Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

hạch toán Kế toán tiền lương & các khoản trích theo lương tại Công ty Cổ phần xây lắp Trực Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.62 KB, 30 trang )

CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận

: 6.280.688
PHẦN I
LỜI NÓI ĐẦU
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, chuyên nghành kế
toán được nhiều nhà kinh tế quản lý kinh doanh và các chủ doanh nghiệp quan niệm
như một “Ngôn ngữ kinh doanh“ và coi đó là một “nghệ thuật“ để ghi chép-phân loại,
tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế tài chính trong quá hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp nhằm cung cấp những thông tin cần thiết cho việc ra quyết định
phù hợp của các đối tượng sử dụng thông tin. Song dù quan niệm như thế nào
chăng nữa thì kê toán luôn là công cụ quản lý và có vai trò đặc biệt quan trọng trong
công tác quản lý vĩ mô của Nhà nước và quản lý vi mô của doanh nghiệp.
Trong cơ chế thị trường như hiện nay thì mối quan tâm lớn nhất của chủ doanh
nghiệp là không chỉ làm thế nào giảm chi phí quá trình sản xuất đến mức thấp nhất
mà còn biết sử dụng lao động sao cho đúng, đủ nhất để tăng năng suất lao động,
đem lại lợi nhuận cao nhất cho doanh nghiệp mình. Để giải quyết tốt vấn đề này thì
việc tổ chức thực hiện công tác kê toán tiền lương hoặc hoạch toán chi phí nhân
công không chỉ là cơ sở để xác định giá thành sản phẩm, là căn cứ để xác định các
khoản nộp ngân sách mà còn cần đảm bảo cho người lao động ổn định mức sống và
quyền lợi của họ.
. Là một sinh viên chuyên nghành kế toán, qua thời gian được học trên lớp và
qua quá trình tìm hiểu về tài liệu kế toán ở các doanh nghiệp em nhận thấy vấn đề
hạch toán tiền lương và các khoản trích theo lương là môt vấn đề khá quan
trọng.Chính vì vậy trong đò án môn học lần em xin chon đề tài nghiên cứu của minh
là “Hoạch toán kế toán tiền lương và các khoản trích theo lương tại công ty cổ
phần xây lắp Trực Ninh “.
1
CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận

: 6.280.688


PHẦN II
CƠ SỞ LÝ LUẬN
Khi nghiên cứu về vấn đề tiền lương, trước tiên ta cần phải hiểu thực chất của
tiền lương là gì, nó có chức năng như thế nào. Để nghiên cứu chuyên đề này ta cần
xem xét các vấn đề sau
2.1
BẢN CHẤT TIỀN LƯƠNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
Trong mọi chế độ xã hội, việc sáng tạo ra của cải vật chất đều không tách rời lao
động. Lao động là hoạt động có mục đích của con người, diễn ra giữa con người với
giới tự nhiên, con người tác động vào các vật tự nhiên biến chúng thành những vật
phẩm đáp ứng nhu cầu sinh tồn của chính họ. Vì thế, lao động là điều kiện không thể
thiếu được của đời sống và là một phạm trù vĩnh viễn.
Tiền lương là khoản tiền công trả cho người lao động, nó là một phạm trù kinh tế
bởi nó phản ánh đúng giá trị sức lao động. Tiền lương phụ thuộc vào kết quả của lao
động và những mối quan hệ sản xuất mà trước hết là quan hệ về tư liệu sản xuất.
Tiền lương là khoản tiền công mà người sử dụng lao động trả cho người lao động,
đồng thời là những yếu tố chi phí sản xuất quan trọng cấu thành lên giá thành sản
phẩm. Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, là giá cả của sức
lao động, nhưng thực chất thì nhà tư bản trả công cho người lao động thấp hơn giá
trị sức lao động anh ta bỏ ra. Trong xã hội chủ nghĩa tiền lương không phải là giá cả
của sức lao động mà là một phần giá trị vật chất trong tổng sản phẩm xã hội dùng để
phân phối cho người lao động theo nguyên tắc “Làm theo năng lực, hưởng theo lao
động” tiền lương mang một ý nghĩa tích cực tạo ra sự cân bằng trong phân phối thu
nhập và ảnh hưởng đến quá trình tái sản xuất.
Ở nước ta trong thời kỳ bao cấp, một phần thu nhập quốc dân được tách ra làm
quỹ lương và phân phối theo kế hoạch tiền lương. Tiền lương cụ thể bao gồm: Phần
trả bằng tiền theo hệ thống thanh toán lương, bảng lương và phần trả bằng hiện vật
qua hệ thống tem phiếu. Theo cơ chế này, tiền lương không gắn chặt với số lượng,
chất lượng lao động, không đảm bảo một cuộc sống ổn định cho người lao động,
nên không tạo ra một động lực thúc đẩy sản xuất phát triển.

Trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, một trong những nội
dung đổi mới của cơ chế quản lý Nhà nước là không bao cấp tiền lương cho các xí
nghiệp quốc doanh, phạm trù tiền lương được thể hiện cụ thể trong từng thành phần
2
CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận

: 6.280.688
và khu vực kinh tế. Với thành phần kinh tế nhà nước và khu vực hành chính sự
nghiệp, tiền lương là số tiền mà các doanh nghiệp quốc doanh, các cơ quan tổ chức
của Nhà nước trả cho người lao động theo cơ chế và chính sách thể hiện ở hệ thống
thanh toán lương, bảng lương do Nhà nước quy định. Còn với thành phần kinh tế
ngoài quốc doanh, tiền lương chịu sự tác động, chi phối rất lớn của thị trường sức
lao động, dù vẫn nằm trong khuôn khổ pháp luật và theo những chính sách của
chính phủ nhưng tiền lương thông qua giao dịch trực tiếp giữa chủ và thợ bằng
những “mặc cả” cụ thể giữa một bên làm thuê và một bên đi thuê. Những hợp đồng
lao động này có tác động trực tiếp đến hình thức trả công.
Đứng trên phạm vi xã hội, tiền lương được xem xét và đặt trong quan hệ phân
phối thu nhập, quan hệ sản xuất tiêu dùng, quan hệ trao đổi, do vậy các chính sách
về tiền lương và thu nhập luôn là chính sách trọng tâm của mỗi quốc gia.
2.1.1 Chức năng của tiền lương.
 Chức năng là thước đo giá trị.
Tiền lương là khoản tiền công trả cho người lao động tương ứng với số lượng và
chất lượng lao động. Là biểu hiện bằng tiền của hao phí lao động sống cần thiết mà
doanh nghiệp trả cho người lao động theo thời gian, khối lượng công việc đã cống
hiến cho doanh nghiệp. Khi trả lương cho người lao động ngang bằng với giá trị sức
lao động mà họ đã bỏ ra trong quá trình thực hiện công việc thì xã hội có thể xác
định chính xác hao phí sức lao động của toàn thể cộng đồng thông qua quỹ lương
cho toàn bộ người lao động. Điều này có ý nghĩa quan trọng để Nhà nước hoạch
định được về chính sách, chiến lược lao động tiền lương.
 Chức năng tái sản xuất sức lao động.

Theo Mác “Sức lao động là toàn bộ khả năng về thể lực và trí lực tập trung cho
con người sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. Bản chất của tái sản
xuất sức lao động là duy trì và phát triển sức lao động đảm bảo cho người lao động
có một khối lượng tư liệu sinh hoạt nhất định để duy trì nó, cũng như là nâng cao
chất lượng lao động. Quá trình tái sản xuất sức lao động sẽ được bắt đầu bằng quá
trình trả lương cho người lao động, đó chính là tiền lương.
 Chức năng kích thích sức lao động, tăng năng suất sức lao động.
Trên thực tế cho thấy con người sản sinh ra sức lao động là để phục vụ cho quá
trình lao động, khi tiền lương được trả xứng đáng sẽ tạo niềm say mê hứng thú tích
3
CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận

: 6.280.688
cực làm việc, phát huy sự sáng tạo, nâng cao trình độ và có trách nhiệm hơn đối với
công việc.
 Chức năng giám sát lao động.
Thông qua việc trả lương mà người sử dụng lao động có thể tiến hành kiểm tra
theo dõi quan sát người lao động làm việc theo kế hoạch. Đảm bảo tiền lương người
lao động sẽ nhận được nhưng đồng thời công việc của mình cũng đem lại hiệu quả
mong muốn.
 Chức năng tích lũy.
Như mọi thu thập khác, tiền lương là thu nhập của người lao động sau một thời
gian làm việc. Vì vậy người lao động tạo ra thu nhập không chỉ để duy trì sự sống
trong thời gian làm việc mà còn để tích lũy lâu dài trong những lúc rủi ro, mất khả
năng lao động. Tiền lương càng cao thì khả năng tích lũy càng lớn.
2.1.2 Nguyên tắc trả lương.
Để phát huy tốt nhất tác dụng của tiền lương trong hoạt động sản xuất kinh
doanh và đảm bảo hiệu quả của các doanh nghiệp, tính công bằng cho người lao
động. Trong điều 55 bộ luật lao động quy định, tiền lương của người lao động do hai
bên thỏa thuận trong hợp đồng và dựa trên năng suất lao động, chất lượng và hiệu

quả công việc. Mức lương của người lao động không được thấp hơn mức lương tối
thiểu do Nhà nước quy định (290 000đ thực hiện từ ngày 01/01/2003), không khống
chế mức lương tối đa mà chỉ điều tiết bằng thuế thu nhập. Việc khống chế mức
lương tối thiểu nhằm đảm bảo lợi ích cho người lao động. Nếu doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh thua lỗ đến nỗi người lao động có thu nhập quá thấp thì Nhà nước
phải can thiệp. Còn đối với người lao động có thu nhập quá cao thì nhà nước sẽ điều
tiết bằng thuế thu nhập, việc thực hiện chế độ tiền lương phải đảm bảo những
nguyên tắc được ghi trong nghị định 26CP ra ngày 25/5/1993 của chính phủ quy
định làm công việc gì, chức vụ gì hưởng lương theo công việc đó chức vụ đó. Đối
với công nhân trực tiếp sản xuất kinh doanh, cơ sở để xếp lương là tiêu chuẩn cấp
bậc kĩ thuật, đối với viên chức nhà nước là tiêu chuẩn nghiệp vụ chuyên môn, đối với
quản lý doanh nghiệp theo độ phức tạp và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
2.2 NỘI DUNG QUỸ LƯƠNG VÀ CÁC HÌNH THỨC TRẢ LƯƠNG
2.2.1 Nội dung quỹ lương.
4
CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận

: 6.280.688
Quỹ lương của doanh nghiệp là toàn bộ tiền lương của doanh nghiệp dùng để
trả cho tất cả người lao động thuộc doanh nghiệp quản lý và sử dụng. Theo nghị
định số 235 của hội động bộ trưởng ra ngày 19/09/1995 của hội đồng bộ trưởng.
Quỹ tiền lương bao gồm các khoản sau:
 Tiền lương tháng, ngày theo hệ thống các bảng lương của nhà nước.
 Tiền lương trả theo sản phẩm.
 Tiền lương công nhật cho người lao động ngoài biên chế.
 Tiền lương trả cho người lao động trong thời gian ngừng việc, thiết bị máy
móc ngừng làm việc vì nguyên nhân khách quan, trong thời gian điều
động công tác, đi học nhưng vẫn trong biên chế.
 Các loại tiền thưởng thường xuyên, các loại phụ cấp theo chế độ quy định
và phụ cấp khác được hưởng trong quỹ lương.

