xuất nông - lâm - ngư nghiệp, tạo năng suất cao và chất lượng hàng hóa nông
sản đáp ứng yêu cầu của thị trường trong và ngoài nước, sẽ bảo đảm cho thu
nhập của người nông dân được nâng lên xấp xỉ với mặt bằng thu nhập chung
của xã hội. Muốn đạt được yêu cầu trên, trước hết cần đầu tư vào các biện pháp
kỹ thuật: thủy lợi hóa, cơ giới hóa, sinh học hóa và điện khí hóa. Bên cạnh đó,
các giải pháp về tổ chức sản xuất đang đặt ra những vấn đề bức xúc. Không thể
công nghiệp hóa nông nghiệp trên cơ sở những mảnh ruộng quá manh mún,
những tổ chức sản xuất quá nhỏ bé, luôn bị động về tiêu thụ sản phẩm và khó
khăn về áp dụng các biện pháp công nghệ mới. Các hình thức hợp tác xã sản
xuất ở đồng bằng và các kiểu trang trại ở vùng trung du, miền núi và ven biển
phải đóng góp vào việc mở rộng quy mô khai thác, nhờ đó các biện pháp kỹ
thuật mới phát huy được hiệu quả. Mặt khác, muốn đưa nông nghiệp lên trình
độ hiện đại thì đã đến lúc cần tạo điều kiện để áp dụng một cách phổ biến các
công nghệ mới vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xây dựng những khu nông
14
nghiệp công nghệ cao, đổi mới kỹ thuật và tổ chức sản xuất, kể cả tổ chức lại
cuộc sống ở các vùng nông thôn.
- Một nhân tố quan trọng trong CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là vấn
đề phát triển công nghiệp ở các vùng nông thôn hay là vấn đề cơ cấu lại kinh tế

và lao động nông thôn. Theo số liệu thống kê, lao động nông nghiệp hiện đang
đóng góp khoảng 20% GDP toàn quốc, tỷ lệ đó sẽ giảm dần (tuy giá trị tuyệt đối
vẫn tăng), dự báo có thể xuống dưới 10% sau năm 2020. Như vậy, muốn tăng
thu nhập của nông dân lên gần với mức chung của cả nước thì tỷ lệ lao động
trong nông nghiệp còn cần giảm nhiều, diện tích đất canh tác cho mỗi lao động
phải tăng lên Do đó số lao động dôi dư ở vùng nông thôn sẽ rất lớn. Tạo việc
làm mới sẽ là vấn đề cấp bách và kéo dài trong suốt thời kỳ CNH, HĐH.
Đương nhiên là khu vực công nghiệp và dịch vụ (sẽ chiếm đến 80% - 90%
nền kinh tế) phải có nhiệm vụ thu hút số lao động dôi dư đó. Song nếu chuyển
tất cả về mấy thành phố lớn và các khu công nghiệp sẽ không thể là phương án
tối ưu. Tuy có thể tăng nhanh tỷ lệ đô thị hóa, nhưng những nhu cầu về đất đai,
kết cấu hạ tầng và rủi ro về môi trường là rất khó giải quyết, chưa kể nhu cầu về
vốn đầu tư để tạo ra việc làm trong công nghiệp hiện đại. Giải pháp thích hợp sẽ
là tích cực phát triển công nghiệp và dịch vụ ở các vùng nông thôn, hình thành
một mạng lưới công - thương vừa, nhỏ và siêu nhỏ vừa nằm gần các vùng
nguyên liệu và hộ tiêu thụ, vừa tạo nhiều việc làm và có thể xử lý tốt vấn đề môi
trường và đô thị hóa.
Ngoài những khu công nghiệp tập trung lớn hàng trăm héc-ta, trong quy
hoạch phát triển cần sắp xếp một mạng lưới "tiểu khu công nghiệp" hay cụm
công nghiệp vừa và nhỏ ở khắp các tỉnh (trong đó có các cụm làng nghề) để cho
công nghiệp cũng như đô thị không bị quá tải bởi tình trạng tập trung vào một
số cực, mà điều kiện thực tế không đủ sức chịu đựng về mọi phương diện xã
hội, môi trường và cung ứng
- Một vấn đề bao trùm về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là việc xây
dựng kết cấu hạ tầng nông thôn mới. Giai đoạn đầu cần quan tâm đến đường sá
và điện nước. Vấn đề đòi hỏi nhiều thời gian hơn là việc sắp xếp lại dân cư cho
phù hợp với phân bố lại lao động và cải thiện môi trường sống vùng nông thôn
để vẫn giữ nguyên được khung cảnh thiên nhiên đặc trưng làng quê, nhưng lại
có được những tiện nghi đời sống hiện đại như ở các đô thị.
Thực hiện những yêu cầu trên, cách tốt nhất là sắp xếp và hình thành nhiều

