Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Thảo luận nhóm "Chế độ lưu thông tiền tệ và ý nghĩa" pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.6 KB, 9 trang )

Trường Đại Học Kinh tế và Quản trị kinh doanh
Khoa Kế toán
BÀI THẢO LUẬN NHÓM
Môn TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
Chủ đề:
Chế độ lưu thông tiền tệ và ý nghĩa
NHÓM 10
Lớp: K5A5
_________________
Thái Nguyên 2010
Tiền là thứ dùng để trao đổi lấy hàng hóa và dịch vụ nhằm thỏa mãn bản thân và
mang tính dễ thu nhận (nghĩa là mọi người đều sẵn sàng chấp nhận sử dụng). Tiền
là một chuẩn mực chung để có thể so sánh giá trị của các hàng hóa và dịch vụ.
Thông qua việc chứng thực các giá trị này dưới dạng của một vật cụ thể (thí dụ như
tiền giấy hay tiền kim loại) hay dưới dạng văn bản (dữ liệu được ghi nhớ của một
tài khoản) mà hình thành một phương tiện thanh toán được một cộng đồng công
nhận trong một vùng phổ biến nhất định. Một phương tiện thanh toán trên nguyên
1
tắc là dùng để trả nợ. Khi là một phương tiện thanh toán tiền là phương tiện trao
đổi chuyển tiếp vì hàng hóa hay dịch vụ không thể trao đổi trực tiếp cho nhau
được.
Chế độ lưu thông tiền tệ
* Khái niệm
Lưu thông tiền tệ là sự vận động của tổng giá trị tiền tệ so với tổng giá
cả hàng hóa trong từng thời kỳ.
Chế độ lưu thông tiền tệ là tổng hợp các quy định mang tính pháp luật
có liên quan đến hình thức tổ chức lưu thông tiền tệ của mỗi nước nhằm đưa
các nhân tố khác nhau của lưu thông tiền tệ đạt đến sự thống nhất.
Sự phát triển của chế độ lưu thông tiền tệ không những tùy thuộc vào sự
phát triển kinh tế của mỗi quốc gia mà còn được quyết định bởi trình độ tổ
chức nhà nước. Tuy nhiên cần lưu ý rằng chế độ lưu thông tiền tệ mà Nhà


nước ban hành không phải là vấn đề đơn thuần về mặt luật pháp hay xuất
phát từ ý thức chủ quan của nhà nước, mà để phát huy tác dụng tích cực của
chế độ tiền tệ trong đời sống kinh tế xã hội vì thế khi xây dựng chế độ tiền tệ
phải bắt nguồn từ sự tồn tại các quan hệ kinh tế.
Các chế độ lưu thông tiền tệ phát triển từ thấp đến cao, cùng với sự phát
triển của nền kinh tế hàng hóa tiền tệ, từ chế độ lưu thông tiền kim loại đến
chế độ lưu thông tiền dấu hiệu.
* Các chế độ lưu thông tiền tệ gồm có:
- Chế độ lưu thông tiền kim loại
- Chế độ lưu thông tiền dấu hiệu
1.Chế độ lưu thông tiền kim loại
Đến thế kỷ 18 giá trị của các loại tiền tệ của châu Âu được định nghĩa thông
qua lượng kim loại quý. Bên cạnh việc theo dõi sản xuất trong nước, các xưởng
đúc tiền quốc gia còn theo dõi cả việc đúc tiền của nước ngoài. Một tiền tệ được
đánh giá quá cao hay quá thấp khi đồng tiền được tính trên hay dưới giá trị của kim
loại trong lúc tính toán với các tiền tệ khác trên thế giới.
2
a.Khái niệm
Tiền kim loại là tiền tệ dưới dạng các kim loại, thường là các kim loại quý như
vàng,bạc, đồng
Ưu điểm: chất lượng, trọng lượng có thể xác định chính xác, dễ dàng hơn, thêm
vào đó, nó lại bền hơn, dễ chia nhỏ, giá trị tương đối ít biến đổi
Nhược điểm: nặng, dễ rơi mất, khó bảo quản, khó khăn cho việc vận chuyển,…
Trong thực tiễn lưu thông tiền kim loại, chỉ có vàng trở thành loại tiền tệ được
sử dụng phổ biến và lâu dài nhất. Bạc rồi đồng chỉ được sử dụng thay thế khi thiếu
vàng dùng làm tiền tệ.
b.Phân loại
Chế độ lưu thông tiền kim loại gồm có:
- Chế độ lưu thông tiền kim loại kém giá
- Chế độ lưu thông tiền kim loại đủ giá