Nếu dựa theo kết cấu thì quỹ lương được chia làm 2 bộ phận:
Bộ phận cơ bản bao gồm: Tiền lương cấp bậc là mức lương do các thanh bảng
lương của từng ngành, từng xí nghiệp quy định được Nhà nước ban hành.
Bộ phận biến đổi: Bao gồm các loại phụ cấp, các loại tiền thưởng bên cạnh tiền
lương cơ bản.
Quan hệ của hai bộ phận này tùy thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của mỗi
doanh nghiệp.
Đối với các doanh nghiệp, quỹ tiền lương là một yếu tố của chi phí sản xuất. Còn
đối với người cung ứng sức lao động thì quỹ tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu
trong điều kiện hiện nay. Để quỹ tiền lương phát huy được tác dụng của nó thì trước
hết mỗi doanh nghiệp phải đảm bảo quỹ tiền lương của doanh nghiệp mình thực
hiện tốt chức năng thấp nhất và cũng là chức năng quan trọng nhất là đảm bảo đủ
chi phí tái sản xuất sức lao động.
2.2.2 Chế độ tiền lương.
 Chế độ tiền lương theo cấp bậc
Chế độ tiền lương theo cấp bậc là toàn bộ những quy định của nhà nước, xí
nghiệp vận dụng để trả lương cho người lao động. Căn cứ vào chất lượng và điều
kiện lao động khi họ hoàn thành một công việc nhất định.
Chế độ này áp dụng cho công nhân, những người lao động trực tiếp và trả
lương theo kết quả lao động của họ, thể hiện qua số lượng và chất lượng lao động.
5
CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận

: 6.280.688
Số lượng lao động thể hiện qua mức hao phí lao động dùng để sản xuất ra sản
phẩm trong một thời gian theo lịch nào đó. Còn chất lượng lao động là trình độ lành
nghề của người lao động được sử dụng và quá trình lao động thể hiện ở trình độ
giáo dục đào tạo, kinh nghiệm kỹ năng.
 Chế độ tiền lương theo chức vụ.
Là toàn bộ những quy định của nhà nước mà các tổ chức kinh tế nhà nước và

các doanh nghiệp áp dụng để trả lương cho lao động quản lý. Đây là chế độ trả
lương cho những người không trực tiếp tạo ra sản phẩm nhưng lại đóng vai trò quan
trọng trong việc lập kế hoạch tổ chức, điều hành kiểm soát và điều chỉnh các hoạt
động sản xuất kinh doanh. Hiệu quả của lao động quản lý có ảnh hưởng rất lớn đến
quy mô kinh doanh.
Tiền lương trong chế độ này được trả theo thời gian và dựa vào các bảng lương
chức vụ. Việc phân biệt tình trạng trong bảng lương chức vụ chủ yếu dựa vào các
tiêu chuẩn: Chính trị, trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn nghiệp vụ tương ứng với
chức vụ đảm nhiệm.
2.2.3 Các hình thức trả lương.
Thực chất của quá trình trả lương là có quy phạm được thừa nhận để định tiền
lương phải trả cho người lao động dựa trên số lượng sức lao động đã hao phí. Theo
dự định 197/CP ra ngày 31/12/1999 của chính phủ có ba hình thức trả lương sau:
 Trả lương theo thời gian.
Trả lương theo thời gian chủ yếu áp dụng đối với những người làm công tác
quản lý, đây là hình thức thực hiện việc tính trả lương cho người lao động theo thời
gian làm việc, theo ngành nghề và trình độ nghiệp vụ, kỹ thuật chuyên môn của
người lao động.
Đơn vị để tính lương theo thời gian là lương tháng, lương ngày lương giờ
Có hai chế độ lương theo thời gian:
 Chế độ trả lương theo thời gian giản đơn:
Tiền lương trả theo thời gian giản đơn là chế độ trả lương mà tiền lương nhận
được của mỗi công nhân do mức lương cấp bậc cao hay thấp và thời gian làm việc
nhiều hay ít quyết định. Chế độ trả lương này chỉ áp dụng ở những nơi khó xác định
mức lao động, khó đánh giá công việc chính xác. Khi đó tiền lương được tính như
sau:
6
CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận

: 6.280.688

Trong đó: TL
tt
: Tiền lương thực tế người lao động nhận được
TL
cb
: Tiền lương cấp bậc tính theo thời gian
T : Thời gian thực tế làm việc
Lương ngày thường được áp dụng để tính lương trong những ngày học tập, hội
họp hoặc trả theo hợp đồng ngắn hạn. Còn lương giờ áp dụng cho những công việc
mang lại kết quả trong khoảng thời gian ngắn đòi hỏi chất lượng cao.
Tuy nhiên hình thức trả lương này còn có nhược điểm là mang tính chất bình
quân, không khuyến khích sử dụng hợp lý thời gian làm việc, tiết kiệm nguyên vật
liệu, tập trung công suất của máy móc để tăng năng suất của lao động.
 Chế độ trả lương theo thời gian có thưởng.
Là sự kết hợp giữa chế độ trả lương theo thời gian giản đơn với tiền thưởng,
khi đạt được những chỉ tiêu về số lượng và chất lượng đã quy định. Chế độ trả
lương này chủ yếu áp dụng đối với những công nhân phụ.
Chế độ trả lương này có nhiều ưu điểm hơn so với chế độ trả lương theo thời
gian giản đơn vì nó không chỉ phản ánh được trình độ thành thạo công việc và thời
gian làm việc thực tế mà còn gắn chặt với thành tích công tác của từng người thông
qua chỉ tiêu xét thưởng.
 Trả lương theo sản phẩm
Trả lương theo sản phẩm là hình thức trả lương cho người lao động dựa trực
tiếp vào số lượng và chất lượng sản phẩm mà họ đã hoàn thành. Đây là hình thức
trả lương được áp dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp.
 Chế độ trả lương theo sản phẩm tập thể:
7
TL
tt
= TL

cb
x T
Tiền lương phải trả
cho một ngày làm việc
Tiền lương tháng
Số ngày định mức(26 ngày)
=
Tiền lương phải trả
cho một giờ làm việc
Tiền lương ngày
Số giờ định mức(8 giờ)
=
Tiền lương thực tế
phải trả cho CNV
Tiền lương theo
thời gian giản đơn
Tiền thưởng
=
+
CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận

: 6.280.688
chế độ này áp dụng để trả lương cho một nhóm người lao động khi họ hoàn
thành một khối lượng sản phẩm nhất định. Những công việc đỏi hỏi nhiều người
cùng tham gia thực hiện mà công việc của mỗi cá nhân có liên quan đến nhau.

Trong đó: T
qvđm
: Thời gian vòng quay định mức.
T

qvth
: Thời gian vòng quay thực hiện.
k : Hệ số tiền lương sản phẩm được tăng lên hay giảm đi do
kéo dài hoặc rút ngắn thời gian vòng quay phương tiện
Đ
sp
: Đơn giá tiền lương sản phẩm.
 Hình thức trả lương khoán.
Đây là hình thức biến thái của hình thức trả lương theo sản phẩm thường áp
dụng cho những doanh nghiệp có một số công việc nếu giao chi tiết từng bộ phận sẽ
không có lợi mà phải giao toàn bộ khối lượng công việc cho cả nhóm hoàn thành
trong một khoảng thời gian nhất định.
Có một số hình thức trả lương khoán sau
 Trả lương khoán gọn theo sản phẩm cuối cùng .
Đây là hình thức trả lương theo sản phẩm nhưng tiền lương được tính theo
đơn giá tập hợp theo sản phẩm hoàn thành đến công việc cuối cùng hình thức này
áp dụng cho doanh nghiệp mà quá trình sản xuất trải qua nhiều giai đoạn công nghệ,
nhằm khuyến khích người lao động quan tâm đến chất lượng sản phẩm.
 Trả lương khoán thu nhập.
Tùy thuộc vào kết quả lao động sản xuất kinh doanh hình thành quỹ lương để
phân chia cho người lao động. Nếu tiền lương không thể hoạch toán riêng rẽ cho
từng người lao động thì phải hoạch toán cho cả tập thể người lao động sau đó mới
chia cho từng người.
Có thể chia lương theo các phương pháp
Chia lương theo cấp bậc kỹ thuật và cấp bậc công việc trung bình cộng điểm
Chia lương theo bình quân cộng điểm
2.2.4 Một số chế độ khác khi tính lương
 Chế độ trả lương khi ngừng việc
8
TL

sp
= Đ
sp
* T
qvđm
* [1 + (T
qv
đ
m
- T
qvth
)*k]
CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận

: 6.280.688
Theo thông tư số 11/ LĐ – TT ngày 14/ 4/ 1962 quy định của bộ lao động chế độ trả
lương khi ngừng việc được áp dụng cho người lao động làm việc thường xuyên,
buộc phải ngừng làm việc do nguyên nhân khách quan (Bão lũ, mất điện, máy
hỏng....) do người khác gây ra hoặc khi chế thử, sản xuất thử sản phẩm mới.
Việc tính trả lương được tính thống nhất cho tất cả lao động theo % trên mức cấp
bậc kể cả phụ cấp. Cụ thể
Trả 70% lương khi không làm việc.
Trả ít nhất 85% lương nếu phải làm việc khác có mức lương thấp hơn.
Trả 100% lương khi ngừng việc do chế thử, sản xuất thử.
 Chế độ phụ cấp lương
Theo điều 4 của thông tư liên bộ số 20LĐ – TT ngày 02/06/1993 của liên bộ
lao động thương binh và xã hội – Tài chính quy định có 7 loại phụ cấp:
 Phụ cấp theo khu vực : Áp dụng với những nơi hẻo lánh, vùng xa có nhiều
khó khăn, và điều kiện khí hậu khắc nghiệt. Loại phụ cấp này có 7 mức phụ
cấp với các hệ số : 0,1; 0,2; 0,3; 0,4; 0,5; 0,6; 0,7, một số với mức lương tối

thiểu.
 Phụ cấp độc hại hoặc nguy hiểm chưa xác định, trong mức lương có 4 mức
phụ cấp với các hệ số : 0,1; 0,2; 0,3; 0,4; so với mức lương tối thiểu
 Phụ cấp trách nhiệm cao hoặc phải kiêm nhiệm công tác quản lý không thuộc
chức vụ lãnh đạo. Có 3 mức phụ cấp với các hệ số 0,1; 0,2; 0,3 so với mức
lương tối thiểu tùy thuộc vào công tác quản lý của mỗi lao động .
 Phụ cấp làm đêm: Áp dụng đối với những công nhân viên chức làm ca 3 (Từ
22h đến 6h sáng) ở loại này phụ cấp gồm 2 mức:
• Mức 1: Phụ cấp 30% tiền lương cấp bậc hoặc chức vụ đối với công
việc không thường xuyên làm việc ban đêm.
• Mức 2: Phụ cấp 40% tiền lương cấp bậc hoặc chức vụ đối với công
việc thường xuyên làm việc theo ca.
 Phụ cấp thu hút áp dụng đối với công nhân viên chức làm việc những vùng
kinh tế mới, cơ sở kinh tế và các hải đảo xa đất liền có điều kiện sinh hoạt hết
sức khó khăn do chưa có cơ sở hạ tầng. Phụ cấp thu hút gồm 4 mức: 20%;
30%, 50%, 70% mức lương cấp bậc hoặc chức vụ, thời gian hưởng từ 2 đến
3 năm.
9
CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận

: 6.280.688
 Phụ cấp đắt đỏ: Áp dụng cho những nơi có chỉ số sinh hoạt cao hơn chỉ số giá
sinh hoạt bình thường của cả nước từ 10% trở lên với 5 mức phụ cấp, và hệ
số phụ cấp là : 0,1; 0,15; 0,2; 0,25; 0,3 so với mức lương tối thiểu.
 Phụ cấp lưu động: Áp dụng đối với một số nghề hoặc những công việc phải
thường xuyên thay đổi địa điểm làm việc hoặc chỗ ở, phụ cấp gồm 3 mức với
các hệ số: 0,2; 0,4; 0,6 so với mức lương tối thiểu.
 Nguyên tắc thưởng.
Tiền thưởng thực chất là khoản tiền bổ xung nhằm quán triệt đầy đủ hơn nguyên
tắc phân phối theo lao động. Trong cơ cấu thu nhập của người lao động thì tiền

lương có tính ổn định, thường xuyên, còn tiền thưởng chỉ là phần thu thêm và nó
phụ thuộc vào các chỉ tiêu, phụ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tiền thưởng có tính chất khuyến khích vật chất, để thúc đẩy sản xuất phát triển.
Nguyên tắc thực hiện chế độ thưởng.
 Áp dụng chế độ thưởng thích hợp tùy vào đặc điểm sản xuất và yêu cầu công
việc hoặc yêu cầu sản xuất kinh doanh.
 Đảm bảo mối quan hệ hữu cơ giữa các chỉ tiêu số lượng và chất lượng.
 Đảm bảo mối quan hệ hợp lý về mức thưởng trong nội bộ người lao động.
 Tổng số tiền thưởng không vượt quá số tiền mang lại lợi ích.
Để tiền thưởng thực hiện tốt chức năng đòn bẩy thì doanh nghiệp phải xác địn
rõ quỹ tiền thưởng hiện có của doanh nghiệp.
2.3
NỘI DUNG CÁC KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP
2.3.1 Bảo hiểm xã hội :
Bảo hiểm xã hội (BHXH) được thực hiện ở nước ta từ những năm 1920 nhưng
chưa thực sự trở thành một chính sách xã hội lớn, kể từ năm 1962 các chế độ bảo
hiểm xã hội đã góp phần quan trọng trong việc đảm bảo đời sống CBCNV giữ vững
ổn định chính trị xã hội.
Bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho
người lao động khi họ bị mất việc hoặc khoản thu nhập bị giảm do không còn khả
năng lao động, bằng cách hình thành và sử dụng một quỹ tài chính tập trung do sự
đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động nhằm đảm bảo an toàn đời
sống cho người lao động của gia đình họ.
Hiện nay, theo nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 của chính phủ, chế độ BHXH áp
dụng hầu hết các đối tượng hưởng lương trong các doanh nghiệp, cơ quan, đoàn thể.
10
CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận

: 6.280.688
Theo điều149 bộ luật lao động. Quỹ BHXH dùng để chi trả trợ cấp BHXH và các

chi phí khác phục vụ cho quản lý và phát triển sự nghiệp BHXH. Quỹ BHXH được
quản lý thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước hoạch toán độc lập và được
nhà nước bảo hộ.
Quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn sau :
 Người sử dụng lao động đóng 15% so với tổng quỹ lương.
 Người lao động đóng góp bằng 5% so với tổng quỹ lương.
 Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối
với người lao động.
 Và từ các nguồn khác.
Khi tính mức trích BHXH, các doanh nghiệp phải nộp toàn bộ cho cơ quan
BHXH nếu doanh nghiệp có nhu cầu chi tiêu thì lập kế hoạch xin cấp trở lại.
2.3.2 Bảo hiểm y tế
Bảo hiểm y tế (BHYT) thực chầt là sự bảo trợ về y tế cho người tham gia bảo
hiểm, giúp họ một phần nào đó trang trải tiền khám chữa bệnh, tiền viện, tiền thuốc
thang.... Mục đích của BHYT là tập hợp một mạng lưới bảo vệ sức khỏe cho cộng
đồng, không phân biệt địa vị xã hội, mức thu nhập cao hay thấp.
Về đối tượng BHYT áp dụng cho người tham gia đóng BHYT thông qua việc
mua thẻ BHYT trong đó chủ yếu là người lao động.
Quỹ BHYT được hình thành bằng cách trích 3% so với tổng quỹ lương trong đó
doanh nghiệp chịu 2% được hoạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ,
người lao động chịu 1% được trừ vào lương. Toàn bộ quỹ này doanh nghiệp phải
nộp cho cơ quan sở y tế, cơ quan BHYT thống nhất quản lý và cấp cho người lao
động thông qua mạng lưới y tế.
2.3.3 Kinh phí công đoàn
Kinh phí công đoàn (KPCĐ) là quỹ tài trợ cho hoạt động công đoàn ở các cấp
theo chế độ hiện hành. Nguồn kinh phí này được trích theo tỷ lệ 2% so với tổng quỹ
lương phải trả cho người lao động và người sử dụng lao động có trách nhiệm phải
trả được hoạch toán vào chi phí sản xuất kinh doanh. Khi trích mức KPCĐ trong kỳ
thì một nửa (1%) doanh nghiệp phải nộp cho công đoàn cấp trên và một nửa được
giữ lại sử dụng chi tiêu cho hoạt động công đoàn tại cơ sở.

