Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Lễ hội dân gian với phát triển du lịch văn hoá ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.06 KB, 33 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Đất nước Việt Nam có tiềm năng du lịch rất phong phú và đa dạng, có
sức hấp dẫn lớn chẳng những đối với khách du lịch trong nước mà còn với
khách du lịch quốc tế và bà con Việt kiều ở xa Tổ quốc.
Chúng ta có đủ điều kiện để đa dạng hóa các loại hình du lịch từ tham
quan, nghỉ mát điều dưỡng, tắm biển, leo núi, thể thao đến nghiên cứu khoa
học... và có khả năng tiếp nhận một số lượng lớn du khách.
Về mặt tự nhiên, Việt Nam có nhiều cảnh đẹp, cảnh thiên nhiên có
những nét hùng vĩ nên thơ của núi rừng như Sapa mờ ảo trong sương, như Đà
Lạt - thành phố thông reo, hay vịnh Hạ Long – di sản thiên nhiên của thế
giới…
Bên cạnh tiềm năng về mặt tự nhiên, Việt Nam còn có một kho tàng văn
hóa - lịch sử phong phú. Đó là những di tích khảo cổ học minh chứng cho nền
văn hóa Đông Sơn, Hòa Bình... nổi tiếng từ hồi tiền sử, những di tích lịch sử
còn được bảo tồn nguyên hiện trạng hoặc sưu tầm được qua các triều đại lịch
sử nước ta, rất có giá trị về mặt khoa học và giáo dục truyền thống, truyền bá
kiến thức như Đền Hùng, Hoa Lư, chùa Tây Phương, Huế, Thánh Địa Mỹ
Sơn, phố cổ Hội An... Những lễ hội truyền thống như hội Đền Hùng (Vĩnh
Phú), hội Dóng (Hà Nội), hội chùa Dâu ( Bắc Ninh ), hội chùa Keo (Thái
Bình),… những nền văn nghệ dân gian với các nhạc cụ độc đáo (t’rưng,
Krông put...) với các điệu múa đặc sắc của cộng đồng dân tộc Việt Nam...
Ngoài ra, chúng ta cũng có rất nhiều các mặt hàng thủ công mỹ nghệ
truyền thống như mây tre đan, sơn mài, gốm sứ, thêu đan, chạm khắc, các sản
- 1 -
phẩm từ cói v.v... đạt trình độ thẩm mỹ cao, hoàn toàn có thể thỏa mãn nhu
cầu các loại khách du lịch.
Trong vài năm trở lại đây chúng ta thường hay nói tới một loại hình du
lịch mới mà cũ đó là du lịch văn hoá. Trong hệ thống các nguồn tài nguyên
phục vụ cho phát triển du lịch văn hoá có một nguồn tài nguyên hết sức quan
trọng mà dường như từ lâu đã bị mai một, đó chính là các lễ hội dân gian ở
Việt nam.


Với mục tiêu làm rõ vai trò, ý nghĩa của lễ hội dân gian trong việc phát
triển du lịch văn hoá ở Việt nam em đã chọn đề tài nghiên cứu : “Lễ hội dân
gian với phát triển du lịch văn hoá ở Việt nam".
Với đề tài trên, trong bài viết này em xin được trình bày những nội dung sau:
Phần I : Lễ hội dân gian, tính chất và đặc điểm của lễ hội dân gian ở Việt nam.
Phần II : Lễ hội dân gian với phát triển du lịch văn hoá ở Việt nam.
I-Những nét khái quát về du lịch văn hoá.
II- Vai trò của lễ hội dân gian trong việc phát triển du lịch văn hoá.
III-Một số lễ hội tiêu biểu ở miền bắc Việt nam.
1. Lễ hội Đền Hùng.
2. Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn.
3. Lễ hội chùa Hương.
Phần III : Những điều kiện để thu hút khách đến với các lễ hội.

