Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

Nghiên cứu xây dựng hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững về sinh thái và tài nguyên sinh vật ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.22 MB, 120 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân, nội dung nghiên
cứu xuất phát từ yêu cầu thực tế trong công tác quản lý nhà nước về tài nguyên và
môi trường.
Kết quả trình bày trong luận án là trung thực, chưa từng được công bố trước
đây./.
Hà Nội, ngày 18 tháng 6 năm 2013
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Lê Văn Hữu
1
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận án tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của cơ quan,
thầy cô giáo, gia đình, đồng nghiệp và bạn bè.
Tôi xin trân trọng cảm ơn PGS.TS. Lê Xuân Cảnh, Viện trưởng Viện Sinh
thái và Tài nguyên sinh vật, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam và
TS. Nguyễn Danh Sơn, nguyên Viện trưởng Viện Phát triển bền vững vùng Bắc Bộ,
Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, các thầy giáo đã trực tiếp hướng dẫn tôi
trong thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận án tiến sỹ.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật thuộc Viện
Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Tổng Cục thống kê và Văn phòng Phát
triển bền vững thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Sở Tài nguyên và Môi trường Bình
Thuận đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu, thực hiện luận án tiến sỹ.
Tôi xin trân trọng cám ơn Quỹ Hỗ trợ Sáng tạo Kỹ thuật Việt Nam
(VIFOTEC), Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam và Vụ Kế hoạch, Bộ
Tài nguyên và Môi trường, nơi tôi đã và đang công tác tạo mọi điều kiện thuận lợi,
giúp đỡ tôi hoàn thành khóa đào tạo tiến sỹ.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn của mình tới cơ quan, thầy cô giáo, gia đình,
đồng nghiệp và bạn bè những người luôn bên cạnh động viên, khích lệ, giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời cảm ơn trân trọng tới sự giúp đỡ quý báu đó./.
Hà Nội, ngày 18 tháng 6 năm 2013


NGHIÊN CỨU SINH
Lê Văn Hữu
2
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN 1
LỜI CẢM ƠN 2
CÁC TỪ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU SỬ DỤNG TRONG
LUẬN ÁN
7
MỞ ĐẦU 9
Chương I
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Một số khái niệm, quan điểm liên quan đến phát triển bền
vững và hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững
11
1.1. Khái niệm phát triển bền vững 11
1.2. Quan điểm về con đường phát triển bền vững hiện thực 11
1.3. Bối cảnh thực tiễn phát triển bền vững trên thế giới 12
1.4. Một số nguyên tắc phát triển bền vững cơ bản 21
1.5. Khái niệm về ngưỡng phát triển trên con đường tiến tới phát
triển bền vững
22
1.6. Khái niệm về các thông số, chỉ tiêu/chỉ thị và chỉ số phát triển
bền vững
22
2. Kết quả nghiên cứu về phân loại các chỉ tiêu phát triển
bền vững
24
3. Tổng quan về hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững trong
đó có lĩnh vực về sinh thái và tài nguyên sinh vật

24
3.1. Thế giới 24
3.2. Các nước trong khu vực 26
4. Tổng quan về phương pháp tổng hợp, phân tích và kinh
nghiệm xây dựng các chỉ tiêu, chi số phát triển bền vững,
trong đó có liên quan đến lĩnh vực sinh thái và tài nguyên
sinh vật
30
4.1. Thế giới 30
4.2. Nhóm các nước phát triển 32
4.3. Nhóm các nước đang phát triển lân cận 34
5. Tổng quan nghiên cứu về phát triển bền vững về sinh thái
và tài nguyên sinh vật ở Việt Nam
34
Chương II
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng nghiên cứu 36
2. Nội dung nghiên cứu 36
3. Phương pháp nghiên cứu 36
3
3.1. Phương pháp thu thập, phân tích các tài liệu và số liệu đã có
liên quan đến PTBV ở Việt Nam
36
3.2. Phương pháp thu thập, phân tích các tài liệu và số liệu thực
địa tại tỉnh Bình Thuận
38
3.3. Phương pháp lựa chọn các chỉ tiêu PTBV về sinh thái và tài
nguyên sinh vật
38

3.4. Phương pháp tính toán các chỉ tiêu PTBV về sinh thái và tài
nguyên sinh vật
38
3.5. Phương pháp chuyên gia 38
Chương III
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội của Việt Nam và tỉnh
Bình Thuận
40
1.1. Đặc điểm tự nhiên và kinh tế xã hội của Việt Nam 40
1.1.1. Đặc điểm kiện tự nhiên 40
1.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội của Việt Nam 43
1.2. Đặc điểm tự nhiên và kinh tế xã hội tỉnh Bình Thuận 46
1.2.1. Đặc điểm tự nhiên 46
1.2.2. Đặc điểm kinh tế 50
1.2.3. Đặc điểm văn hóa - xã hội 55
2. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững về sinh
thái và tài nguyên sinh vật ở Việt Nam
57
2.1. Xây dựng các nguyên tắc đánh giá về phát triển bền vững sinh
thái và tài nguyên sinh vật
58
2.2. Đề xuất hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững về sinh thái và
tài nguyên sinh vật ở Việt Nam
64
2.3. Phương pháp tính toán các chỉ tiêu, chỉ số phát triển bền vững
về sinh thái và tài nguyên sinh vật ở Việt Nam
66
2.3.1. Phương pháp tính toán hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững
về sinh thái và tài nguyên sinh vật ở Việt Nam

66
2.3.2. Xây dựng phương pháp tính toán các chỉ số đánh giá tính bền
vững về sinh thái và tài nguyên sinh vật (ISDEBR)
68
2.4. Ứng dụng phương pháp xử lý thống kê hiện đại để tính toán
chỉ tiêu và chỉ số phát triển bền vững
76
2.5. So sánh các ưu và nhược điểm giữa phương pháp xử lý thống
kê cổ điển và phương pháp xử lý thống kê hiện đại trong việc
78
4
tính toán chỉ tiêu, chỉ số đánh giá tính bền vững về sinh thái và
tài nguyên sinh vật
3. Kết quả thử nghiệm hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững
về sinh thái và tài nguyên sinh vật tại tỉnh Bình Thuận
80
4. Kết quả nghiên cứu và đề xuất giải pháp thực hiện phát
triển bền vững về sinh thái và tài nguyên sinh vật ở Việt
Nam
91
4.1. Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về tài nguyên và
môi trường
91
4.2. Tăng cường đầu tư nguồn lực 91
4.3. Hợp tác quốc tế 92
4.4. Tăng cường sự tham gia của cộng đồng vào việc đưa ra quyết
định, quản lý và cung cấp tài chính
93
4.5. Giải pháp thực hiện có hiệu quả phát triển bền vững về sinh
thái và tài nguyên sinh vật