11
CH số 11 - B1 - ĐH KTQD Chuyên Photocopy - Đánh máy - In Luận văn, Tiểu luận

: 6.280.688
2.4
TỔ CHỨC KẾ TOÁN TIỀN LƯƠNG VÀ CÁC KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG
2.4.1 Tổ chức kế toán tiền lương trong doanh nghiệp.
Nhiệm vụ của kế toán lao động tiền lương trong doanh nghiệp là ghi chép phản
ánh số lượng - thời gian - kết quả lao động, tính lương và các khoản trích theo
lương, phân bố chi phí nhân công đúng đối tượng sử dụng lao động.
 Kế toán chi tiết tiền lương.
 Kế toán số lượng lao động.
Kế toán số lượng lao động theo dõi kịp thời chính xác tình hình biến động
tăng giảm số lượng lao động theo từng loại lao động trên cơ sở đó làm căn cứ cho
việc tính lương phải trả và các chế độ khác cho người lao động kịp thời chính xác.
 Kế toán thời gian lao động.
Kế toán thời gian lao động là việc ghi chép kịp thời, chính xác thời gian lao
động của từng người trên cơ sở đó tính tiền lương phải trả một cách chính xác cho
người lao động. Phản ánh số ngày công, số giờ làm việc thực tế hoặc ngừng sản
xuất, nghỉ việc, ốm đau của từng người lao động ở từng bộ phận sản xuất và từng
phòng ban trong doanh nghiệp.
 Kế toán kết quả lao động
Kế toán tiền lương sẽ ghi chép kịp thời, chính xác số lượng lao động, chất
lượng sản phẩm hoàn thành hay doanh số thực hiện của từng công nhân hoặc tập
thể để từ đó tính lương, tính thưởng và kiểm tra độ phù hợp của tiền lương phải trả
với kết quả lao động thực tế .
Tùy thuộc vào loại hình và đặc điểm sản xuất của từng doanh nghiệp mà mỗi
doanh nghiệp sẽ tự lập hay lựa chọn sử dụng những chứng từ khác nhau để hoạch
toán kết quả lao động. Phòng kế toán sẽ có nhiệm vụ tập hợp kết quả của toàn
doanh nghiệp. Các chứng từ đó có thể là “Giấy đi đường”, “Bảng chấm công trả

lương khoán”, “Bảng chấm công“.
Dựa trên các chứng từ đã lập về số lượng lao động, thời gian lao động và kết
quả lao động, kê toán lập“Bảng thanh toán tiền lương“ cho từng công nhân, “Bảng
thanh toán lương“ là căn cứ để thanh toán lương cho từng người lao động.
 Kế toán tổng hợp tiền lương.
Để phản ánh tình hình thanh toán tiền lương và các khoản khác của người lao
động, kế toán sử dụng tài khoản: TK334 (Phải trả công nhân viên). Tài khoản này
phản ánh các khoản thanh toán với công nhân viên của doanh nghiệp về tiền lương,
12

×