* Chế độ lưu thông tiền kim loại kém giá
Tiền kim loại kém giá là tiền được đúc bằng kim loại có giá trị thấp như
kẽm hoặc đồng. Những đồng tiền này được lưu thông trong một thời gian
khá dài trước khi CNTB hình thành.
* Chế độ lưu thông tiền kim loại đủ giá
Khi nền kinh tế TBCN được hình thành và phát triển những đồng tiền kim loại
kém giá đã chấm dứt sứ mệnh lịch sử của mình và thay vào đó là những đồng tiền
kim loại đủ giá, kim loại có giá trị cao. Lưu thông tiền kim loại đủ giá là lưu thông
tiền bạc và tiền vàng.
Chế độ lưu thông tiền kim loại đủ giá được phát triển qua các giai đoạn:
• Chế độ bản vị bạc
3
Chế độ bản vị bạc là chế độ lưu thông tiền mà theo đó bạc được sử dụng là
phương tiện trao đổi hàng hóa và thanh toán các khoản nợ.
Chế độ bản vị này được sử dụng rất phổ biến ở các nước Nga, Hà Lan, Ấn Độ,
Nhật,… vào nửa cuối thế kỷ XIX. Sau đó do bạc không còn thích hợp với chức
năng làm phương tiện lưu thông nữa vì nhiều mỏ bạc được phát hiện ở Mê xi cô
cùng với phương thức khai thác và chế biến tiên tiến đã khiến giá trị của bạc giảm
xuống.
• Chế độ song bản vị
Song bản vị là chế độ lưu thông tiền tệ chuyển tiếp từ chế độ bản vị bạc sang
chế độ bản vị vàng. Trong chế độ này cả hai loại tiền tệ được sử dụng và trao đổi
thanh toán
Tuy nhiên tiền vàng được sử dụng trong những giao dịch có giá trị lớn và
thương nghiệp bán buôn, còn bạc thì được sử dụng trong những giao dịch nhỏ và
thương nghiệp bán lẻ.
Do lượng bạc được khai thác và đưa vào lưu thông ngày càng lớn nên giá trị
của nó ngày càng giảm trong khi vàng vẫn giữ được những giá trị khiến tỷ giá giữa
hai đồng tiền này có nhiều thay đổi và điều này đã dẫn đến sự hình thành chế độ
bản vị song song và chế độ bản vị kép trong chế độ song bản vị.

- Chế độ bản vị song song: là chế độ lưu thông tiền tệ trong đó bạc và vàng
cùng lưu thông theo giá trị thực tế của nó trên thị trường, nhà nước không can
thiệp.
Sự tồn tại song song này dẫn đến việc có hai thước đo giá trị và hai hệ thống giá
cả trong lưu thông là hệ thống giá cả theo bạc và hệ thống giá cả theo vàng.
Do giá trị của bạc thấp hơn giá trị của vàng nên đã dẫn đến thực tế là vàng trở
thành thước do của bạc còn bạc trở thành thước đo của các loại hàng hóa khác.
- Chế độ bản vị kép: là chế độ song bản vị nhưng có sự can thiệp của nhà
nước thông qua việc quy định tỷ giá thống nhất giữa tiền vàng và tiền bạc trong
phạm vi cả nước.
Việc quy định tỷ giá pháp định này là nhằm khắc phục tình trạng rối loạn của
giá cả hàng hóa trong lưu thông.
Tuy nhiên việc này không mang lại kết quả như ý muốn bởi bạc ngày càng mất
giá so với vàng dẫn đến việc nhiều người mang bạc đổi lấy vàng để cất trữ còn bạc
thì ngày càng tràn ngập trong lưu thông. Tình trạng này đã trở thành quy luật “tiền
xấu đuổi tiền tốt” và được gọi là quy luật Gresham.
Ví dụ: Hoa kỳ năm 1972 tý giá pháp định giữa vàng và bạc bằng 1/15 sau đó tỷ
giá này đã thay đổi thành 1/17, 1/19, 1/21…
Tuy chế độ song bản vị đã bộc lộ những hạn chế nhất định nhưng nó vẫn tồn tại
khá lâu ở châu Âu và châu Mĩ cho tới cuối thế kỷ 19 mới chấm dứt khi các nước tư
4
bản chuyển sang một chế độ tiền tệ mới phù hợp hơn với thời đại công nghiệp hóa
là chế độ bản vị vàng.
• Chế độ bản vị vàng
Chế độ bản vị vàng là chế độ lưu thông tiền tệ lấy vàng làm bản vị làm thước đo
giá trị và phương tiện lưu thông.
Chế độ bản vị vàng có những đặc điểm sau:
- Nhà nước cho phép công dân tự do đưa vàng đến đúc thành tiền hoặc thành
thoi để cất trữ tại các sở đúc tiền của nhà nước theo những tiêu chuẩn giá cả nhất
định