93
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững về sinh
thái và tài nguyên sinh vật ở Việt Nam
99
2. Nghiên cứu, xây dựng phương pháp tính toán các chỉ tiêu,
chỉ số phát triển bền vững về sinh thái và tài nguyên sinh
vật ở Việt Nam
99
3. Nghiên cứu và thử nghiệm hệ thống chỉ tiêu phát triển bền
vững về sinh thái và tài nguyên sinh vật ở tỉnh Bình Thuận
99
4. Đề xuất giải pháp thực hiện phát triển bền vững về sinh
thái và tài nguyên sinh vật ở Việt Nam
99
TÀI LIỆU THAM KHẢO 101
PHỤ LỤC 106
5
CÁC TỪ VIẾT TẮT VÀ KÝ HIỆU SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN
Tiếng Anh:
CSD Hội đồng phát triển bền vững thế giới (thuộc Liên Hợp Quốc)
ESI Chỉ số phát triển bền vững về môi trường
ESIVN Chỉ số phát triển bền vững về môi trường của Việt Nam
ISDEBR Chỉ số phát bền vững về sinh thái và tài nguyên sinh vật -
Indicator of Sustainable development in Ecology and
Biological Resources
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
GNP Tổng sản phẩm quốc gia
HDI-UNDP Chỉ số phát triển nguồn nhân lực của UNDP
NCSD Hội đồng phát triển bền vững quốc gia (thuộc các nước)

OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
PPP Sức mua tương đương (về tiền tệ)
RESI Chỉ số phát triển bền vững về tài nguyên
RESIVN Chỉ số phát triển bền vững về tài nguyên của Việt Nam
REESI Chỉ số phát triển bền vững về tài nguyên và môi trường
REESIVN Chỉ số phát triển bền vững về tài nguyên và môi trường của
Việt Nam
ISDEBRVN Chỉ số phát triển bền vững về sinh thái và tài nguyên sinh vật
ở Việt Nam
SS Chất rắn lơ lửng
UN Liên Hợp Quốc (LHQ)
UNDP Uỷ ban phát triển Liên Hợp Quốc
6
UNEP Uỷ ban môi trường Liên Hợp Quốc
UNESCO Tổ chức giáo dục, khoa học và văn hoá của thuộc Liên Hợp
Quốc
VOC Chất hữu cơ bay hơi
Tiếng Việt:
ANQP An ninh quốc phòng
BOD
5
Nhu cầu oxy sinh hoá đo ở 20
0
C, trong 5 ngày
BVMT Bảo vệ môi trường
CNH Công nghiệp hóa
COD Nhu cầu oxy hóa học
ĐTH Đô thị hóa
GTVT Giao thông vận tải
HĐH Hiện đại hóa

KH&ĐT Kế hoạch và đầu tư
KT-XH Kinh tế - xã hội
LHQ Liên Hợp Quốc
NPT Nước phát triển
NĐPT Nước đang phát triển
PTBV Phát triển bền vững
TN&MT Tài nguyên và môi trường
7
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã thấy, mỗi một đất nước, quốc gia trên thế giới đều đặt mục
tiêu tăng trưởng kinh tế lên hàng đầu. Do đó, việc khai thác tài nguyên thiên nhiên
quá mức và phát triển các ngành công nghiệp nặng là điều tất yếu [26].Vì vậy, hiện
nay hầu hết tất cả các nước phát triển và đang phát triển đều đang đứng trước một
thực trạng chung là khan hiếm tài nguyên thiên nhiên, suy giảm đa dạng sinh học,
môi trường sinh thái bị suy thoái nghiêm trọng. Hậu quả là thiên tai như động đất,
sóng thần, bão, lụt, hạn hán diễn ra ngày càng phức tạp và dữ dội.
Đứng trước thực trạng đó, các nhà khoa học trên thế giới và các tổ chức môi
trường thế giới như UNCEP, IUCN, WWF,UNEP… đã vào cuộc để nghiên cứu làm
giảm thiểu sự suy thoái môi trường, phục hồi các hệ sinh thái bị suy thoái. Đồng
thời tổ chức các cuộc hội nghị lớn trên thế giới về vấn đề môi trường toàn cầu và
phát triển bền vững nhằm kêu gọi các nước cùng cam kết thực hiện quy ước chung
về sự phát triển bền vững [14].
Để đánh giá sự phát triển bền vững của một vùng hay một quốc gia, các nhà
khoa học trên thế giới đã đi sâu nghiên cứu và xây dựng các hệ thống chỉ tiêu bao
gồm cả về lĩnh vực môi trường, kinh tế - xã hội, tài nguyên sinh vật. Tuy nhiên, ở
mỗi vùng khác nhau thì hệ thống chỉ tiêu này cũng khác nhau và mức độ quan trọng
cũng khác nhau [20].
Việt Nam là một nước nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng
ẩm, với sự thay đổi từ điều kiện khí hậu nhiệt đới điển hình ở những vùng đất thấp

phía Nam đến các đặc điểm mang tính chất cận nhiệt đới ở các vùng núi cao phía
Bắc. Thêm vào đó, Việt Nam có nhiều dạng địa hình khác nhau tạo điều kiện cho sự
đa dạng sinh vật và phong phú tài nguyên [45]. Vì vậy, để đánh giá một vùng, một
khu vực hay toàn bộ lãnh thổ Việt Nam có phát triển bền vững hay không là rất khó
khăn và phức tạp.
Mặt khác, việc đánh giá sự phát triển bền vững về lĩnh vực sinh thái và tài
nguyên sinh vật ở Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung đang là vấn đề rất mới.
Có thể khẳng định rằng, hiện nay ở Việt Nam, trong khu vực và thế giới chưa có
8
công trình nào đi sâu nghiên cứu, xây dựng hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững về
lĩnh vực sinh thái và tài nguyên sinh vật [9,10,12,13,23,24,30,32,33,34,42,45,
46,50]. Xuất phát từ yêu cầu thực tế hiện nay trong công tác quản lý nhà nước về tài
nguyên và môi trường hiện nay, tôi tiến hành thực hiện đề tài: “Xây dựng hệ thống
chỉ tiêu phát triển bền vững về sinh thái và tài nguyên sinh vật ở Việt Nam”.
2. Mục tiêu của đề tài
- Xây dựng mới hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững về sinh thái và tài
nguyên sinh vật ở Việt Nam.
- Đề xuất giải pháp tổ chức thực hiện phát triển bền vững về sinh thái và tài
nguyên sinh vật ở Việt Nam.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Đây là công trình khoa học đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu xây dựng hệ
thống chỉ tiêu phát triển bền vững về lĩnh vực sinh thái và tài nguyên sinh vật. Kết
quả của công trình là cơ sở khoa học, có tính thực tiễn cho việc đánh giá mức độ
phát triển bền vững của các vùng, các tỉnh và toàn lãnh thổ Việt Nam phục vụ công
tác quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường.
9
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1. Một số khái niệm, quan điểm liên quan đến phát triển bền vững và hệ thống
chỉ tiêu phát triển bền vững