- 2 -
PHẦN I
LỄ HỘI DÂN GIAN, TÍNH CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM
CỦA LỄ HỘI DÂN GIAN Ở VIỆT NAM
I. LỄ HỘI DÂN GIAN.
Trong các dạng tài nguyên nhân văn, lễ hội truyền thống là tài nguyên
có giá trị phục vụ du lịch rất lớn. Lễ hội là một hình thức sinh hoạt tổnh hợp
bao gồm các mặt tinh thần và vật chất, tôn giáo tín ngưỡng và văn hoá nghệ
thuật, linh thiêng và đời thường… là một sinh hoạt có sức hút một số lượng
lớn những hiện tượng của đời sống xã hội. Như vậy lễ hội là mộthình thức
sinh hoạt tập thể của nhân dân sau những ngày lao đọng vất vả, hoặc là một
dịp để mọi người hướng về một sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước, hoặc
liên quan đến những sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân, hoặc chỉ đơn thuần là
những hoạt động có tính chất giải trí. Do đó lễ hội có tính hấp dẫn cao đối với
du khách. Bất cứ lễ hội nào cũng có hai phần chính :
- Phần lễ (hay còn gọi là phần nghi lễ). Tuỳ vào tính chất của lễ hội mà

nội dung của phần lễ sẽ mang ý nghĩa riêng. Có thể phần nghi lễ mở đầu ngày
hội mang tính tưởng niệm lịch sử hướng về một sự kiện lịch sử trọng đại,
tưởng niệm một vị anh hùng dân tộc. Cũng có thể phần lễ là nghi thức thuộc
về tín ngưỡng, tôn giáo bày tỏ lòng tôn kính đối với các bậc thánh hiền và
thần linh, cầu mong được những điều tốt đẹp trong cuộc sống.
Phần nghi lễ có ý nghĩa quan trọng và thiêng liêng, chứa đựng những giá
trị văn hoá truyền thống, giá trị thẩm mỹ và triết học sâu sắc của cộng đồng.
Nó mang trọn ý nghĩa hấp dẫn của cả lễ hội đối với du khách. Phần nghi lễ là
phần hạt nhân của cả lễ hội.
- 3 -
- Phần hội, là phần có tổ chức những trò chơi, thi đấu biểu diễn… Mặc
dù cũng hàm chứa những yếu tố văn hoá truyền thống, nhưng phạm vi nội
dung của nó không khuôn cứng mà hết sức linh hoạt, luôn luôn được bổ sung
bởi những yếu tố văn hoá moéi. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy nơi nào bảo
tồn và phát triển được những nét truyền thống trong phần hội với những trò
chơi mang tính dân gian thì lễ hội nơi đó có giá trị hơn. Thông thường phần
hội gắn với tình yêu, giao duyên nam nữ.
Cũng có những lễ hội mà ở đó hai phần lễ và hội hoà quyện với nhau,
trong đó trọng tâm là phần hội, nhưng bản thân phần hội đã mang trong mình
ý nghĩa tâm linh của phần lễ. Hội trọi trâu đồ sơn là một điển hình.
Như vậy, để tìm hiểu văn hoá Việt nam, văn hoá làng xã cũng như văn
hoá lúa nước, người ta có thể tìm hiểu qua lễ hội, hoặc trực tiếp tham gia vào
lễ hội. Từ đó có thể thấy lễ hội là một dạng tài nguyên du lịch nhân văn rất
quan trọng.
II. TÍNH CHẤT VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA LỄ HỘI DÂN GIAN Ở VIỆT NAM.
1. Tính chất của các lễ hội dân gian ở Việt nam.
Xét về tính chất của các lễ hội dân gian ở Việt nam chúng ta thường thấy
có ba loại lễ hội :
- Các lễ hội mang tính lịch sử như hội Đền Hùng, Hoa lư, Vạn Kiếp…
các lễ hội này thường được tổ chức gắn liền với các sự kiện có ý nghĩa lớn