thị trấn nhỏ làm nơi tập trung công nghiệp và dịch vụ, nơi ươm tạo và phát triển
kỹ thuật, công nghệ phục vụ nông thôn, và biến những nơi này thành điểm văn
15
hóa nông thôn mới. Một mạng lưới những thị trấn như vậy, phân bố rộng trên
tất cả các vùng lãnh thổ, nối liền với những trung tâm công nghiệp mới và
những đô thị đã có sẵn bằng một hệ thống giao thông thuận lợi, một mạng thông
tin và các hạ tầng kỹ thuật có thể bảo đảm cho sự phát triển hài hòa của toàn
bộ đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của cả nước.
Song song với việc xây dựng hạ tầng kỹ thuật đó, cần thực hiện chương
trình nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực và bồi dưỡng nhân tài ở vùng
nông thôn ngang tầm nhiệm vụ mới.
c.Về phát triển khoa học, công nghệ
Vấn đề làm thế nào để khoa học, công nghệ (kể cả giáo dục và đào tạo)
thực sự trở thành nền tảng và động lực của CNH, HĐH đã được làm rõ dần với
chủ trương của Chính phủ về "xã hội hóa", đổi mới quản lý công tác khoa học,
công nghệ và đổi mới quản lý giáo dục đại học.
Cơ chế quản lý khoa học, công nghệ những năm qua thường không nối kết
trực tiếp người nghiên cứu với người sử dụng kết quả nghiên cứu. Giữa 2 khâu
cung và cầu đó thường phải qua khâu trung gian là Nhà nước, kinh phí nghiên
cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ chủ yếu là từ ngân sách nhà nước. Trong
khi đó, doanh nghiệp (nhất là doanh nghiệp nhà nước) không bị ràng buộc
(đúng ra là chưa có động lực) phải tìm đến tiến bộ khoa học. Các cơ quan khoa
học, công nghệ lớn phần nhiều là thuộc sở hữu nhà nước, tình trạng bao cấp làm
cho lao động của các nhà khoa học chưa được đánh giá đúng mức do hoạt động
khoa học, công nghệ còn tập trung quá nhiều vào Nhà nước, phụ thuộc vào cơ
chế hành chính quan liêu, phần lớn được ngân sách nhà nước bao cấp.
Để khắc phục những nhược điểm trên, Nhà nước nên tập trung chủ yếu vào
việc ban hành các chính sách quản lý và khuyến khích hoạt động nghiên cứu và
ứng dụng khoa học, công nghệ, xác định các hướng ưu tiên cho từng thời kỳ
tương ứng với các chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Về nhu cầu nghiên cứu,

Nhà nước đặt hàng bằng phương thức giao thầu hoặc đấu thầu các đề tài về
quản lý nhà nước và khoa học cơ bản, đồng thời lập các quỹ hỗ trợ phát triển
khoa học, công nghệ và quỹ "mạo hiểm" để hỗ trợ một phần cho các đề tài về
sản xuất, kinh doanh phục vụ các hướng ưu tiên quốc gia và bù đắp cho phần rủi
ro trong nghiên cứu khoa học, công nghệ.
Có cơ chế khuyến khích và ràng buộc để các doanh nghiệp trực tiếp đặt
hàng với các tổ chức nghiên cứu, được nhận sự hỗ trợ của các quỹ hỗ trợ phát
triển khoa học, công nghệ, được ưu đãi trong việc lập quỹ khoa học, công nghệ
16
và trong khai thác, sử dụng các kết quả nghiên cứu công nghệ trong nước. Các
tổ chức khoa học, công nghệ áp dụng cơ chế sự nghiệp mới, có quyền tự chủ và
tự chịu trách nhiệm về kế hoạch hoạt động, về tổ chức nhân sự và thu chi tài
chính, không phân biệt thuộc trung ương hay địa phương, công lập hay dân lập,
chỉ còn sự khác nhau về trình độ, năng lực chuyên môn, khoa học, nghĩa là năng
lực cạnh tranh. Thu nhập của cán bộ khoa học phải dựa vào kết quả của lao
động khoa học bỏ ra, có thể rất cao nếu đem ứng dụng vào thực tế có hiệu quả,
nhưng cũng có thể chỉ đạt mức bình thường nếu chưa được ứng dụng, hoặc
chưa có kết quả. Ngoài ra, cần có chế tài cụ thể trong việc bảo vệ quyền tác giả,
quyền sở hữu trí tuệ.
17
Chơng III
Vai trò của giai cấp công nhân Việt Nam trong sự
nghiệp Công nghiệp hóa & hiện đại hóa, xây dựng
quan hệ sản xuất mới
3.1 CNH-HĐH và vai trò xây dựng quan hệ sản xuất theo
định hớng XHCN
a. y mnh cụng nghip hoỏ, hin i hoỏ, xõy dng nn kinh t c
lp t ch, a nc ta tr thnh mt nc cụng nghi.
Nhim v trung tõm ca cỏch mng nc ta trong sut thi k quỏ lờn
ch ngha xó hi, khụng qua ch t bn ch ngha l phi xõy dng c s vt