1.1. Khái niệm phát triển bền vững
Tổ chức Liên Hợp Quốc (LHQ) đã đưa ra một định nghĩa chính thức về khái
niệm phát triển bền vững nhân loại trong Thiên niên kỷ thứ ba như sau: “Phát triển
bền vững là sự phát triển đáp ứng được các nhu cầu hiện tại, mà không làm thương
tổn đến khả năng đáp ứng các nhu cầu của các thế hệ tương lai” [20].
Xét theo phạm trù triết học, thì khái niệm phát triển bền vững là tư tưởng
nhận thức con người tự sinh (the human freely autogenous ideas), có nội dung tư
tưởng và triển khai thực hiện thực tiễn có thể biến đổi rất sâu sắc theo các quy mô
phạm trù, phạm vi tác động trực tiếp, gián tiếp và liên đới, phụ thuộc vào các điều
kiện phát triển thực tiễn cụ thể hoá xem xét, đồng thời; có các tiêu chí định tính và
định hượng hoá một cách rất cụ thể cho sự thành đạt các mục tiêu phát triển bền
vững tự định đã đặt ra. Tuy nhiên, trên thực tế đây là loại tư tưởng khó hấp thụ và
khó triển khai thực tiễn một cách hiệu quả do nó tự nhiên có những cản trở nội tại
và khách quan, cũng như do các mẫu thuẫn cơ bản phát sinh tất yếu trong lịch sử
phát triển nhân loại, mà trước hết là mâu thuẫn cơ bản phát sinh giữa nhu cầu phát
triển xã hội và khả năng đáp ứng, rồi đến các mâu thuẫn cơ bản giữa các lợi ích về
thể chế - kinh tế - xã hội và môi trường theo cơ chế thị trường.
Một số nội dung phân tích cụ thể về vấn đề lý luận PTBV như được trình bày
sau đây.
1.2. Quan điểm về con đường phát triển bền vững hiện thực
Tinh thần cốt lõi của Bản Tuyên ngôn Rio De Janeiro năm 1992 và Chương
trình Nghị sự 21 là sự chung sức và đồng lòng ở quy mô toàn cầu để thực hiện một
sự phát triển lâu bền, khi nhân loại phải đương đầu với tình trạng ngày càng xấu đi
của sự nghèo khó, đói kém, bệnh tật, thất học và sự suy thoái của các hệ sinh thái,
vốn là cái nôi sản sinh và nuôi dưỡng của sự sống trên hành tinh chúng ta [19].
Trong đó, một thách thức to lớn cho tất cả các quốc gia là làm sao giải quyết một
10
cách cân đối hài hoà giữa phát triển và môi trường, tức là vừa phải khai thác tài
nguyên, thải ra chất thải, vừa phải bảo vệ và quản lý tốt các hệ sinh thái, cải thiện
chất lượng môi trường.

Trong khi đã nhận được sự đồng thuận và nhất trí cao tại Hội nghị LHQ Rio
De Janeiro năm 1992 về Môi trường và Phát triển, thì triết lý tư tưởng “Phát triển
bền vững” vẫn còn đang gây tranh cãi, vì còn có những nhận định cho rằng tư tưởng
ấy rất hay nhưng trong thực tế khó thực hiện, thậm chí chỉ là một ảo tưởng. Cách
nhìn bi quan về ngưỡng phát triển và PTBV này phần nào được củng cố thêm, bởi
những kết quả không mấy khả quan trong việc thực hiện Chương trình Nghị sự 21
tính cho đến thời điểm hiện nay [46]. Trong thực tế của nhiều quốc gia cái vòng
luẩn quẩn “nghèo khó - suy thoái môi trường” vẫn còn là một hạn chế rất lớn trên
con đường phát triển.
Năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh Trái đất, gọi tắt là Rio - 92 tại Rio de
Janeiro đã thông qua Tuyên bố Rio de Janeiro về môi trường và phát triển và
Chương trình nghị sự 21, đây là một kế hoạch chi tiết về tăng trưởng kinh tế, thúc
đẩy công bằng xã hội và bảo vệ môi trường [45].
Năm 2012, Hội nghị thượng đỉnh Trái đất, gọi tắt là Rio + 20 cũng tổ chức
tại Rio de Janeiro, Tổng thư lý LHQ Ban ki - moon đã tuyên bố “đặt thế giới vào
con đường phát triển bền vững và phổ quát, trong đó các yếu tố kinh tế, xã hội, môi
trường và phúc lợi được cân bằng” [46].
Nhìn chung, quan điểm chủ đạo của các quốc gia thành viên LHQ là bất chấp
những hạn chế, cản trở và trở ngại còn tồn tại hoặc mức độ thành công còn khá
khiêm tốn trong việc triển khai thực hiện Chương trình Nghị sự 21, thì các quốc gia
vẫn lựa chọn con đường phát triển bền vững, bởi đó là con đường có tính nguyên
tắc duy nhất nếu các quốc gia thực sự muốn phát triển lâu bền để đạt tới các ngưỡng
phát triển tiến bộ và văn minh nhân loại mới. Vấn đề còn lại là tìm kiếm được các
phương tiện và công cụ thật hiệu quả cho việc tổ chức thực hiện nó.
1.3. Bối cảnh thực tiễn phát triển bền vững trên thế giới
Bối cảnh PTBV đặc thù trên thế giới là sự phát triển không đồng đều giữa
các nước, khu vực và đó là một nguyên nhân chính đang cản trở việc thực hiện
11
thành công các mục tiêu PTBV và Chương trình Nghị sự 21 của Thế giới một cách
hiệu quả cao, cho nên vấn đề PTBV cần được xem xét trên góc độ các nước phát

triển và các nước đang phát triển như dưới đây [45,46].
1.3.1. Sự phát triển không đồng đều trên thế giới
Từ nhiều thế kỷ trước đây, nhất là trong các thế kỷ CNH ở thời kỳ Cách
mạng kỹ thuật lần thứ nhất, trước hết là tại Châu Âu, các nước công nghiệp đã có
những bước phát triển mạnh mẽ, rồi dùng vũ lực xâm chiếm và vơ vét tài nguyên
thiên nhiên của các nước khác để làm giàu cho mình. Rốt cục, sau hơn 300 năm
phát triển bành trướng tự phát và cục bộ, trên thế giới đã hình thành một cục diện
phát triển rất không đồng đều, bao gồm chủ yếu hai nhóm nước là: những nước
công nghiệp phát triển (hay nước giàu) và những nước đang phát triển (hay nước
nghèo).
Những NPT có tiềm lực mạnh về kinh tế, khoa học và công nghệ, cho nên
khai thác được nhiều tài nguyên, sản xuất ra nhiều hàng hoá chiếm lĩnh thị trường
thế giới, tiêu thụ nhiều năng lượng, nguyên vật liệu và lương thực - thực phẩm,
đồng thời trong quá trình sản xuất và tiêu dùng chính họ cũng làm phát sinh ra một
khối lượng khổng lồ các loại chất thải. Ngược lại, các NĐPT mà đa số trong vài
thập kỷ cuối của Thế kỷ 20 mới vừa thoát khỏi ách nô lệ - thống trị thực dân, nói
chung còn nghèo và rất nghèo, mặc dù đã có những mức tăng trưởng nhất định về
kinh tế - xã hội trong thời gian qua. Những nước này tuy chiếm đa số trong nhân
khẩu thế giới, nhưng về các mặt sản xuất, tiêu thụ và sản sinh các loại chất thải đều
nằm ở mức thấp hơn gấp nhiều lần so với các NPT trên thế giới.
Trong khoảng thập kỷ 80, người ta đã tiến hành nghiên cứu, đúc kết và đưa
ra một số tổng kết tổng hợp về thực tiễn phát triển thế giới chính như sau [45]:
(a). Các NPT tuy chỉ chiếm 25% dân số thế giới, nhưng tiêu thụ:
- 75% tổng năng lượng tiêu thụ trên thế giới.
- 79% chất đốt thương mại.
- 85% sản phẩm gỗ.
- 75% sản phẩm kim loại.
- 6% lương thực, thực phẩm.
12
Và họ thải ra:

- 75% tổng lượng CO
2
.
- 75% tổng lượng chất thải rắn.
(b). Tính theo đầu người, một người dân của các NPT so với một người dân
của các NĐPT, thì tính theo hàng năm có số liệu so sánh ở mức trung bình như sau:
- Tiêu thụ giấy gấp 14 - 16 lần.
- Tiêu thụ thịt gấp 6 - 52 lần.
- Tiêu thụ năng lượng gấp 10 - 35 lần.
- Tạo ra chất thải gấp 10 lần.
(c). Trong khi các NĐPT với trên 4 tỷ dân, chiếm 75% dân số thế giới, vẫn
nằm ở tình trạng đói nghèo và lạc hậu, với các con số thống kê như sau:
- Hơn 1 tỷ người sống dưới mức nghèo khổ.
- 1,75 tỷ người lớn mù chữ.
- Hơn 150 triệu trẻ em thiếu dinh dưỡng.
- Khoảng 1,5 tỷ người không được chăm sóc sức khoẻ.
- 2,8 tỷ người không có điều kiện vệ sinh.
Ngay như đến cuối thập kỷ 90, tức là đã trong những năm cuối cùng của Thế
kỷ 20, thì tình hình này cũng chưa có biến chuyển gì tốt hơn và chưa có sự thay đổi
đáng kể, bởi vì các mức chênh lệch nêu trên vẫn còn rất lớn. Thí dụ:
- Về tiêu thụ năng lượng tính theo theo đầu người, thì mức tiêu thụ thấp nhất
(năm 1997) của Ê-tiôpia là 0,294 TOE (tấn dầu quy đổi) và nếu so với mức trung
bình của thế giới thì chưa bằng 1/5. Còn nếu lấy mức cao nhất của Hoa Kỳ (Châu
Mỹ) là 7,96 TOE, thì mức này gấp 27 lần so với Ê-tiôpia (Châu Phi).
- Về tiêu thụ thịt tính theo đầu người (năm 1998), thì mức trung bình thế giới
là 37 kg cũng gấp mức thấp nhất của Băng-ladet (3 kg) là 12 lần; còn mức cao nhất
của Niu - Dilân (137 kg) cũng cao gấp hơn 45 lần so với con số của Băng-ladet.
- Tuy nhiên, do những nguyên nhân trong lịch sử phát triển và nhất là do tình
trạng phát triển không đồng đều, sự bất bình đẳng và bất công xã hội trong trật tự
kinh tế thế giới cũ và mới, các quốc gia nhìn chung có thái độ và trách nhiệm khác

nhau đối với sự PTBV của toàn cầu.
13
1.3.2. Thái độ và hành động của các nước đối với phát triển bền vững
Theo tinh thần của Bản Tuyên ngôn Rio De Janeiro năm 1992 và Chương
trình Nghị sự 21, có thể nói ngắn gọn là: “Tất cả các nước đều có trách nhiệm làm
sao cho sự phát triển của mình là lâu bền, không gây tổn hại cho nước khác; các
nước đều có trách nhiệm làm cho sự phát triển chung là lâu bền, trong đó các NPT
phải có trách nhiệm nhiều hơn, đi đầu và phải giúp đỡ các NĐPT về mặt con người,
tri thức kỹ thuật, thị trường, công nghệ và tài chính”. Người ta cũng đã kêu gọi và
tuyên truyền tất cả các nước phải thay đổi lối sản xuất và tiêu dùng hiện nay (hoặc
còn gọi là phương thức), tránh tiêu xài và phát thải quá đáng, quá mức [26].
Thừa nhận rằng, trong hơn thập kỷ qua nhất là sau Hội nghị LHQ Rio De
Janeiro năm 1992, sự quan tâm tới môi trường được thể hiện rõ trên toàn thế giới và
trong mọi quốc gia, trước hết do lợi ích của chính mình và do đòi hỏi của dân
chúng, vì mọi người đều ngày càng nhận thức rõ hơn về hậu quả của các hoạt động
của con người đối với môi trường [46].
Ví dụ: đã có rất nhiều nỗ lực ở các NPT nhằm giảm mức độ ô nhiễm không
khí như: các quốc gia ở Bắc Âu, Tây Âu, Ấn Độ đang tăng nhanh tỷ trọng các
nguồn năng lượng tái tạo, nhất là năng lượng gió trong tổng sản lượng sản xuất về
năng lượng. Các công nghệ sạch, công nghệ thân thiện môi trường được sử dụng
ngày càng nhiều hơn. Các biện pháp tiết kiệm năng lượng cũng được áp dụng trong
nhiều lĩnh vực sản xuất và tiêu dùng. Tỷ lệ các chất thải được sử dụng, tái chế cũng
tăng lên đáng kể, v.v Sinh thái công nghiệp được áp dụng ngày càng phổ biến.
Một vấn đề chung được đặt ra cho tất cả các nước là: làm thế nào để có và
thiết lập được mối quan hệ hài hoà giữa các nhu cầu tăng trưởng KT-XH và bảo
đảm ANQP với khả năng BVMT và PTBV. Như chúng ta đã thấy, muốn tăng
trưởng KT-XH và bảo đảm ANQP tất nhiên sẽ phải khai thác, sử dụng nhiều tài
nguyên hơn và cũng sẽ phát thải nhiều hơn, mà đương nhiên chu trình phát triển đó
sẽ gây nên các tác động tiêu cực tới môi trường và làm suy giảm năng lực PTBV.
Tại các NĐPT, mối quan hệ giữa nghèo khổ và suy thoái môi trường đã tạo

nên vòng luẩn quẩn cho sự phát triển với rất ít tiến bộ và văn minh xã hội, tuy có
thể đạt được một mức độ bền vững động (nguyên thuỷ hoặc biến đổi tự nhiên) nào
14
đó. Bởi vì, trong điều kiện đó các nước sẽ phải sống dựa nhiều vào vốn thiên nhiên
và bị hạn chế bởi thiếu tri thức kỹ thuật, thiếu vốn, thiếu công nghệ, cho nên năng
suất và hiệu quả lao động thấp, dẫn đến tình trạng sử dụng năng lượng và nguyên
liệu với hiệu quả rất thấp, nên sẽ càng tốn nhiều tài nguyên cho sinh nhai và phát
triển, trong khi đó nếu phát sinh các vấn đề môi trường cấp bách sẽ có nhiều vấn đề
không tự xử lý được và phần lớn đều là sự phó thác vô trách nhiệm cho “khả năng
tự làm sạch” của môi trường tự nhiên, mà điều đó có thể gây ra các mức quá tải
khác nhau cho hệ thống TN&MT, .v.v Thậm chí, tại nhiều nơi người dân sẽ phải
tìm mọi cách để sinh nhai và sinh sống được, nhất là tìm đến phương thức đơn
thuần là khai thác tài nguyên và môi trường một cách sơ khai và rất kém hiệu quả,
dẫn đến khả năng tàn phá tài nguyên và môi trường như một kết cục có tính tất yếu.
Vì vậy, con đường phát triển thoát nghèo duy nhất là phải tăng trưởng kinh
tế gắn liền với thực hiện quá trình CNH, HĐH và ĐTH, gây ra các vấn nạn ô nhiễm
môi trường cấp bách, cho nên xét cho cùng vấn đề ở đây là cần phải tăng trưởng
KT-XH và bảo đảm ANQP sao cho phù hợp với các khả năng có thể dành cho việc
bảo vệ môi trường và bảo tồn thiên nhiên, không gây nên các ảnh hưởng có tính
chất “sốc và đột biến” đối với môi trường, tức là mức độ ảnh hưởng tới môi trường
là có thể chấp nhận được, có khả năng phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường
một cách dễ dàng [20]. Đây thực chất chỉ là một giải pháp có tính chất cuối cùng,
buộc phải áp dụng khi không còn phương sách nào khác và giống như một sự chấp
nhận được cái giá phải trả cho phát triển KT-XH ở một khuôn khổ khá hài hòa,
trong đó ý tưởng của việc xác định “mức độ chấp nhận được” sẽ được đề xuất ở
những phần sau.
Tại các NPT, cũng không thể chỉ nói một cách đơn giản là: “Vì vấn đề môi
trường sẽ phải giảm tốc tăng trưởng”, mà ngược lại sẽ vẫn cần tiếp tục tăng trưởng
như đầu tàu của nền kinh tế thế giới. Nếu không, điều này sẽ hạn chế chính sự phát
triển của các nước nghèo do tính chất ngày càng phụ thuộc lẫn nhau của các nền