- Tiền vàng được tự do lưu thông không hạn chế
- Các loại tiền kim loại kém giá và giấy bạc ngân hàng được tự do đổi lấy tiền
vàng theo giá trị danh nghĩa của chúng, từ đó sức mua của tiền giấy sẽ ổn định đây
là điều kiện quan trọng hàng đầu để ổn định và thúc đẩy nền kinh tế phát triển
- Vàng được tự do luân chuyển giữa các quốc gia.
- Hoạt động xuất nhập khẩu có quyền thu chi bằng tiền vàng
- Hoạt động xuất nhập khẩu vàng thoi không bị ngăn cấm giữa các quốc gia.
Chế độ này phát triển dưới hình thức của 3 chế độ khác nhau:
+ Bản vị tiền vàng: Đồng tiền của một nước được bảo đảm bằng một trọng
lượng vàng nhất định theo quy định của pháp luật với những yêu cầu như: Nhà
nước không hạn chế việc đúc tiền vàng, tiền giấy quốc gia được nhà nước xác định
một trọng lượng vàng nhất định và được tự do chuyển đổi ra vàng theo tỉ lệ đó, và
tiền vàng được lưu thông không hạn chế. Chế độ này được áp dụng phổ biến ở các
nước cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỉ XX.
+ Bản vị vàng thỏi: Chế độ này cũng quy định cho đơn vị tiền tệ quốc gia
một trọng lượng vàng cố định. Nhưng vàng được đúc thành thỏi mà không thành
tiền, không lưu thông trong nền kinh tế mà chỉ dự trữ để làm phương tiện thanh
toán quốc tế và chuyển dịch tài sản ra nước ngoài. Tiền giấy quốc gia được đổi ra
vàng theo luật định. Chế độ này từng được áp dụng ở Anh năm 1925, ở Pháp năm
1928
+ Bản vị vàng hối đoái: Đây là chế độ quy định tiền giấy quốc gia không
được trực tiếp chuyển đổi ra vàng. Muốn đổi ra vàng, cần phải thông qua một
ngoại tệ. Ngoại tệ đó phải được tự do chuyển đổi ra vàng như USD, Bảng Anh
Chế độ này từng được áp dụng ở Ấn Độ năm 1898, ở Đức năm 1924, ở Hà Lan
năm1928
Chế độ bản vị vàng là chế độ lưu thông tiền tệ ổn định bởi tiền vàng có giá trị nội
tại giúp cho nền kinh tế tránh được nguy cơ lạm phát. Tuy nhiên lưu thông tiền
5
vàng cũng bộc lộ những hạn chế như: thiếu vàng để đúc tiền, lãng phí của cải xã
hội, nặng… Những hạn chế trên chính là việc dẫn đến thay tiền vàng bằng các loại

