Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

RỐI LOẠN LO ÂU (Kỳ 2) ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.63 KB, 7 trang )

RỐI LOẠN LO ÂU
(Kỳ 2)
4. Trạng thái lo âu thường xuyên:
Khi lo âu trở nên một tình trạng mãn tính.
a) Rối loạn tâm thần:
- Ít hơn so với cơn lo âu, nhưng các cảm giác giống nhau: Chờ đợi nguy
hiểm, tri giác âm tính các sự kiện và tương lai, cảm giác lo lắng nhẹ, lúng túng:
"Nghĩ gì, làm gì, tin gì, tôi đã lãng phí cuộc đời tôi, tôi đã không thành công một
cái gi cả, tôi không có khả năng, không cần thiết, kiệt sức, thất vọng". Chủ đề lo
âu là chủ đề về sự hèn kém, thiếu may mắn, yếu ớt, sợ, quay lại hoàn cảnh phụ
thuộc thời bé, sự thoái lùi về những xúc động đầu tiên trước thế giới bên ngoài.
Cái tôi, không đáp ứng được các kích thích của ngoại cảnh, được giải toả bởi hành
vi kêu gọi sự giúp đỡ, tin tưởng và công kích, phụ thuộc và kích thích theo kiểu
phản ứng trẻ con.
b) Rối loạn cơ thể:
- Rối loạn giấc ngủ: Khó ngủ, giấc ngủ không sâu (thường hay dậy, ác
mộng), thức dậy 3 giờ sáng, là giờ của cực điểm lo âu buổi sáng, là một trong các
triệu chứng thường gặp nhất. Hiếm hơn là ngủ nhiều, 12 giờ hoặc hơn mà không
tạo ra sự nghỉ ngơi và yên tĩnh tốt. Vai trò của giấc ngủ đối với lo âu đã được biết
đến từ lâu. Nó giúp cho khả năng đáp ứng với những kích thích của trạng thái
thức.
- Sự kích thích: tăng cảm xúc. Tác nhân kích thích chỉ gây cho người bình
thường một biểu hiện cảm xúc thích hợp như cười, khóc, run, đỏ mặt, nắm chặt
tay. Ở người lo âu, nó trở thành kích thích, rối loạn vận mạch, co thắt nội tạng, tức
giận bệnh lý, thay đổi khí sắc. Các phản ứng quá mạnh trong mọi trường hợp. Hậu
quả của các rối loạn này là mệt và kiệt sức với hai cực buổi sáng và buổi chiều.
- Các rối loạn chức năng: Rất thường gặp: rối loạn gan, tiêu hoá, viêm đại
tràng, rối loạn nước tiểu, co thắt, loạn cảm giác bản thể, các rối loạn tình dục như
ham muốn tình dục giảm hoặc mất.
c) Khám lâm sàng và cận lâm sàng:
- Tăng tương lực cơ và tăng phản xạ: Cơ co lại, khó giãn cơ, run nhẹ,


nhanh, đa dạng. Các phản xạ gân, da, xương - quanh xương tăng.
- Tim mạch: Thường ít, BN thường có đánh trống ngực và ngoại tâm thu.
Ngay cả khi điện tâm đồ bình thường cũng thường thấy mạch nhanh, nhỏ, huyết áp
thấp, chỉ số dao động mạch nhẹ. Rối loạn mao mạch đa dạng, có thể có rối loạn
tuần hoàn trung tâm (khuynh hướng giảm mỡ máu) hoặc ngoại biên (xanh tím đầu
chi, bệnh Raynaud).
- Hô hấp: Giảm khả năng hô hấp, hô hấp nhanh và nông ảnh hưởng đến sự
đồng hoá tế bào.
- Chức năng thực vật và nội tiết: Thường rối loạn nhẹ, đôi khi nặng nề, luôn
thay đổi theo thời gian, có thể hồi phục, liên hợp với trạng thái tâm lý tạo nên các
rối loạn này.
- EEG: nhịp anpha không điều hoà, biên độ thấp và nhanh.
5. Lo âu thể tạng:
Tâm căn lo âu dưới dạng cơn ít nhiều mạnh xảy ra ở một nhân cách bị rối
loạn. Lo âu mãn như là một bệnh tâm căn tạo nên một thể tạng lo âu. Nhìn từ bên
ngoài, ngay từ thời trẻ em đã có xu hướng lo lắng, thu mình lại và liên tục yêu cầu
được bảo vệ. Mẹ, chị, giáo viên, bạn bè trở nên chỗ dựa cần thiết cho sự an toàn.
Cuộc sống hôn nhân, tình bạn, nghề nghiệp luôn có nhu cầu đảm bảo về tình cảm.
Trái lại, thất bại, tang tóc, bệnh tật, mãn kinh, nghỉ hưu, tuổi già là những thử
thách và tạo nên cơn lo âu. Toàn bộ cuộc sống được đặt trong lo âu. Nhìn từ bên
trong, trong thời gian trị liệu tâm lý, người ta thấy rõ những nhân cách này không
thể đáp ứng tốt trước sang chấn tâm lý (thất bại, tuyệt vọng, tang tóc ). Có thể nói
rằng lo âu luôn
chờ đợi họ và phụ thêm vào cảnh khốn quẫn thường xuyên. Các sự kiện chỉ
có ý nghĩa đối với cách phản ứng riêng của từng nhân cách. Chẳng hạn các sự kiện
lớn như chiến tranh lại ít gây rối loạn hơn các sự kiện nhỏ như chuyển nhà
Tuỳ theo sắc thái của lo âu, người ta gọi là suy nhược thần kinh, trầm
cảm thể tạng, lo âu nhẹ, rối loạn cảm giác bản thể.
III. TIẾN TRIỂN - BIẾN CHỨNG
Cơn lo âu nhắc lại hoặc kéo dài khi mà tình huống không được cải thiện,