kinh tế có xu thế toàn cầu hoá. Mặt khác, chính sự tăng trưởng và phát triển nói
chung tại các NPT cũng có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc triển khai rộng rãi
các công nghệ thân thiện môi trường và góp phần giải quyết các vấn đề môi trường
15
chung của thế giới. Vấn đề ở đây là phải có sự thay đổi trong lối sản xuất và lối
sống, chứ không chỉ đơn thuần là chú ý tới gia tăng về số lượng. Cần phải quan tâm
nhiều đến chất lượng và xây dựng mô hình PTBV phù hợp trong các điều kiện phát
triển quá độ.
Đối với tất cả các nước (kể cả các NPT và NĐPT) đều phải xây dựng và thực
hiện mô hình PTBV của riêng mình, tất nhiên là phải chú trọng và cụ thể hoá những
đặc điểm khác nhau, nhất là tầm quan trọng, quy mô và khả năng đáp ứng BVMT.
Thí dụ: các NPT thường đặt ưu tiên cho các vấn đề môi trường “nóng” trên toàn
cầu, kết hợp vấn đề suy giảm tầng ôzôn và việc xử lý các loại chất thải độc hại,
trong khi đó các NĐPT lại đặt ưu tiên cho việc thoả mãn những nhu cầu cơ bản để
duy trì và từng bước phát triển, cải thiện cuộc sống con người.
Tuy nhiên, để xây dựng và thực hiện mô hình PTBV có thể đề ra một số
nguyên tắc chung, như:
- Phải đặt con người vào trung tâm của mọi suy nghĩ và cân nhắc quyết định.
Dù là mô hình nào và dù là ở cấp độ quốc gia hay quốc tế, mục tiêu cuối cùng vẫn
phải là bảo vệ và cải thiện cuộc sống của con người, trong cả ngày nay và tương lai.
Bảo vệ môi trường và tăng trưởng KT-XH, bảo đảm ANQP đều là các biện pháp
cần thiết, chứ không phải là mục tiêu cuối cùng. Vậy nên, khi cân nhắc quyết định
về mỗi chủ trương hay giải pháp, đều cần phải trả lời thoả mãn cho câu hỏi: nó sẽ
tạo thêm hoặc sản sinh được lợi ích gì và phúc lợi gì cho tuyệt đại đa số nhân dân?
Cho nên, đã có ý kiến cụ thể hoá khái niệm PTBV thực chất là sự phát triển bền
vững về con người. Nếu suy nghĩ sâu sắc và vận dụng tốt nguyên tắc này, thì trong
nhiều trường hợp có thể tránh được các thái độ cực đoan, cực hữu hay cực tả, hoặc
quá coi trọng nhu cầu tăng trưởng hoặc quá coi trọng nhiệm vụ bảo vệ môi trường
và bảo tồn thiên nhiên, đồng thời sẽ bảo đảm được sự lồng ghép hài hoà giữa kinh
tế, xã hội, thể chế và môi trường.

- Dù ở các mức độ, điều kiện và khả năng quá độ khác nhau, các nước đều
phải hướng tới việc sử dụng các công nghệ thân thiện môi trường. Vì có rất nhiều
lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, cho nên công nghệ sử dụng hết sức đa dạng, nhưng
yếu tố cơ bản và tiêu biểu nhất cho mọi công nghệ chính là khả năng sử dụng năng
16
lượng, nước và nguyên vật liệu thô như thế nào? Vì nó liên quan đến các chu trình
sản xuất sản phẩm và phát sinh các chất thải khép kín. Ví dụ như: việc sử dụng khí
thiên nhiên, công nghệ sạch về đốt than, xăng không pha chì và các bộ biến đổi xúc
tác, có thể giảm tới 99% sự phát thải các hạt bụi gây ô nhiễm không khí; hoặc việc
sử dụng nước theo chu trình khép kín từ chỗ sử dụng tuần hoàn trong công nghệ sẵn
có, đến việc tái sử dụng nước thải thông qua quá trình xử lý hợp tiêu chuẩn, sẽ làm
giảm đến 90% tình trạng ô nhiễm các nguồn tiếp nhận; hoặc như việc áp dụng công
nghệ sinh thái công nghiệp sẽ tiết kiệm rất lớn các nguyên vật liệu thô và giảm thiểu
chất thải gây ô nhiễm.
- Đặc biệt có chỉ tiêu rất đáng chú ý, là lượng năng lượng sử dụng cho một
đơn vị sản phẩm. Thí dụ, để sản xuất ra 100 USD của GNP, thì Nhật Bản cần 15 kg
dầu quy đổi, trong khi đó ở Đức là 29, Mỹ là 38, Canada là 54 kg. Nếu tất cả các
NPT đều đạt hiệu suất sử dụng năng lượng như Nhật Bản, thì tổng năng lượng sử
dụng trên thế giới sẽ giảm 2.343 triệu tấn dầu quy đổi, tức là bằng 36% tổng năng
lượng tiêu thụ. Như vậy, có thể tư duy được ý nghĩa của vấn đề kèm theo, đó là sự
giảm bớt sử dụng tài nguyên, hạ giá thành sản phẩm và giảm bớt các tác động tiêu
cực đến môi trường, cũng như các đầu tư cần thiết cho BVMT [39].
- Trong các quyết định, nhất là đối với các chủ trương đầu tư quan trọng
hoặc các chính sách chủ yếu về sử dụng tài nguyên, phải tìm cách phản ánh được
các giá trị của môi trường, kể cả cái giá phải trả cho sự bồi hoàn, khắc phục và cải
thiện chất lượng môi trường. Thông thường, các nhà kinh doanh và quản lý không
mấy chú ý đến các giá trị của tài nguyên và môi trường, mà trong đó có những dạng
tài nguyên và môi trường thậm chí được coi như của “trời cho”, tự do sử dụng và
khai thác một cách vô tội vạ. Hành động này có thể mang lại nhiều lợi ích nhất thời
cho một số nhóm người, hoặc thậm chí cho vài mươi thế hệ, song sẽ mang đến