trong lịch sử hay để tưởng nhớ những người anh hùng, người có công lớn
trong việc đánh đuổi giặc ngoại xâm đem lại cuộc sống thanh bình cho nhân
dân.
- Các lễ hội mang tính giải trí như hội Lim, hội chọi trâu Đồ Sơn…trong
các lễ hội thường có những trò chơi giải trí mà nội dung và hình thức của các
trò chơi này gắn liền với các hoạt động lao động sản xuất của người dân.
- 4 -
- Các lễ hội mang tính tôn giáo như hội chùa Hương, hội chùa Keo, hội
Phủ Giày… mà phổ biến nhất ở Việt nam có lẽ là lễ hội Phật giáo.
Tuy nhiên việc phân loại trên chỉ mang tính tương đối bởi trên thực tế
các tính chất của lễ hội đan xen hoà trộn vào nhau. Mỗi một lễ hội được tổ
chức đều mang những nét của truyền thống lịch sử, tôn giáo và trong các lễ
hội càng không thể thiếu được các trò chơi.
2. Đặc điểm của lễ hội dân gian ở Việt nam.
Lễ hội dân gian ở Việt nam được hình thành từ nền nông nghiệp lúa
nước để phục vụ chính cuộc sống sản xuất, sinh hoạt của những người nông
dân trồng lúa nước. (Rõ ràng là sẽ khó mà có các lễ hội cầu mưa, cầu nắng,
nếu không có việc trồng lúa nước). Do vậy, khi nói đến những lễ hội dân gian
của vùng, thực chất là nói đến các lễ hội nông nghiệp (lễ hội của người nông
dân). Và đã là lễ hội nông nghiệp thì trước hết, chúng phải chịu sự chi phối
mạnh của "nhịp điệu các mùa sản xuất". Lịch sinh hoạt của các lễ hội dân
gian được xác định bởi nông lịch của mỗi tiểu vùng. Các nông lịch lại được
hình thành trên cơ sở những đặc điểm của điều kiện khí hậu địa lý tự nhiên,
nên các lễ hội dân gian dân gian ở Việt nam được diễn ra theo thời tiết.
Thường chúng được mở tập trung vào hai mùa quan trọng nhất của một năm
sản xuất nông nghiệp là đầu mùa sản xuất (gieo, cấy) và cuối mùa sản xuất
(mùa thu hoạch, gặt hái).
Cũng vì thực chất là các lễ hội nông nghiệp mà các lễ hội dân gian ở
Việt nam không tái hiện cuộc sống nào khác sống nông nghiệp của chính họ.
Chúng (các lễ hội dân gian) đã phản ánh những tâm tư, tình cảm và nguyện

vọng của những người nông dân trồng lúa nước Việt nam. Có thể nói, hầu
như mọi mong ước tình cảm được phản ánh ở các lễ hội dân gian đều xoay
quanh hai chủ đề chính là cầu mưa, cầu nắng để cây lúa có đủ điều kiện phát
triển, nảy hạt, đâm bông. Các lễ hội cầu nước thường được tổ chức vào đầu
mùa sản xuất (cũng đồng thời là đầu năm mới); bởi phải có nước thì mới làm
- 5 -
được ruộng nước cày cấy và hạt lúa mới có thể nảy mầm được. Các lễ hội cầu
nắng thường được tổ chức vào giữa và cuối mùa sản xuất: bởi, khi đã đủ
nước, cây lúa cần có nắng, có ánh sáng để phát triển, có sức nóng để làm chín
những hạt lúa vàng. Và khi lúa đã chín, sau khi vui mừng thu hoạch lúa,
người nông dân Việt nam thường tổ chức các lễ hội để gửi gắm vào trong đó
lòng biết ơn, sự vui mừng trước những kết quả đã đạt được. Thực chất của
việc cầu mưa nắng thuận hòa ở mỗi lễ hội dân gian đều xuất phát từ mong
ước đạt được một kết quả sản xuất tốt đẹp (một vụ lúa bội thu). Mỗi lễ hội là
mỗi nguyện vọng, mỗi khắc khoải của người nông dân trồng lúa đối với từng
giai đoạn phát triển của cây lúa. Cho nên mới nói, các lễ hội dân gian ở Việt
nam được hình thành từ nền nông nghiệp lúa nước để phục vụ chính cuộc
sống sản xuất, sinh hoạt của những người nông dân trồng lúa nước.
Cuộc sống nông nghiệp được phản ánh rất đậm nét trong các lễ hội dân
gian ở Việt nam. Tuy nhiên, đây không phải là sự sao chép lại hiện thực, mà
đó là sự phản ánh hiện thực Việt nam qua cách nhìn của những người nông
dân trồng lúa. Nó không phải là tất cả những gì có sẵn trong tự nhiên, trong
nó chứa đựng những suy nghĩ và mong ước ấy lại xuất phát từ hoàn cảnh tự
nhiên, điều kiện địa lý, môi trường, xã hội của họ. Vì cây lúa là đối tượng
chính của sự sản xuất nông nghiệp Việt nam, nên nó (cây lúa) trở thành trung
tâm của sự phản ánh trong các lễ hội dân gian của vùng (cũng như trong mọi
hình thái văn hóa dân gian khác của vùng). Cây lúa được coi là biểu trưng cho
sự no đủ, hạnh phúc, biểu trưng cho tất cả những đức tính tốt đẹp của con
người. Mọi sự vật, hiện tượng đều được nhận thức trên cơ sở của quy luật
phát triển của cây lúa. Trong suy nghĩ của những người dân Việt nam, người