điều trị không đúng và nhất là những đòi hỏi cảm xúc sâu sắc không thể cưỡng lại
được. Nếu không giải quyết kịp thời với sự giúp đỡ của trị liệu tâm lý, cấu trúc
tâm căn sẽ ổn định hơn và tiến triển thành tâm căn (ám ảnh sợ, Hysteria, ám ảnh).
- Điều đó có thể là một tâm căn ám ảnh sợ trong đó chủ thể chuyển lo âu
vào đối tượng (sợ chỗ rộng, chỗ kín).
- Có thể là triệu chứng nghi bệnh: Chủ thể giải toả lo âu bằng việc qui cho
một hoặc nhiều cơ quan, có khi mơ hồ, có khi là một bệnh nặng như ung thư
- Biến chứng thường gặp nhất là những rối loạn tâm thể: Lo âu trở nên loét,
hen, lo âu lan toả
- Đôi khi có thể tạo ra cơn trầm cảm, đôi khi là sầu uất. Trên lâm sàng có
thể đi kèm loạn khí sắc chu kỳ với trạng thái lo âu mạnh.
IV. TIÊN LƯỢNG
Dựa vào:
- Nhân cách: Mạnh, hài hoà giúp vượt qua được lo âu, ít có những triệu
chứng tâm căn quan trọng.
- Hoàn cảnh môi trường: Gia đình và xã hội khó khăn, bệnh nhân đang đi
vào ngõ cụt làm cho bệnh nặng hơn.
- Cách điều trị: Phương pháp điều trị không thích hợp có thể làm bệnh nặng
và kéo dài hơn.
V. ĐIỀU TRỊ
Luôn cần phối hợp giữa trị liệu tâm lý và liệu pháp hoá dược.
1. Trị liệu tâm lý:
- Cần nghiên cứu hoàn cảnh gây lo âu, chẩn đoán giá trị gây bệnh của các
yếu tố gây nên lo âu.
- Có sự khác nhau giữa điều trị lo âu "phản ứng" và lo âu mãn tính.
- Cần hiểu rõ tâm lý của BN.
- Dùng liệu pháp tâm lý thích hợp.
2. Điều trị an dịu:
- Thuốc an dịu hỗ trợ cho trị liệu tâm lý.
- Thuốc bình thản được ưu tiên sử dụng, cần tính đến loại thuốc, liều tuỳ

theo từng trường hợp. Một số thuốc an thần kinh (đặc biệt là Levomepromazin) có
thể có hoạt tính an dịu mạnh. Nếu có trầm cảm có thể dùng liều nhỏ thuốc chống
trầm cảm (đặc biệt là Amitriptyline).
- Cần cho bệnh nhân lo âu nặng nhập viện, liệu pháp gây ngủ ngắn (3-5
ngày) có thể được áp dụng. Điều này có tác dụng cả về thể chất lẫn tâm lý.
- Điều trị thư giãn mang lại hiệu quả tốt.
- Cần lưu ý là thuốc an thần kinh hoặc gây ngủ đôi khi không có tác dụng
mà lại làm tăng lo âu. Hậu quả của việc dùng các thuốc này là làm cho bệnh nhân
bị trầm cảm hay ức chế. Biến chứng do thuốc này nói chung không nặng, có thể
sửa đổi bằng việc sử dụng thuốc chống trầm cảm liều thấp. Nếu trầm cảm rõ, đôi
khi cũng cần tăng liều. Ở loại trầm cảm nặng có thể phải sốc điện.


×