những tổn thất không thể kể xiết cho cả xã hội hoặc cho các thế hệ tương lai, tức là
cho sự phát triển lâu bền. Qua kết quả nghiên cứu năm 1990 tại Trung Quốc, sự suy
giảm về tài nguyên thiên nhiên đã gây tổn thất ít nhất lên tới 65,7 tỷ NDT. Cũng
trong công trình nghiên cứu đó, các tổn thất do ô nhiễm môi trường gây nên đối với
toàn xã hội được ước tính ít nhất là 29,7 tỷ NDT. Như vậy, tính gộp cả hai yếu tố tài
17
nguyên và môi trường, cái giá phải trả có thể ít nhất là 95,4 tỷ NDT và chiếm tới 8 -
10% GDP năm đó của Trung Quốc (tỷ giá năm 1990, 1 USD ≈ 8 NDT) [47].
- Nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải bồi hoàn” được rất nhiều nước áp
dụng, có thể giúp việc giải quyết một cách hợp lý hơn những mối quan hệ mâu
thuẫn giữa KT-XH và môi trường và cho chúng ta một cách nhìn đúng sự thật hơn
về tăng trưởng KT-XH và định hướng cho việc BVMT vì mục tiêu PTBV. Bên
cạnh đó, nguyên tắc này giúp cho việc thay đổi nhận thức cần thiết về BVMT và
PTBV, vì nó quan hệ trực tiếp đến vấn đề xác định rõ trách nhiệm và lợi ích trong
việc khai thác và sử dụng các nguồn lực tài nguyên và môi trường, việc tổ chức sản
xuất để tìm kiếm lợi nhuận, cũng như đối với lối sống và trách nhiệm pháp lý trước
xã hội khi gây nên tình trạng ô nhiễm và suy thoái môi trường.
- Mô hình PTBV hiện thực phải mang tính triết lý xã hội sâu sắc và phải có
sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân trong mọi khâu của quá trình quyết
định và thực hiện, vì đơn giản là PTBV quan hệ tới lợi ích lâu dài của toàn xã hội.
Một quyết định dù ở cấp độ nào, hoặc một dự án dù ở quy mô nào, nếu không có sự
tham gia của người dân một cách thích hợp, thì cũng không thể xem xét toàn diện
và đầy đủ các vấn đề, đồng thời khó có thể đi tới những giải pháp thoả đáng được.
Khi thực hiện, người dân là người được hưởng lợi gián tiếp hoặc trực tiếp, cũng như
phải gánh chịu những tác động môi trường tiêu cực. Về tài nguyên thiên nhiên, các
cộng đồng bản địa và địa phương còn có vai trò quan trọng, vì họ có tri thức và kinh
nghiệm truyền thống trong việc khai thác, sử dụng và duy trì. Nếu họ có nhận thức
đúng đắn và được tạo điều kiện thuận lợi về chính sách, cơ chế và sự hỗ trợ các mặt,
thì lợi ích thiết thân của họ sẽ gắn bó với tài nguyên thiên nhiên, họ sẽ thực hiện
được vai trò làm chủ, kể cả vai trò kiểm soát đối với tài nguyên tại địa phương và

như vậy sẽ đóng góp rất thiết thực cho PTBV.
- Các mối quan hệ đa phương hay song phương giữa các NPT và NĐPT cũng
phải thay đổi một cách căn bản, nếu như muốn bảo đảm PTBV cho mỗi quốc gia và
cho toàn cầu. Bởi, như trên đã trình bày, có những vấn đề lớn về môi trường mang
tính toàn cầu và đòi hỏi phải có sự cộng tác chặt chẽ giữa mọi quốc gia mới có thể
giải quyết được. Cần phải làm rõ khái niệm: “Trái Đất này không thể trở thành
18
trong lành và an toàn cho mỗi người, nếu không có ý chí hợp tác của tất cả mọi
người”. Cuộc đấu tranh cho một trật tự thế giới công bằng hơn, không chỉ có ý
nghĩa chính trị, mà gắn kết mật thiết với xu thế PTBV trên thế giới. Nếu không chấp
nhận cuộc cải cách này, thì cũng sẽ làm cho PTBV khó trở thành hiện thực.
- Ngoài ra, các NPT cũng cần có nhận thức cao hơn về trách nhiệm, thực
hiện nghiêm chỉnh những nguyên tắc đã ghi trong Tuyên ngôn Rio De Janeiro năm
1992, cũng như phải tăng cường giúp đỡ các NĐPT, ít nhất là về mặt tài chính và
công nghệ. Song, đáng tiếc là gần mười năm sau Hội nghị LHQ Rio De Janeiro năm
1992, mọi sự tiến triển chưa đáng kể.
Có thể nêu ra một số ví dụ điển hình nhất như [46]:
- Việc tăng cường ODA được thực hiện chậm chạp và nhiều NPT chưa đạt
mức 0,7% GDP như yêu cầu của LHQ. Tổng số ODA hàng năm đã từ mức 41,7 tỷ
USD trong giai đoạn 1985 - 1987 tăng lên 63,1 tỷ USD trong giai đoạn 1995 - 1997,
nhưng so với nhu cầu thì còn cách rất xa. Theo OECD, năm 2000 giá trị ODA của
22 NPT cho các nước nghèo tăng 5,6% so với 1999, đưa tổng số ODA lên tới 56,4
tỷ USD. Tuy nhiên, tỷ trọng viện trợ phát triển của các nước OECD so với GDP
cũng chỉ tăng lên chút ít, từ 0,23 lên 0,24%.
- Theo số liệu thống kê, thì có 04 nước cung cấp ODA nhiều nhất (về giá trị
tuyệt đối và so với tổng ODA) là Nhật, Mỹ, Pháp và Đức với tổng số là 55,2 tỷ
USD, đạt mức tỷ trọng ODA chiếm trung bình 0,26% so với GDP. Nhật Bản tuy
cung cấp ODA nhiều nhất, đạt 15,3 tỷ USD, nhưng cũng chỉ bằng 0,35% GDP, tuy
đã tăng khá so với trước (0,28%). ODA của Mỹ tuy đạt 9,1 tỷ USD, song ODA
cũng chỉ bằng 0,1% GDP và là tỷ trọng thấp nhất so với các nước khác. Trong các

năm 1985 - 1987, ODA của Mỹ đã là 9,361 tỷ USD, sau đó tụt xuống còn 7,874 tỷ
trong các năm 1995 - 1997. Riêng Hà Lan và các nước Bắc Âu đều đạt hoặc vượt
yêu cầu của LHQ, vì tỷ trọng ODA của Hà Lan, Thụy Điển là tương ứng với 0,79%
và 0,7% GDP, Na Uy là 0,91% và Đan Mạch là 1,01%.
- Như vậy, con đường triển khai PTBV hiện thực hoàn toàn không dễ dàng
như việc ký kết các cam kết chung của các quốc gia, mà cần phải biết đấu tranh xoá
bỏ các khoảng cách, khó khăn và trở ngại còn tồn tại vì mục tiêu PTBV mới có thể
19
làm cho nó trở thành hiện thực hoàn toàn. Trong đó, việc xây dựng hoàn chỉnh Bộ
chỉ tiêu, chỉ số phát triển bền vững sẽ là một phương tiện và công cụ hiệu quả cho
việc thực hiện các mục tiêu PTBV nhân loại.
1.4. Một số nguyên tắc phát triển bền vững cơ bản
LHQ đã xác định tổng thể 7 nguyên tắc PTBV cơ bản (Tuyên bố Rio De
Janeiro năm 1992). Tuy nhiên, ở đây chúng ta chỉ nhấn mạnh đến một số nguyên
tắc PTBV cơ bản áp dụng cho các điều kiện thực tiễn cụ thể ở Việt Nam như sau:
(1). Phát triển kinh tế - xã hội phải gắn liền với việc khai thác sử dụng hợp lý
các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
(2). Phát triển kinh tế - xã hội phải gắn liền với bảo vệ môi trường và giảm
thiểu tối đa các loại chất thải phát sinh.
(3). Phát triển kinh tế - xã hội phải gắn với việc bảo tồn tính đa dạng sinh học
và văn hoá.
Các biện pháp thực hiện nguyên tắc này là:
- Tôn trọng tính đa dạng của thiên nhiên và văn hóa xã hội.
- Quy hoạch phát triển gắn với bảo tồn tính đa dạng của thiên nhiên và văn
hóa xã hội.
- Duy trì “khả năng chịu tải” (carrying capacity) của môi trường.
- Khuyến khích phát triển các ngành nghề truyền thống.
- Đóng góp một phần lợi ích thu được thông qua hoạt động phát triển KT-XH
vào duy trì tính đa dạng của môi trường.
(4). Khai thác tài nguyên phải phù hợp với quy hoạch tổng thể phát triển kinh