mẹ, người phụ nữ chính là những người đã tạo ra những giống lúa, sáng tạo ra
nghề trồng lúa (vì nghề trồng lúa được ra đời từ hái lượm, mà hái lượm lại là
công việc của người phụ nữ); Cho nên, ở các lễ hội dân gian của vùng, các tín
ngưỡng về cây lúa như là tín ngưỡng bản địa của các dân tộc trên đất nước
- 6 -
Việt nam, và sự phản ánh tín ngưỡng ấy qua biểu tượng người phụ nữ là một
đặc thù của các lễ hội dân gian ở Việt nam.
Các lễ hội dân gian ở Việt nam đều được tạo thành bởi một chuỗi các
cảnh diễn liên tiếp, theo một kịch bản quy định. Những cảnh diễn, cũng như
những quy định của kịch bản, lại xuất phát từ chính cuộc sống sinh hoạt và
lao động của những người nông dân trồng lúa, nên chúng có nhiều điểm
chung. Mỗi cảnh diễn được tạo thành bởi sự tập trung và tập hợp của nhiều
loại hình, loại chủng văn hóa, để diễn tả một hoạt động, một sinh hoạt vật chất
nào đó của người nông dân. Đương nhiên, sự diễn tả ấy là nhằm vào một mục
đích nhất định: nói lên một nguyện vọng, một mong ước của cộng đồng; nên
sự tập hợp lộn xộn, mà chúng có những quy tắc, quy định nhất định (nếu
không, cảnh diễn sẽ không có ý nghĩa, không biểu phát được nguyện vọng mà
những người nông dân muốn gửi gắm). Mặt khác, mỗi cảnh diễn lại nhằm
phục vụ cho việc làm rõ mục đích chung của lễ hội, nên chúng cũng phải tuân
thủ theo những quy tắc và quy định của lễ hội (để đạt được mục đích của lễ
hội). Chính những quy tắc và quy định này đã làm cho các hoạt động lễ hội
được "cấu tạo theo cơ chế mô hình" (nghĩa là chúng bao gồm những yếu tố có
tính chất "bộ xương", còn phần "thịt", tức các chi tiết thì dành cho các cá
nhân, các cộng đồng sáng tạo bồi đắp khi thực hiện hoạt động). Điều đáng
chú ý ở đây là những quy tắc, quy định (tức những yếu tố chung) được phát
sinh từ những người nông dân (bởi trong cộng đồng các dân tộc Việt nam,
người nông dân bao giờ cũng chiếm đa số); do đó, mô hình của các lễ hội dân
gian ở Việt nam thường là giống nhau. Với cơ chế mô hình, lễ hội dân gian
vừa đảm bảo tính thống nhất và truyền thống của cộng đồng, vừa có chỗ để
các cá nhân sáng tạo. Điều này khiến các lễ hội trong vùng không cái nào