cht v k thut ca ch ngha xó hi, trong ú cú cụng nghip v nụng nghip
hin i, vn hoỏ v khoa hc tiờn tin. Mun thc hin thnh cụng nhim v
quan trng ú, nht thit phi tin hnh cụng nghip hoỏ, hin i hoỏ, tc l
chuyn nn kinh t nụng nghip lc hu thnh nn kinh t cụng nghip vn
minh.
Thc cht ca cụng nghip hoỏ, hin i hoỏ l chuyn ton b nn sn
xut xó hi t lao ng th cụng l chớnh sang lao ng vi phng tin v
phng phỏp tiờn tin cú nng sut cao.
Cụng nghip hoỏ, hin i hoỏ nn kinh t quc dõn trong bi cnh ton
cu hoỏ kinh t, chỳng ta phi xõy dng nn kinh t c lp, t ch. Nn kinh t
c lp, t ch, trc ht l c lp, t ch v ng li, ch trng, chớnh sỏch
phỏt trin kinh t - xó hi, khụng l thuc vo nhng iu kin kinh t - chớnh tr
do ngi khỏc ỏp t, ng thi cú tim lc kinh t mnh; cú mc tớch lu
ngy cng cao t ni b nn kinh tcú nng lc ni sinh v khoa hc v cụng
ngh; bo m an ninh lng thc, an ton nng lng, ti chớnh, mụi trng
Xõy dng nn kinh t c lp, t ch i ụi vi ch ng hi nhp kinh t quc
t v khu vc, t ú phn u n nm 2020 a nc ta c bn tr thnh nc
cụng nghip theo hng hin i.
b. Ưu tiờn phỏt trin lc lng sn xut, ng thi xõy dng quan h
sn xut phự hp theo nh hng xó hi ch ngha
Theo quy lut chung nht v s phự hp ca quan h sn xut vi tớnh cht
v trỡnh ca lc lng sn xut thỡ bt c s thay i no ca quan h sn
xut, cng u l kt qu tt yu s phỏt trin ca lc lng sn xut.
18
Trong suốt cả quá trình thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước ta
rất chú trọng ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, nhiều ngành kinh tế được
đầu tư, từng bước hiện đại. Mặt khác, chúng ta cũng không coi nhẹ việc xây
dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới phù hợp. Thực tế những năm vừa qua,
trong nông nghiệp, nông thôn, sự thích ứng giữa trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất với quan hệ sản xuất mới đã tạo ra những bước phát triển quan