tế - xã hội, lồng ghép chặt chẽ với bảo vệ môi trường và khôi phục môi trường.
(5). Phát triển kinh tế - xã hội phải gắn liền với lợi ích, trách nhiệm của cộng
đồng địa phương.
(6). Phát triển kinh tế - xã hội phải gắn với việc đào tạo nâng cao nhận thức
môi trường.
(7). Phát triển kinh tế - xã hội phải gắn liền với công tác nghiên cứu khoa học
và công nghệ.
20
1.5. Khái niệm về ngưỡng phát triển trên con đường tiến tới phát triển bền vững
Triết lý và thực tế về quá trình vận động phát triển không ngừng trong tự
nhiên và xã hội, đều cho thấy bản chất tích lũy, gia tăng, hoặc trầm tích, tồn tích
một cách đều đều hay đột biến thăng - trầm phát triển, chứng tỏ sự tồn tại của các
ngưỡng phát triển có thể được nhận biết và phát hiện khá dễ dàng. Nhìn chung
“ngưỡng phát triển” sẽ cho thấy rằng các tích lũy, gia tăng hoặc trầm tích, tồn tích
phát triển thường xảy ra một cách đều đều ở quy mô “sâu lắng hoặc âm thầm”
thường rất khó phát hiện và nhận biết, song khi đã tự diễn biến tới một giới hạn
chuyển biến hoặc chuyển pha đột biến thăng - trầm nhất định, thì sẽ tự xuất hiện sản
sinh có tính chất nhảy vọt hoặc bùng nổ và trở thành một sự kiện được ghi nhận,
hay một hiện tượng tồn tại thực tiễn khách quan khó có thể chối cãi được.
Vì vậy, người ta có thể hiểu “ngưỡng phát triển” là một điểm, một mức và
một giá trị không gian, hoặc một thời điểm thời gian, mà ở trên hoặc sau đó sẽ có
thể xảy ra một sự kiện, một hiện tượng nhất định, còn ở dưới hoặc ở trước đó thì các
sự kiện, hiện tượng nhận thức và phát hiện được chưa xảy ra. Do “ngưỡng phát
triển” có giá trị nhận thức triết lý khách quan, cho nên có thể phát hiện trong bất kỳ
một lĩnh vực phát triển tự nhiên hay xã hội nào, đồng thời có thể vận dụng khái
niệm này vào việc nghiên cứu, thiết lập các nhóm mối quan hệ KT – XH và môi
trường (hoặc như sau này đã bổ sung thêm nhóm quan hệ chỉ số về thể chế) theo các
chuẩn mực của triết lý PTBV. Ngoài ra, việc nhận thức và phát hiện về “ngưỡng
phát triển” có thể giúp cho nhận thức về “mức độ chấp nhận được” trong PTBV đã
nêu ở trên, mặc dù hầu như chúng ta không mong muốn chấp nhận bất kỳ một sự

thoả hiệp nào về tài nguyên và môi trường. Có thể cho rằng, khái niệm “ngưỡng
phát triển” là giới hạn có thể phát hiện cho việc định giá các giá trị phát triển và các
chỉ tiêu, chỉ số phát triển bền vững kèm theo.
1.6. Khái niệm về các thông số, chỉ tiêu/chỉ thị và chỉ số phát triển bền vững
Định nghĩa chỉ số, chỉ tiêu/chỉ thị, thông số/biến số như sau [24]:
- Chỉ số là giá trị tích hợp đánh giá sự biến đổi về tài nguyên và môi trường
được tính toán trực tiếp từ một số các chỉ tiêu hoặc gián tiếp từ các chỉ tiêu tổng
hợp.
21
- Chỉ tiêu/Chỉ thị là giá trị đánh giá sự biến đổi về tài nguyên và môi trường
được tính toán trực tiếp từ các thông số hay biến số đã được quan trắc đo đạc, ghi
nhận hoặc tính toán thực tế (chỉ thị) hoặc từ các chỉ tiêu/chỉ thị.
- Thông số/biến số là các số đo đạc thực tế hoặc/và ghi nhận, tính toán ra từ
hiện trạng hoặc/và dự báo xu thế diễn biến về tài nguyên và môi trường, mà từ
chúng sẽ tính toán ra các chỉ tiêu/chỉ thị, rồi từ các chỉ tiêu sẽ tiếp tục tính toán ra
các chỉ số theo các thuật toán biến đổi dữ liệu, cũng như theo phép tích hợp tổng
(hoặc nhân) trung bình từ các thông số/biến số và chỉ thị áp dụng.
Theo chúng tôi, các khái niệm trên không mới đối với nhiều nước, song trên
thực tế hay bị nhầm lẫn. Để tránh sự nhầm lẫn này và dễ hiểu, dễ sử dụng, chúng tôi
đề xuất một số khái niệm như: Chỉ số; Chỉ tiêu ; Hệ thống chỉ tiêu; Các chỉ tiêu; Chỉ
tiêu phát triển bền vững; Dữ liệu thô; Số liệu thống kê, theo thứ tự sắp xếp như
sau:
(1). Dữ liệu thô: toàn bộ thông tin định tính và định lượng có thể thu thập
được trong lĩnh vực quan tâm.
(2). Số liệu thống kê: toàn bộ số liệu được Tổng cục Thống kê và các cơ
quan có thẩm quyền thống kê định kỳ hoặc thu được qua các cuộc điều tra, tổng
điều tra.
(3). Các chỉ tiêu: thông tin được tính toán từ số liệu thống kê thể hiện hướng
thay đổi hay một trạng thái nào đó của đối tượng nghiên cứu.
(4). Hệ thống chỉ tiêu: là những chỉ tiêu được nhóm thành một tập hợp liên

quan tới nhau theo nhiều chiều.
(5). Chỉ số: là mật độ đo tổng hợp ở mức cao, được tính từ các chỉ tiêu và hệ
thống chỉ tiêu.
(6). Chỉ tiêu bền vững: các chỉ tiêu thường cung cấp các thông tin về xu thế,
mô tả một trạng thái. Các chỉ tiêu có thể giúp xác định các thành phần liên quan của
sự phát triển bền vững, làm tăng cường sự hiểu biết về trạng thái của sự bền vững.
Việc chỉ ra mối quan hệ giữa hai chỉ tiêu hoặc sự phát triển theo thời gian của một
chỉ tiêu nào đó sẽ giúp mọi người hiểu biết thế nào là phát triển bền vững.
22
2. Kết quả nghiên cứu về phân loại các chỉ tiêu phát triển bền vững
Hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững thường được phân loại theo lĩnh vực và
theo tính chất. Bốn lĩnh vực thường được xem xét là kinh tế, xã hội, môi trường và
thể chế. Tuy nhiên, một số nước đã xây dựng hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững
theo điều kiện thực tế của nước đó, bao gồm các lĩnh vực khác như tài nguyên, khí
hậu, theo lĩnh vực khoa học, theo vùng địa lý Ngoài ra, còn phân loại các chỉ tiêu
phát triển bền vững theo các tính chất như sau:
- Các chỉ tiêu trạng thái: chỉ rõ trạng thái của hệ thống tại một thời điểm cụ
thể, ký hiệu là nhóm S là chữ cái đầu của state.
- Các chỉ tiêu mục tiêu, mục đích: dự kiến trạng thái của hệ thống trong
tương lai, ký hiệu nhóm T là chữ cái đầu của target.
- Các chỉ tiêu áp lực: các chỉ tiêu trực tiếp tác động đến các vấn đề môi
trường, ký hiệu là nhóm P là chữ cái đầu của pressure.
- Các chỉ tiêu ảnh hưởng: chỉ rõ các tác động đến sự thay đổi trạng thái, ký
hiệu là nhóm I là chữ cái đầu của impact.
- Các chỉ tiêu hưởng ứng: chỉ rõ nỗ lực của xã hội giải quyết đến các vấn đề,
ký hiệu là nhóm R là chữ cái đầu của response.
Trong luận án này, khái niệm hệ thống chỉ tiêu PTBV về sinh thái và tài
nguyên sinh vật như sau “Là tập hợp những chỉ tiêu liên quan với nhau, cung cấp
các thông tin về xu thế, trạng thái giúp xác định sự phát triển bền vững về sinh thái
và tài nguyên sinh vật”.