giống cái nào nhưng vẫn có nét chung.
Cũng phải nói thêm rằng, chính vì được sản sinh và quy tụ để làm rõ
mục đích chung của lễ hội, mà các loại hình văn hóa tập trung và tập hợp
- 7 -
trong cảnh diễn, cũng như chuỗi cảnh diễn trong lễ hội luôn luôn được đặt vào
một hệ thống, trong đó, các loại hình văn hóa gắn bố hữu cơ với nhau (cũng
như cảnh diễn này gắn bó với cảnh diễn kia) đến mức: nếu tách một loại hình
văn hóa nào đó ra khỏi cảnh diễn, hoặc một cảnh diễn ra khỏi lễ hội thì chúng
không còn ý nghĩa như nó vốn có trong cảnh diễn và trong lễ hội nữa. (Đương
nhiên, mục đích của lễ hội cũng không đạt được một cách trọn vẹn nếu thiếu
đi một hay vài loại hình văn hóa hoặc một vài cảnh diễn). Ở đây, lễ hội đã bộc
lộ rõ nét một đặc điểm đặc thù trong phương thức nhận thức và phản ánh của
văn hóa dân gian, đó là: "phương thức tổng thể nguyên hợp" (tức nhận thức
sự vật với tư cách đó là một tổng thể). Vậy mới nói, lễ hội là một loại hình
văn hóa dân gian tiêu biểu.
Khi nói lễ hội dân gian trong vùng thực chất là các lễ hội nông nghiệp
cũng là muốn nói chúng - các lễ hội dân gian - là sản phẩm văn hóa của
những người nông dân (người nông dân vừa là chủ thể sáng tạo, vừa là người
tiêu dùng). Các hoạt động lễ hội nhằm đáp ứng nhu cầu không phải cho một
cá nhân người nông dân, mà cho cả cộng đồng người nông dân. Nó là sáng
tạo của cả cộng đồng người nông dân. Vì thế mọi tri thức, tư tưởng, tình
cảm... cũng như những hành vi, quy ước, ước lệ... trong lễ hội đều được biểu
tượng hóa bằng những hình ảnh, những dấu hiệu quen thuộc của cộng đồng.
Mọi thành viên trong cộng đồng đều có thể cảm nhận được chúng. (Không chỉ
có thế, chúng còn được mọi người tiếp nhận một cách tự nguyện bởi chúng
mang vác và diễn đạt những mong ước của chính họ). Ở thời kỳ tiền nông
nghiệp, khi cuộc sống còn phụ thuộc nhiều vào môi trường tự nhiên thì các
biểu tượng của các lễ hội trong vùng có nhiều nét giống nhau cả về vật dùng
làm biểu tượng lẫn giá trị mà biểu tượng ấy mang vác, bởi chúng đều được ra
đời trên cơ sở một hay nhiều đặc điểm về những điều kiện tự nhiên độc đáo

của môi trường sinh tồn Việt nam (nóng, ẩm, mưa nhiều, địa hình nhỏ hẹp...);
và được ra đời từ nhu cầu sở thuộc xã hội và tính cố kết cộng đồng.
- 8 -
Cũng vì nhằm đáp ứng nhu cầu cho cả cộng đồng người nông dân mà lễ
hội được lưu truyền chủ yếu qua trí nhớ chứ không phải qua chữ viết (đa số
người nông dân xưa không biết chữ), nên quá trình sản xuất (sáng tạo) ra lễ
hội cũng đồng thời là quá trình nó được phân phối đến từng người và tiếp
nhận (tiêu thụ) nó. Lễ hội được ra đời chính lúc kết thúc các hoạt động lễ hội.
Tóm lại, do được cấu thành bởi sự tham gia của nhiều chủng loại văn
hóa dân gian khác nhau mà lễ hội mang trong nó mọi đặc điểm đặc thù của
văn hóa dân gian. Vì thế, muốn tìm hiểu được văn hóa dân gian Việt nam,
chúng ta không thể không tìm hiểu các lễ hội dân gian của Việt nam, và để
phát triển loại hình du lịch văn hoá ở Việt nam không thể bỏ qua được một
nguồn tài nguyên hết sức quan trọng đó là các lễ hội dân gian.

PHẦN II
LỄ HỘI DÂN GIAN VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH VĂN HOÁ
Ở VIỆT NAM
- 9 -
I. NHỮNG NÉT KHÁI QUÁT VỀ DU LỊCH VĂN HOÁ.
Có thể hiểu du lịch văn hoá là một loại du lịch mà mục đích chính là
nâng cao hiểu biết cho cá nhân đáp ứng sự ham hiểu biết qua các chuyến du
lịch đến những vùng đất mới tìm hiểu và nghiên cứu lịch sử, kiến trúc, kinh
tế, chế độ xã hội, cuộc sống và phong tục tập quán của địa phương đất nước
đến du lịch hoặc là kết hợp những mục đích khác nữa.
Xu thế quốc tế hoá trong sinh hoạt văn hoá giữa cộng đồng và các dân
tộc trên thế giới được mở rộng, dẫn tới việc giao lưu văn hoá, tìm kiếm những
kiến thức về nền văn hoá nhân loại, về những miền đất lạ đã trở thành một
nhu cầu cho nhiều tầng lớp dân cư trong xã hội. Du lịch không còn hoàn toàn
là nghỉ ngơi giải trí đơn thuần (khôi phục và tái sản xuất sức khoẻ khả năng