tiền dấu hiệu trong lưu thông.
c.Ý nghĩa
Việc ra đời và lưu thông tiền kim loại có ý nghĩa hết sức to lớn đóng vai trò làm
thước đo giá trị và phương tiện lưu thông, trao đổi hàng hóa. Bên cạnh những
những ưu điểm như: chất lượng, trọng lượng có thể xác định chính xác, dễ dàng
hơn, thêm vào đó, nó lại bền hơn, dễ chia nhỏ, giá trị tương đối ít biến đổi Thì
nó cũng bộc lộ những hạn chế rõ rệt như: nặng, dễ rơi mất, khó bảo quản, khó khăn
cho việc vận chuyển,làm hao mòn lượng vàng nhất định của xã hội,… Điều này đã
tạo ra tiền đề cho sự ra đời của tiền dấu hiệu.
2.Chế độ lưu thông tiền dấu hiệu
Chế độ lưu thông tiền dấu hiệu là đặc trưng cơ bản của lưu thông tiền tệ trong
giai đoạn phát triển sau này của CNTB.Tuy nhiên trong thời kì phong kiến tiền
giấy đã xuất hiện sớm ở Trung Quốc (TK XVII)
Trong thời kì phong kiến tiền giấy ra đời từ lý do là nó tạo ra thu nhập do việc
in tiền và phát hành tiền cho các Nhà nước phong kiến, ngoài ra do các chế độ cần
tập trung kim lọai để chế tạo súng, đạn, khí giới…đó cũng là nguyên nhân khiến
tiền giấy ra đời.
Đến giai đoạn phát triển của CNTB, lực lượng sản xuất phát triển nhanh nên
làm nảy sinh sự khan hiếm tiền kim loại, mặt khác về sử dụng tiềng đúc trong lưu
thông cũng có nhiều trở ngại vì nó bị hao mòn, bị biến chất. Và khi hệ thống ngân
hàng phát triển thì càng tạo điều kiện cho sự ra đời của các công cụ lưu thông tín
dụng.
Vậy nguyên nhân ra đời của tiền dấu hiệu là xuất phát từ những đòi hỏi thực tế
về lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ dưới tác động của hệ thống ngân hàng.

1. Khái niệm:
Tiền dấu hiệu là những phương tiện thay thế cho tiền vàng trong lưu thông. Do
tiền dấu hiệu không có giá trị nội tại mà chỉ có giá trị danh nghĩa pháp định nên
khả năng thực hiện các chức năng của chúng cũng có những giới hạn nhất định.
6

2. Phân loại:
Tiền dấu hiệu được sử dụng ở các quốc gia gồm những loại sau:
* Giấy bạc ngân hàng và tiền xu (Tiền dấu hiệu làm bằng chất liệu kim loại)
Là các loại tiền dấu hiệu do ngân hàng trung ương độc quyền phát hành vào
lưu thông với các mệnh giá khác nhau trên cơ sở nhu cầu về tiền tệ của nền kinh tế
quốc dân.
* Ngân phiếu thanh toán
Ngân phiếu thanh toán do ngân hàng trung ương phát hành vào lưu thông
nhằm làm tăng khối lượng các phương tiện trao đổi trong nền kinh tế trong những
thời điểm nhất định. Trong thời gian còn hiệu lực ngân phiếu thanh toán được coi
như giấy bạc ngân hàng theo mệnh giá nhất định
* Séc
Séc là lệnh của chủ tài khoản được lập trên mẫu in sẵn của ngân hàng yêu cầu
ngân hàng trích một số tiền nhất định trên tài khoản tiền gửi của mình để trả cho
người thụ hưởng có tên trên tờ séc hoặc người cầm tờ séc đó.
Séc là một loại chứng từ thanh toán được sử dụng rộng rãi ở các nước trên thế
giới. Căn cứ vào tính chất của séc người ta có nhiều cách phân loại séc khác nhau
nhưng về cơ bản hiện nay căn cứ theo tính chất chuyển nhượng séc được chia
thành hai loại: séc vô danh và séc kí danh (séc đích danh) trong đó séc vô danh
được chuyển nhượng tự do còn séc kí danh được chuyển nhượng thông qua thủ tục
kí hậu chuyển nhượng.
Do đó séc không chỉ là công cụ thanh toán đơn giản mà còn có chức năng là
công cụ lưu thông.
*Tiền điện tử
Hiện nay ở các nước có hệ thống ngân hàng phát triển, bên cạnh những loại tiền
dấu hiệu thông thường người ta còn sử dụng tiền điện tử trong những hoạt động
lưu thông và thanh toán nhất định.
Tiền điện tử là tiền đã được số hóa, tức là tiền ở dạng những bit số. Tiền điện tử
chỉ được sử dụng trong môi trường điện tử phục vụ cho những thanh toán điện tử
thông qua hệ thống thông tin bao gồm hệ thống mạng máy tính, internet và được