trọng trong khu vực kinh tế này.
c. Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn ngoại lực và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vữn.
Trong bối cảnh khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế, Đảng ta chỉ rõ phải
phát huy cao độ nội lực, coi nội lực là quyết định, nhưng không được coi nhẹ
nguồn ngoại lực, tranh thủ nguồn vốn, khoa học và công nghệ, kinh nghiệm
quản lý…được xem là nguồn bổ sung quan trọng cho sự phát triển của đất nước.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế giúp chúng ta rút ngắn khoảng cách
chênh lệch với các nước trong khu vực và trên thế giới, thuận lợi trong việc mở
rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá trong nước (những mặt hàng có lợi thế). Chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững,
điều này cần phải được quán triệt trong tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền
kinh tế, cả trước mắt cũng như lâu dài.
Theo tham luận của đồng chí Cù Thị Hậu, Ủy viên Trung ương Đảng khóa
IX, chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt:“ Hai mươi năm thực hiện đường lối
đổi mới, do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, giai cấp công nhân Việt Nam đã
không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng, đang có mặt trong tất cả
các ngành nghề, các thành phần kinh tế, là lực lượng quan trọng, lực lượng đi
đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Giai cấp công nhân (GCCN) Việt
Nam đang lao động cần cù, sáng tạo làm ra ngày càng nhiều sản phẩm hàng hóa
cho xã hội và xuất khẩu với chất lượng và hiệu quả ngày càng cao. Hiện nay,
mặc dầu GCCN Việt Nam chỉ chiếm 13% dân số, gần 23% lực lượng lao động
xã hội, song hàng năm đã sản xuất ra khối lượng sản phẩm chiếm trên 40% giá
trị tổng sản phẩm, đóng góp 60% ngân sách nhà nước. Trong suốt quá trình đổi
mới GCCN Việt Nam đã có nhiều đóng góp quan trọng và xây dựng hoàn thiện
đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách pháp luật của Nhà nước và góp
phần quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội.
19
Mặc dầu GCCN nước ta đang có sự phát triển nhanh cả về số lượng và chất

lượng, song trước yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, trong điều kiện khoa học công nghệ ngày càng phát triển nhanh, toàn cầu
hoá diễn ra như một xu thế khách quan, , tình hình thế giới có những thay đổi
hết sức nhanh chóng, âm mưu ''diễn biến hoà bình'' của các thế lực thù địch đối
với nước ta vẫn còn diễn biến phức tạp. Tác động mặt trái của kinh tế thị trường
và sự du nhập của các luồng văn hoá độc hại đang từng ngày, từng giờ tác động
đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung, đến GCCN nói riêng. Nên
GCCN Việt Nam đang đứng trước những thách thức vô cùng to lớn: tình trạng
việc làm của công nhân, lao động không ổn định, thời gian làm việc kéo dài và
cường độ làm việc rất cao, điều kiện làm việc ít được cải thiện, nên tai nạn lao
động gia tăng. Hàng chục vạn công nhân lao động trong các khu công nghiệp,
khu chế xuất phải thuê nhà ở, trong điều kiện tạm bợ thiếu thốn và không đảm
bảo an toàn
Tình hình trên có nhiều nguyên nhân, song chúng tôi cho rằng một trong
những nguyên nhân cơ bản là những năm qua, Đảng, Nhà nước chưa quan tâm
thoả đáng đến xây dựng, phát huy vai trò GCCN. Một thực tế là Đảng luôn
khẳng định mang bản chất GCCN, nhưng 39 năm qua, Ban chấp hành TW, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư chưa có nghị quyết riêng về GCCN và tổ chức Công đoàn
Việt Nam, mặc dầu nhiều nhiệm kỳ Đại hội Đảng đã đề ra chủ trương xây dựng
nghị quyết về GCCN, nhưng đến nay chủ trương đó vẫn chưa thực hiện được
(Trừ NQTW VII (khoá V) đã có gắn được một phần vào đường lối phát triển
công nghiệp và công nghệ).
Công tác đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ công nhân lao động, đào tạo
bồi dưỡng cán bộ xuất thân từ những công nhân ưu tú, công tác phát triển Đảng
trong công nhân lao động, nhất là trong công nhân lao động khu vực ngoài quốc
doanh cũng chưa được quan tâm. Tỷ lệ công nhân được kết nạp Đảng trong tổng
số đảng viên mới kết nạp bình quân hàng năm từ Đại hội VII của Đảng đến nay
chỉ chiếm dưới 11 %, đại biểu dự Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII
thành phần công nhân chỉ chiếm 8,3%, đến Đại hội đại biểu lần thứ IX chỉ còn
6,42 %, số uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII chỉ có 10%

