Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Chế độ lưu thông tiền tệ và thực trạng ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.06 KB, 13 trang )

Trường đại học kinh tế và quản trị kinh doanh
Khoa Quản trị kinh doanh
Bài tập nhóm:
Chế độ lưu thông tiền tệ và thực trạng
ở Việt Nam
NHÓM 3
Lớp: K5A12
A. Chế độ lưu thông tiền tệ
I. Chế độ lưu thông tiền tệ
1. Khái niệm
Lưu thông tiền tệ là sự vận động của tổng giá trị tiền tệ so với tổng giá
cả hàng hóa trong từng thời kỳ.
Chế độ lưu thông tiền tệ là tổng hợp các quy định mang tính pháp luật
có liên quan đến hình thức tổ chức lưu thông tiền tệ của mỗi nước nhằm đưa
các nhân tố khác nhau của lưu thông tiền tệ đạt đến sự thống nhất.
Sự phát triển của chế độ lưu thông tiền tệ không những tùy thuộc vào sự
phát triển kinh tế của mỗi quốc gia mà còn được quyết định bởi trình độ tổ
chức nhà nước. Tuy nhiên cần lưu ý rằng chế độ lưu thông tiền tệ mà Nhà
nước ban hành không phải là vấn đề đơn thuần về mặt luật pháp hay xuất
phát từ ý thức chủ quan của nhà nước, mà để phát huy tác dụng tích cực của
chế độ tiền tệ trong đời sống kinh tế xã hội vì thế khi xây dựng chế độ tiền tệ
phải bắt nguồn từ sự tồn tại các quan hệ kinh tế.
Các chế độ lưu thông tiền tệ phát triển từ thấp đến cao, cùng với sự phát
triển của nền kinh tế hàng hóa tiền tệ, từ chế độ lưu thông tiền kim loại đến
chế độ lưu thông tiền dấu hiệu.
2. Các chế độ lưu thông tiền tệ
Chế độ lưu thông tiền tệ gồm có:
- Chế độ lưu thông tiền kim loại
- Chế độ lưu thông tiền dấu hiệu
II. Chế độ lưu thông tiền kim loại
1. Khái niệm


Tiền kim loại là tiền tệ dưới dạng các kim loại, thường là các kim loại
quý như vàng,bạc, đồng....
Ưu điểm: chất lượng, trọng lượng có thể xác định chính xác, dễ dàng
hơn, thêm
vào đó, nó lại bền hơn, dễ chia nhỏ, giá trị tương đối ít biến đổi....
Nhược điểm: nặng, dễ rơi mất, khó bảo quản, khó khăn cho việc vận
chuyển,…
Trong thực tiễn lưu thông tiền kim loại, chỉ có vàng trở thành loại tiền
tệ được sử dụng phổ biến và lâu dài nhất. Bạc rồi đồng chỉ được sử dụng
thay thế khi thiếu vàng dùng làm tiền tệ.
2. Phân loại
Chế độ lưu thông tiền kim loại gồm có:
- Chế độ lưu thông tiền kim loại kém giá
- Chế độ lưu thông tiền kim loại đủ giá
a) Chế độ lưu thông tiền kim loại kém giá
Tiền kim loại kém giá là tiền được đúc bằng kim loại có giá trị thấp
như kẽm hoặc đồng. Những đồng tiền này được lưu thông trong một thời
gian khá dài trước khi CNTB hình thành.
b) Chế độ lưu thông tiền kim loại đủ giá
Khi nền kinh tế TBCN được hình thành và phát triển những đồng tiền
kim loại kém giá đã chấm dứt sứ mệnh lịch sử của mình và thay vào đó là
những đồng tiền kim loại đủ giá, kim loại có giá trị cao. Lưu thông tiền
kim loại đủ giá là lưu thông tiền bạc và tiền vàng.
Chế độ lưu thông tiền kim loại đủ giá được phát triển qua các giai
đoạn:
• Chế độ bản vị bạc
Chế độ bản vị bạc là chế độ lưu thông tiền mà theo đó bạc được
sử dụng là phương tiện trao đổi hàng hóa và thanh toán các khoản nợ.
Chế độ bản vị này được sử dụng rất phổ biến ở các nước Nga, Hà
Lan, Ấn Độ, Nhật,… vào nửa cuối thế kỷ XIX. Sau đó do bạc không