lao động,...) mà còn là hình thức nghỉ ngơi tích cực có tác dụng bổ sung tri
thức, làm phong phú đời sống tinh thần của con người. Đó chính là nội hàm
của khái niệm du lịch văn hoá.
Du lịch văn hoá vừa là phương tiện, vừa là mục đích của kinh doanh du
lịch. Du lịch văn hoá nhằm chuyển hoá các giá trị văn hoá, các giá trị vật chất
cũng như tinh thần cho hoạt động du lịch. Du lịch văn hoá là phương thức hấp
dẫn vì nó giải quyết những nhu cầu về cảm thụ cảnh quan của quốc gia và du
lịch văn hoá thường để dành cho du khách có trình độ cao trong xã hội.
Du lịch văn hoá được xem là tổng thể của du lịch - xem đó là một hiện
tượng văn hoá những cố gắng thu hút khách ở các điểm du lịch phải mang
tính văn hoá. Những động cơ thu hút đến các điểm du lịch là để nghỉ ngơi và
giải trí.
Tuỳ theo các tiêu thức khác nhau mà người ta có thể phân chia du lịch
văn hoá ra nhiều loại:
+ Du lịch tìm hiểu bản sắc văn hoá: Khách đi tìm hiểu các nền văn hoá là
chủ yếu mục đích chuyến đi mang tính chất khảo cứu, nghiên cứu. Đối tượng
- 10 -
khách chủ yếu là các nhà nghiên cứu, học sinh, sinh viên - đó là các chương
trình du lịch dã ngoại đến các làng dân tộc ít người thuộc các tỉnh Hoà Bình,
Sơn La, Lai Châu,... để khách tìm hiểu phong tục tập quán, lối sống văn hoá
của các dân tộc đó. Khách sẽ đi bộ khi tham quan các bản làng và thường
nghỉ qua đêm tại các bản làng đó.
+ Du lịch tham quan văn hoá: Đây là loại hình du lịch phổ biến nhất - du
khách thường kết hợp giữa tham quan với nghiên cứu tim fhiểu văn hoá trong
một chuyến đi. Đối tượng tham gia vào loại hình du lịch này rất phong phú,
bên cạnh những khách vừa kết hợp đi để tham quan, vừa để nghiên cứu còn
có những khách chỉ để chiêm ngưỡng để biết, để thoả mãn sự tò mò hoặc có
thể theo trào lưu,... Do vậy, trong một chuyến du lịch, du khách thường đi đến
nhiều điểm du lịch, trong đó vừa có những điểm du lịch văn hoá, vừa có
những điểm du lịch núi, du lịch biển, du lịch dã ngoại, săn bắn,... Đối tượng

khách là những người ưa phiêu lưu mạo hiểm, thích tìm cảm giác mới và chủ
yếu là những người trẻ tuổi. Ví dụ như các chương trình leo núi (ở nước ta đã
tổ chức cho khách du lịch leo núi Phanxipăng), các chương trình du lịch dã
ngoại, các chương trình du lịch săn bắn.
+ Du lịch kết hợp giữa tham quan văn hoá với các mục đích khác mục
đích chính của khách là trong chuyến đi nhằm thực hiện công tác hoặc nghề
nghiệp nào đó và có kết hợp với tham quan văn hoá. Đối tượng của loại hình
này là những người đi tham dự hội nghị, hội thảo, kỷ niệm những ngày lễ lớn,
các cuộc triển lãm. Loại khách này đòi hỏi trình độ phục vụ hiện đại, phong
phú, có chất lượng cao, qui trình phục vụ đồng bộ, chính xác, họ có khả năng
thanh toán cao nhưng nói chung thời gian dành cho du lịch của họ rất ít. Thể
loại du lịch cụ thể của loại hình du lịch này là du lịch công cụ.
Tuy nhiên, sự phân loại du lịch văn hoá thành các loại hình trên chỉ là
tương đối. Vì trong một chương trình du lịch thường được kết hợp nhiều hoạt
động khác nhau như: Kết hợp đi du lịch dã ngoại với du lịch theo chuyên đề
- 11 -
văn hoá, hoặc du lịch săn bắn,... trong một chuyến hành trình nhằm tránh gây
cho khách cảm giác nhàm chán.
Du lịch văn hoá là loại hình du lịch tiềm năng vì nó ít chịu sự chi phối
của yếu tố thời vụ du lịch (thời tiết, khí hậu), nhưng nó phụ thuộc vào đặc
điểm nhân khẩu học như: giới tính, độ tuổi, trình độ văn hoá, nghề nghiệp, tôn
giáo,... của du khách.
+ Yếu tố thời vụ du lịch: so với các loại hình du lịch khác, du lịch văn
hoá mang tính đại chúng. Tuy có chịu ảnh hưởng tính thời vụ nhưng không
phụ thuộc hoàn toàn, ít chịu ảnh hưởng của yếu tố thời tiết khí hậu. (Những
đặc điểm này thể hiện rất rõ ở loại hình du lịch lễ hội) đồng thời mức độ
chênh lệch cung cầu của du lịch văn hoá thường không lớn).
+ Yếu tố giới tính: Có tác động đến động cơ đi du lịch và động cơ đi du
lịch văn hoá là một trong những nguyên nhân chủ yếu của nam giới vì đối với
họ ít chịu sự ràng buộc của gia đình, thường có trình độ học vấn cao, có địa vị