thành phần xuất thân từ công nhân, đến Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ
IX, tỷ lệ này chỉ còn 4,6%. Công tác xây dựng phát triển tổ chức Đảng và các tổ
chức quần chúng trong GCCN cũng chưa thực sự quan tâm, nên hiện nay ở khu
vực ngoài quốc doanh, khu vực có vốn dầu tư nước ngoài rất hiếm các cơ sở có
tổ chức đảng, tổ chức Đoàn Thanh niên.
20
Cùng với quá trình CNH, HĐH đất nước và chuyển đổi cơ cấu lao động
sang hướng công nghiệp và dịch vụ, giai cấp công nhân nước ta sẽ phát triển rất
nhanh, không chỉ là lực lượng chính trị, xã hội quan trọng mà còn là người nắm
giữ cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại nhất của nền kinh tế, có vai trò quyết định
vào thắng lợi của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước Dưới sự lãnh đạo của Đảng,
cán bộ, công nhân, viên chức lao động và tổ chức công đoàn cả nước quyết tâm
phát huy truyền thống cách mạng vẻ vang của Đảng và giai cấp công nhân, nêu
cao ý chí tự lực, tự cường, đoàn kết đồng lòng, quyết tâm thực hiện thắng lợi
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng lần thứ X, cùng toàn Đảng, toàn dân đẩy
nhanh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh'' theo định hướng XHCN”.
3.2 Sù ph¸t triÓn cña giai cÊp c«ng nh©n c¶ sè lîng vµ
chÊt lîng
Theo văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng khẳng định
nhiệm vụ: “Phát triển giai cấp công nhân về số lượng, chất lượng và tổ chức;
nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp, xứng
đáng là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất
nước. Giải quyết việc làm, giảm tối đa số công nhân thiếu việc làm và thất
nghiệp. Thực hiện tốt chính sách và pháp luật về lao động, tiền lương, bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hộ lao động, chăm sóc, phục
hồi sức khoẻ đối với công nhân, chính sách ưu đãi nhà ở đối với công nhân bậc
cao. Xây dựng tổ chức, phát triển đoàn viên công đoàn, nghiệp đoàn đều khắp ở
các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế. Thường xuyên
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp

của công nhân và những người lao động, chú trọng công nhân làm việc ở các
khu công nghiệp và đô thị lớn. Chăm lo đào tại cán bộ và kết nạp đảng viên từ
những công nhân ưu tú”
Cùng với việc đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước hiện nay, giai cấp công nhân
Việt Nam sẽ tăng nhanh về số lượng.
Qua hai mươi năm đổi mới, giai cấp công nhân Việt Nam đã có bước
trưởng thành vượt bậc về số lượng và chất lượng.
- Về số lượng: Theo Báo cáo của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, tính
đến nay, số lượng công nhân viên chức lao động nước ta khoảng 10,8 triệu
người, trong đó 8,2 triệu người làm việc trong các cơ sở sản xuất kinh doanh và
2,6 triệu người là công nhân, viên chức làm việc trong các đơn vị hành chính sự
21
nghiệp. Dự báo đến năm 2010, số lượng công nhân Việt Nam có thể tăng lên
đến 17 triệu người, chiếm 20% dân số trong cả nước.
- Về chất lượng: Giai cấp công nhân trở thành người làm chủ đất nước, làm
chủ tư liệu sản xuất, đại bộ phận công nhân không còn hoàn toàn là vô sản như
đầu thế kỷ XX, trong đó bên cạnh những người lao động chân tay có nhiều lao
động trí óc với trình độ đại học Giai cấp công nhân vẫn đóng vai trò tiên
phong, ý thức giác ngộ chính trị của giai cấp công nhân được nâng lên, đi đầu
trong việc thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước, trực tiếp tham gia
vào quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế, xây dựng thể chế kinh tế thị trường,
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công tác phát triển Đảng
trong công nhân có nhiều tiến bộ, ngày càng có nhiều công nhân đứng trong
hàng ngũ của Đảng. Có thể khẳng định bản thân giai cấp công nhân cũng là lực
lượng tiên phong trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta
Chúng ta sẽ xây dựng từng bước giai cấp công nhân Việt Nam vững mạnh,
phát triển về số lượng và chất lượng đáp ứng được yêu cầu quá trình đổi mới,
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh,
phấn đấu đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại.