còn thích hợp với chức năng làm phương tiện lưu thông nữa vì nhiều
mỏ bạc được phát hiện ở Mê xi cô cùng với phương thức khai thác và
chế biến tiên tiến đã khiến giá trị của bạc giảm xuống.
• Chế độ song bản vị
Song bản vị là chế độ lưu thông tiền tệ chuyển tiếp từ chế độ bản
vị bạc sang chế độ bản vị vàng. Trong chế độ này cả hai loại tiền tệ
được sử dụng và trao đổi thanh toán
Tuy nhiên tiền vàng được sử dụng trong những giao dịch có giá
trị lớn và thương nghiệp bán buôn, còn bạc thì được sử dụng trong
những giao dịch nhỏ và thương nghiệp bán lẻ.
Do lượng bạc được khai thác và đưa vào lưu thông ngày càng lớn
nên giá trị của nó ngày càng giảm trong khi vàng vẫn giữ được những
giá trị khiến tỷ giá giữa hai đồng tiền này có nhiều thay đổi và điều
này đã dẫn đến sự hình thành chế độ bản vị song song và chế độ bản
vị kép trong chế độ song bản vị.
- Chế độ bản vị song song: là chế độ lưu thông tiền tệ trong đó
bạc và vàng cùng lưu thông theo giá trị thực tế của nó trên thị
trường, nhà nước không can thiệp.
Sự tồn tại song song này dẫn đến việc có hai thước đo giá trị
và hai hệ thống giá cả trong lưu thông là hệ thống giá cả theo
bạc và hệ thống giá cả theo vàng.
Do giá trị của bạc thấp hơn giá trị của vàng nên đã dẫn đến
thực tế là vàng trở thành thước do của bạc còn bạc trở thành
thước đo của các loại hàng hóa khác.
- Chế độ bản vị kép: là chế độ song bản vị nhưng có sự can thiệp
của nhà nước thông qua việc quy định tỷ giá thống nhất giữa
tiền vàng và tiền bạc trong phạm vi cả nước.
Việc quy định tỷ giá pháp định này là nhằm khắc phục tình
trạng rối loạn của giá cả hàng hóa trong lưu thông.
Tuy nhiên việc này không mang lại kết quả như ý muốn bởi

bạc ngày càng mất giá so với vàng dẫn đến việc nhiều người
mang bạc đổi lấy vàng để cất trữ còn bạc thì ngày càng tràn
ngập trong lưu thông. Tình trạng này đã trở thành quy luật “tiền
xấu đuổi tiền tốt” và được gọi là quy luật Gresham.
Ví dụ: Hoa kỳ năm 1972 tý giá pháp định giữa vàng và bạc
bằng 1/15 sau đó tỷ giá này đã thay đổi thành 1/17, 1/19,
1/21…
Tuy chế độ song bản vị đã bộc lộ những hạn chế nhất định
nhưng nó vẫn tồn tại khá lâu ở châu Âu và châu Mĩ cho tới cuối
thế kỷ 19 mới chấm dứt khi các nước tư bản chuyển sang một
chế độ tiền tệ mới phù hợp hơn với thời đại công nghiệp hóa là
chế độ bản vị vàng.
• Chế độ bản vị vàng
Chế độ bản vị vàng là chế độ lưu thông tiền tệ lấy vàng làm bản
vị làm thước đo giá trị và phương tiện lưu thông.
Chế độ bản vị vàng có những đặc điểm sau:
- Nhà nước cho phép công dân tự do đưa vàng đến đúc thành
tiền hoặc thành thoi để cất trữ tại các sở đúc tiền của nhà
nước theo những tiêu chuẩn giá cả nhất định
- Tiền vàng được tự do lưu thông không hạn chế
- Các loại tiền kim loại kém giá và giấy bạc ngân hàng được
tự do đổi lấy tiền vàng theo giá trị danh nghĩa của chúng, từ
đó sức mua của tiền giấy sẽ ổn định đây là điều kiện quan
trọng hàng đầu để ổn định và thúc đẩy nền kinh tế phát triển
- Vàng được tự do luân chuyển giữa các quốc gia.
- Hoạt động xuất nhập khẩu có quyền thu chi bằng tiền vàng
- Hoạt động xuất nhập khẩu vàng thoi không bị ngăn cấm giữa
các quốc gia.
Chế độ này phát triển dưới hình thức của 3 chế độ khác nhau:
- Bản vị tiền vàng: Đồng tiền của một nước được bảo đảm

bằng một trọng lượng vàng nhất định theo quy định của pháp
luật với những yêu cầu như: Nhà nước không hạn chế việc
đúc tiền vàng, tiền giấy quốc gia được nhà nước xác định một
trọng lượng vàng nhất định và được tự do chuyển đổi ra vàng
theo tỉ lệ đó, và tiền vàng được lưu thông không hạn chế. Chế
độ này được áp dụng phổ biến ở các nước cuối thế kỷ XIX và
đầu thế kỉ XX.
- Bản vị vàng thỏi: Chế độ này cũng quy định cho đơn vị tiền
tệ quốc gia một trọng lượng vàng cố định. Nhưng vàng được
đúc thành thỏi mà không thành tiền, không lưu thông trong
nền kinh tế mà chỉ dự trữ để làm phương tiện thanh toán quốc
tế và chuyển dịch tài sản ra nước ngoài. Tiền giấy quốc gia
được đổi ra vàng theo luật định. Chế độ này từng được áp
dụng ở Anh năm 1925, ở Pháp năm 1928...
- Bản vị vàng hối đoái: Đây là chế độ quy định tiền giấy quốc
gia không được trực tiếp chuyển đổi ra vàng. Muốn đổi ra
vàng, cần phải thông qua một ngoại tệ. Ngoại tệ đó phải được
tự do chuyển đổi ra vàng như USD, Bảng Anh... Chế độ này
từng được áp dụng ở Ấn Độ năm 1898, ở Đức năm 1924, ở
Hà Lan năm 1928...
Chế độ bản vị vàng là chế độ lưu thông tiền tệ ổn định bởi

×