lưu trữ trong cơ sở dữ liệu của tổ chức phát hành (bên thứ 3) và được biểu hiện
7
dưới dạng bút tệ trên tài khoản mà khách hàng (người mua) mở tại tổ chức phát
hành.
Cụ thể hơn tiền điện tử là phương tiện của thanh toán điện tử được bảo mật
bằng chữ ký điện tử, và cũng như tiền giấy nó có chức năng là phương tiện trao đổi
và tích lũy giá trị. Nếu như giá trị của tiền giấy được đảm bảo bởi chính phủ phát
hành thì đối với tiền điện tử, giá trị của nó được tổ chức phát hành đảm bảo bằng
việc cam kết sẽ chuyển đổi tiền điện tử sang tiền giấy theo yêu cầu của người sở
hữu.
3. Ý nghĩa:
Lưu thông tiền dấu hiệu có ý nghĩa kinh tế rất lớn.
Thứ nhất, khắc phục được tình trạng thiếu phương tiện lưu thông trong điều
kiện kinh tế thị trường phát triển.
Kinh tế thị trường phát triển, khối lượng hàng hóa và dịch vụ đưa ra lưu thông
tăng lên với tốc độ rất lớn. Sự gia tăng khối lượng giá trị trao đổi, đòi hỏi khối
lượng tiền cũng phải tăng lên tương ứng. Xã hội sẽ thiếu phương tiện lưu thông,
nếu chỉ sử dụng kim loại quý cho mục đích này. Lưu thông dấu hiệu giá trị đã giải
quyết được mâu thuẫn trên.
Thứ hai, lưu thông dấu hiệu giá trị đáp ứng được tính đa dạng về nhu cầu trao
đổi và thanh toán về hàng hóa và dịch vụ trên thị trường.
Mệnh giá của tiền dấu hiệu không đại diện cho giá trị nội tại của nó. Nó lưu
thông theo định luật. Chính vì thế mà trong lưu thông có bao nhiêu loại sản phẩm
hàng hóa, dịch vụ, với mức giá cả tương ứng, thì có thể có bấy nhiêu loại tiền dấu
hiệu, được phát hành, đáp ứng hợp lý nhất nhu cầu trao đổi. Tính đa dạng của tiền
trong lưu thông chỉ có thể có được trong điều kiện lưu thông tiền dấu hiệu
Thứ ba, lưu thông dấu hiệu giá trị tiết kiệm chi phí lưu thông xã hội.
Do lưu thông dấu hiệu giá trị, nên xã hội không phải sử dụng vàng vào nhu
cầu trao đổi hàng hóa. Vì thế đã loại trừ được sự hao mòn vàng không cần thiết.
Mặt khác, dấu hiệu giá trị thường có mệnh giá lớn, do đó số lượng giấy bạc phát

hành vào lưu thông ì vậy cũng góp phần giảm được chi phí lưu thông.
Lưu thông dấu hiệu giá trị cũng có những ý nghĩa kinh tế lớn, mà còn thể hiện
đậm nét tính nhân văn và trình độ công nghệ của quốc gia trên các loại tiền dấu
hiệu hiện lưu hành.
8
Tuy nhiên tiền dấu hiệu còn bộc lộ một số nhược điểm, đó là:
 Một số loại dấu hiệu giá trị dễ bị làm giả
 Giấy bạc ngân hàng thường bị lạm phát.
 Những dấu hiệu giá trị hiện đại phụ thuộc nhiều vào những kỹ
thuật và trình độ dân trí.
Những nhược điểm này các nước đã và đang tìm cách khắc phục. Tuy nhiên,
hiện tại chưa quốc gia nào đạt được kết quả mong muốn.
9

×