22
Phần II: Giai cấp công nhân
trong thời kỳ đổi mới
Thời cơ và thách thhức đối với giai cấp công nhân ở thời kỳ mới
Mc du GCCN nc ta ang cú s phỏt trin nhanh c v s lng v cht
lng, song trc yờu cu ca s nghip cụng nghip húa, hin i húa t
nc, trong iu kin khoa hc cụng ngh ngy cng phỏt trin nhanh, ton cu
hoỏ din ra nh mt xu th khỏch quan, , tỡnh hỡnh th gii cú nhng thay i
ht sc nhanh chúng, õm mu ''din bin ho bỡnh'' ca cỏc th lc thự ch i
vi nc ta vn cũn din bin phc tp. Tỏc ng mt trỏi ca kinh t th trng
v s du nhp ca cỏc lung vn hoỏ c hi ang tng ngy, tng gi tỏc ng
n tt c cỏc lnh vc ca i sng xó hi núi chung, n GCCN núi riờng. Nờn
GCCN Vit Nam ang ng trc nhng thỏch thc vụ cựng to ln: tỡnh trng
vic lm ca cụng nhõn, lao ng khụng n nh, thi gian lm vic kộo di v
cng lm vic rt cao, iu kin lm vic ớt c ci thin, nờn tai nn lao
ng gia tng. Hng chc vn cụng nhõn lao ng trong cỏc khu cụng nghip,
khu ch xut phi thuờ nh , trong iu kin tm b thiu thn v khụng m
bo an ton. c bit l tin lng, thu nhp ca ngi lao ng cha tng
xng vi cng v thi gian lao ng, thm chớ cú ni lng cụng nhõn
hng thỏng ch khong 400 ngn ng, khụng nuụi sng bn thõn mỡnh ni
t khỏch quờ ngi, nờn i sng gp vụ vn khú khn, iu kin sinh hot
tinh thn cng rt thiu thn. Cụng nhõn lao ng khụng cú thi gian, iu kin
sinh hot, hc tp nõng cao nhn thc chớnh tr v trỡnh chuyờn mụn nghip
v. Do vy trỡnh hc vn, chuyờn mụn ngh nghip ca mt b phn cụng
nhõn cũn thp, cha ỏp ng c yờu cu cụng nghip hoỏ, hin i hoỏ t
nc, ý thc t chc k lut, tỏc phong cụng nghip, ý thc chớnh tr, hiu bit
phỏp lut cũn rt hn ch, cú mt b phn cụng nhõn sng thiu lý tng, nim
tin, sa vo cỏc t nn xó hi, dn n tha húa v phm cht li sng, phai nht
phm cht ca GCCN, gim lũng tin v s gn bú vi ng v Cụng on. Mt
b phn cỏn b cụng chc tham nhng, tiờu cc vi phm phỏp lut, s phõn hoỏ

giu nghốo gia cụng nhõn lao ng vi nhng ngi cú chc, cú quyn trong
doanh nghip v mt s giai tng trong xó hi cng ngy cng tng. Mt s a
phng, mt s khu cụng nghip mi chỳ trng mi gi u t v thu ngõn
sỏch, nhng cha chỳ ý n vic chm lo i sng cho ngi lao ng. Do vy,
ó xy ra tranh chp lao ng v ỡnh cụng t trong cụng nhõn lao ng thi
gian qua, thc trng trờn ó phn ỏnh s bc xỳc v quyn li v thiu am hiu
phỏp lut ca cụng nhõn lao ng, s hn ch ca t chc Cụng on v s cha
quan tõm ca ng, Nh nc i vi cụng nhõn lao ng.
23
Phần III: Kết Luận
1.Vai trò của giai cấp công nhân ngày nay
Giai cp cụng nhõn Vit Nam ang hng ngy, hng gi lao ng cn cự,
sỏng to, lm ra nhiu sn phm cho xó hi phc v tiờu dựng v xut khu, vi
cht lng, hiu qu ngy cng cao. Trong 20 nm i mi, giai cp cụng nhõn
Vit Nam ó cú nhiu úng gúp quan trng gúp phn xõy dng, hon thin
ng li, ch trng ca éng, chớnh sỏch, phỏp lut ca Nh nc
Cựng vi quỏ trỡnh cụng nghip húa, hin i húa t nc v chuyn
i c cu lao ng sang hng cụng nghip v dch v, giai cp cụng
nhõn nc ta s phỏt trin rt nhanh, khụng ch l lc lng chớnh tr, xó
hi quan trng m cũn l ngi nm gi c s vt cht k thut hin i
nht ca nn kinh t, cú vai trũ quyt nh vo thng li ca s nghip
cụng nghip húa, hin i húa t nc
2.Chính sách của đảng xây dựng giai cấp công nhân
ngày càng phát triển
Xõy dng, phỏt trin ton din giai cp cụng nhõn luụn l mi quan tõm
thng trc ca ng trong sut quỏ trỡnh lónh o cỏch mng nc ta. i hi
X ca ng xỏc nh: i vi giai cp cụng nhõn phỏt trin v s lng, cht
lng v t chc; nõng giỏc ng v bn lnh chớnh tr, trỡnh hc vn v ngh
nghip, xng ỏng l lc lng i u trong s nghip cụng nghip hoỏ, hin
i hoỏ t nc.