3. Tổng quan về hệ thống chỉ tiêu phát triển bền vững trong đó có lĩnh vực sinh
thái và tài nguyên sinh vật
3.1. Trên thế giới
3.1.1. Vương quốc Anh
Vương quốc Anh là một quốc gia phát triển nằm ở khu vực Bắc Âu, có diện
tích 245 nghìn km
2
, dân số năm 2003 là 59,2 triệu người; tỷ lệ tăng trưởng kinh tế
ổn định ở mức 2-3%/năm. Vương quốc Anh đã công bố Chiến lược phát triển bền
vững vào năm 1999, mà để đánh giá việc thực hiện Chiến lược này, hàng năm
Chính phủ Anh xây dựng Báo cáo về phát triển bền vững dựa trên việc so sánh Bộ
23
chỉ tiêu trong năm với năm 1990 và năm 1999 là thời điểm công bố Chiến lược phát
triển bền vững. Bộ chỉ tiêu phát triển bền vững của Vương quốc Anh gồm 16 chỉ
tiêu đặc trưng cho ba lĩnh vực: kinh tế, xã hội và môi trường. Trong đó có 3 chỉ tiêu
đề cập đến lĩnh vực sinh thái và tài nguyên sinh vật [1,22,23,26,29,47] là:
(1). Số ngày không khí bị ô nhiễm trung bình và nặng.
(2). Tỷ lệ độ dài của sông có chất lượng tốt.
(3). Sự thay đổi số lượng chim hoang dã.
3.1.2. Thụy Điển
Năm 2001, Thụy Điển xuất bản Bộ chỉ tiêu phát triển bền vững lần thứ nhất,
trước khi soạn thảo Chiến lược phát triển bền vững. Vì vậy, Bộ chỉ tiêu phát triển
bền vững là tài liệu quan trọng khi soạn thảo Chiến lược PTBV ở Thụy Điển. Toàn
bộ có 30 chỉ tiêu, đề cập đến 04 lĩnh vực: hiệu quả, bình đẳng/tham gia, thích nghi,
giá trị và tài nguyên đối với thế hệ mai sau. Trong đó có 5 chỉ tiêu đề cập đến lĩnh
vực sinh thái và tài nguyên sinh vật [9,10,21,22,26,27,29,35]:
(1). Số lượng hóa chất nguy hiểm tới sức khỏe và nuôi trồng.
(2). Diện tích được bảo vệ.
(3). Khai thác cá trích ở biển Ban Tích.
(4). Các loài quý hiếm có nguy cơ tiệt chủng.

(5). Phát thải CO
2
.
3.1.3. Hoa Kỳ
Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (hay Mỹ) là nước phát triển nằm ở Tây bán cầu, có
diện tích tự nhiên 9364 nghìn km
2
với dân số 291,5 triệu người vào năm 2003, tỷ lệ
dân số thành thị gần 80% dân số. Năm 1997, dựa vào ý kiến 500 công ty, các tổ
chức phi chính phủ và các nhóm nghiên cứu của sinh viên, đã lựa chọn ra một Bộ
chỉ tiêu phát triển bền vững gồm 32 chỉ tiêu, trong đó có 11 chỉ tiêu đề cập đến lĩnh
vực sinh thái và tài nguyên sinh vật [9,10,21,22,26,27,29,35]:
(1). Các chất hoá học ô nhiễm trong đất, cửa sông, biển.
(2). Tỷ lệ đánh bắt/sinh trưởng của cá.
(3). Chỉ số đáp ứng khí hậu nhà kính.
(4). Số loài ngoại lai thâm nhập vào lãnh thổ.
24
(5). Sử dụng đất, bao gồm cả đô thị.
(6). Các loại đất.
(7). Các loài bị đe doạ.
(8). Tỷ lệ khai thác/sinh trưởng của gỗ.
(9). Diện tích đất bị nhiễm độc.
(10). Tỷ lệ tiêu thụ/tái tạo nước.
(11). Chỉ số chất lượng nước.
3.2. Các nước trong khu vực
3.2.1. Inđônexia
Inđônexia là NĐPT nằm ở Đông nam Châu á. Diện tích 741.096 km
2
với
17.000 đảo có người ở, trong đó đảo lớn nhất là Sumatra và Java. Inđônexia nằm

trong “vành đai lửa” của khu vực Châu á - Thái Bình Dương, ở đây có nhiều ngọn
núi lửa còn đang hoạt động, thường xảy ra động đất và sóng thần. Dân số năm 2004
vào khoảng 238,452 triệu người, trong đó dân tộc Java chiếm 45%, Sundanis 14%,
Maduris 7,5%, ven biển Malayxia 7,5% và các dân tộc khác chiếm 26%. Lực lượng
lao động có 100,5 triệu người, làm việc trong nông nghiệp: 45%; công nghiệp 16%
và dịch vụ 39%. Ngôn ngữ chính thống có tiếng Bahasa Inđônexia, tiếng Anh, Đức,
Java và hơn 580 ngôn ngữ khác. Đạo hồi chiếm 88%, Protestant 5%, Thiên chúa
giáo dòng Roman 3%, Hindu 2%, Phật giáo 1%, tôn giáo khác là 1%. Tỷ lệ biết đọc
biết viết năm 2003 khoảng 89%; tuổi thọ trung bình 69,3 năm. Năm 2003, GDP
bình quân đạt 3.200 USD/người. Nhịp độ tăng GDP trung bình 4%/năm; lạm phát
6,9%/năm và tỷ lệ thất nghiệp là 10,5%/năm [32].
Từ năm 1999, Gustavson và các cộng sự đã đề nghị chỉ nên lựa chọn một số
chỉ tiêu hạt nhân về PTBV, nhưng phải có hiệu quả. Sau khi thử nghiệm cho thấy
nhiều chỉ tiêu phát triển bền vững đã lựa chọn có mối quan hệ với nhau, do đó có
thể giảm được số lượng các chỉ tiêu cần thu thập cho đánh giá và phân tích chính
sách. Inđônexia đã lựa chọn 21 chỉ tiêu, trong đó có 3 chỉ tiêu đề cập đến lĩnh vực
sinh thái và tài nguyên sinh vật [1, 9,10,21,23,26,27,35,47] là:
(1). Năng suất cây lương thực.
25

×