xã hội,...
+ Yếu tố độ tuổi: Tham gia vào các chuyến du lịch văn hoá chủ yếu vẫn
là những khách du lịch cao tuổi và thanh niên. Đối với khách cao tuổi họ
thường có nhiều thời gian rỗi,... thường có kinh nghiệm trong việc đi du lịch,
họ thích tìm hiểu về âm nhạc, nghệ thuật quần chúng, các món ăn đậm đà tính
dân tộc,... và họ quan tâm nhiều đến chất lượng phục vụ. Chủ yếu họ mua các
chương trình tham quan du lịch văn hoá. Ngược lại, đối với khách du lịch
thanh niên đây là nhóm có số lượng đông đúc với các đặc trưng của thanh
niên như: ưa khám phá, thích tìm tòi, muốn thử sức mình, thích đi xa, thích sự
tự do, thích thay đổi điểm du lịch và thường đi thành nhóm lẻ,... do đó họ có
xu hướng đòi hỏi tính mới mẻ, đa dạng trong dịch vụ du lịch, họ có khả năng
thanh toán thấp, ít có kinh nghiệm trong đi du lịch, họ thường quan tâm đến
giá cả nhưng ít quan tâm đến yêu cầu về chất lượng dịch vụ. Khách du lịch
thanh nhiên thường tham gia vào các chuyến du lịch dã ngoại, săn bắn mạo
- 12 -
hiểm, tham quan văn hoá,... Đối với những khách trung niên thường là những
người có địa vị xã hội có khả năng thanh toán cao, có sự tự chủ lớn trong khi
đi du lịch. Họ quan tâm nhiều đến chất lượng phục vụ,... họ thường kết hợp
giữa đi công tác với đi du lịch.
+ Yếu tố trình độ học vấn: Những người có trình độ học vấn cao là loại
khách được các nhà kinh doanh du lịch quan tâm nhiều vì những nhà học vấn
cao thường thường là những người có địa vị xã hội cao, thu nhập cao, trình độ
văn hoá cao nên có nhu cầu mở rộng sự hiểu biết tìm hiểu thế giới xung
quanh cao hay có thể nói họ có động cơ văn hoá cao trong nhu cầu đi du lịch.
Khách du lịch văn hoá có thể được coi là khách du lịch thuần tuý vì
khách có thể chỉ đi vì động cơ văn hoá. Tuy nhiên số lượng khách du lịch văn
hoá thuần tuý trong thực tế thường rất ít mà khách du lịch thường kết hợp
giữa loại hình du lịch văn hoá với loại hình du lịch khác trong một chuyến
hành trình.
II. VAI TRÒ CỦA CÁC LỄ HỘI DÂN GIAN TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN

DU LỊCH VĂN HOÁ Ở VIỆT NAM.
Để phát triển du lịch không một quốc gia nào trên tế giới lại không coi
trọng sự phát triển của du lịch văn hoá, bởi du lịch văn hoá là một loại hình du
lịch có nhiều ưu điểm : ít có tính mùa vụ, có thể phát triển quanh năm, tạo
nguồn thu ổn định, với mức tăng trưởng ngày càng lớn, nó giúp cho con
người hiểu biết sâu sắc về thế giới xung quanh…
Việt Nam là một đất nước có tiềm năng phát triển du lịch văn hoá rất
lớn. Với hơn bốn ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của cha ông đã để
lại cho chúng ta hàng ngàn các di sản văn hoá và di tích lịch sử văn hoá.
Trong số đó các lễ hội dân gian là một nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng
cho phát triển du lịch văn hoá ở Việt Nam.
- 13 -

×