Ngay t ngy u thnh lp ng ta cng ó xỏc nh: ng l i tiờn
phong ca vụ sn giai cp phi thu phc cho c i b phn giai cp mỡnh,
phi lm cho giai cp mỡnh lónh o c dõn chỳng. Trong sut quỏ trỡnh
lónh o u tranh ginh chớnh quyn, ng ta luụn coi giai cp cụng nhõn l
lc lng nũng ct, lónh o cỏch mng v ó cú nhiu ch trng, chớnh sỏch
tp hp v xõy dng giai cp cụng nhõn vng mnh, thc s l lc lng nũng
ct, tiờn phong trong cỏch mng dõn tc dõn ch nhõn dõn. Chớnh nhng ch
trng, ng li ỳng n, sỏng to ca ng v xõy dng, phỏt trin giai cp
cụng nhõn l mt trong nhng nguyờn nhõn quan trng a s nghip u tranh
gii phúng dõn tc i n thng li.
Sau khi nc nh thng nht, c nc i lờn ch ngha xó hi, vn xõy
dng v phỏt huy vai trũ giai cp cụng nhõn tip tc c ng ta c bit quan
tõm. Ngh quyt i hi IV ca ng tip tc xỏc nh nhim v xõy dng giai
24
cấp công nhân không ngừng lớn mạnh về số lượng và chất lượng, xứng đáng
với vai trò giai cấp tiên phong, lãnh đạo cách mạng là nhiệm vụ trọng tâm trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tiến hành công cuộc đổi mới tòan diện đất nước, nhận thức rõ ý nghĩa
quan trọng của vấn đề xây dựng và phát triển giai cấp công nhân trong giai đọan
cách mạng mới, Nghị quyết Đại hội VI của Đảng (năm 1986), chỉ rõ: “Đảng cần
có những biện pháp cụ thể nhằm nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa và trình độ
hiểu biết về mọi mặt để xứng đáng với vị trí giai cấp tiên phong của cách mạng,
đồng thời chăm lo đời sống vật chất và văn hóa, tạo ra những điều kiện cần thiết
để giai cấp công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình”.
Hội nghị lần thứ 7 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã ra
Nghị quyết: “Phát triển công nghiệp đến năm 2000 theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn
mới”. Với tinh thần thẳng thắn, Đảng đã chỉ ra những hạn chế về xây dựng, phát
huy vai trò giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn là: “trong quá trình chuyển
sang cơ chế mới, đã có những biểu hiện coi nhẹ vị trí, vai trò giai cấp công

nhân, các chủ trương, chính sách xây dựng giai cấp công nhân chậm được đổi
mới”. Đảng ta đã khẳng định: “xây dựng giai cấp công nhân vững mạnh là trách
nhiệm của Đảng, Nhà nước, Công đoàn và của các đoàn thể chính trị – xã hội,
đồng thời là trách nhiệm của mỗi người, mỗi tập thể công nhân… cần có cơ chế
đảm bảo quyền công nhân và quyền Công đoàn trong từng loại hình doanh
nghiệp”.
Phát triển, hoàn thiện tư duy lý luận của Đảng, tại Đại hội VIII (năm 1996)
Đảng ta tiếp tục khẳng định xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh về mọi mặt,
phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, nâng cao trình độ học vấn tay nghề,
có năng lực ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, có tác phong công nghiệp và
ý thức tổ chức, kỷ luật, lao động đạt năng suất, chất lượng hiệu quả ngày càng
cao, làm nòng cốt trong việc xây dựng khối liên minh công nhân, nông dân, trí
thức và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân”.
Bước vào thế kỷ XXI, trước yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, tư duy của Đảng
về giai cấp công nhân ngày càng được chú trọng hoàn thiện. Tại Đại hội IX
(năm 2001) Đảng ta khẳng định: “Đối với giai cấp công nhân, coi trọng phát
triển về số lượng và chất lượng, nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ
học vấn và nghề nghiệp, thực hiện “trí thức hóa công nhân", nâng cao năng lực
ứng dụng và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất, chất lượng và hiệu
25

×