54
Chương 3
TÀI NGUYÊN NƯỚC HỒ VÀ HỒ CHỨA
3.1 Tài nguyên nước hồ
Hồ là những phần trũng của địa hình có nước tĩnh thường xuyên. Trên thế giới có khoảng
2,8 triệu hồ tự nhiên, trong đó có 145 hồ có diện tích mặt nước trên 100km
2
, chứa 95% tổng
lượng nước các hồ. Hồ hiện chứa 0,313% thể tích nước ngọt lục địa, gấp khoảng 6 lần lượng
nước có trong các hệ thống sông. Riêng Bai Can, hồ sâu nhất thế giới, đã chứa 23.000km
3
nước, bằng gần 1/4 tổng lượng nước các hồ và bằng 1/10 lượng nước ngọt toàn cầu. Không
phải tất cả các hồ trên thế giới đều chứa nước ngọt. Biển hồ Caxpiên là một hồ nước mặn, hồ
Chết là hồ chứa loại nước mặn nhất thế giới.
Đặc trưng hình thái quan trọng nhất của hồ là diện tích mặt nước và dung tích hồ. Chúng
biến đổi theo sự thay đổi độ cao mặt nước hồ (hoặc độ sâu). Đối với những hồ có bờ đáy ổn
định, quan hệ giữa diện tích mặt nước và dung tích hồ với độ sâu tương đối ổn định và được
biểu diễn dưới dạng bảng hoặc đồ thị. Diện tích mặt hồ càng lớn, khả năng trao đổi chất và
năng lượng với khí quyển càng lớn, trong đó đáng lưu ý là những quá trình như bốc hơi, xâm
nhập ôxy từ khí quyển, đốt nóng, sóng Chiều dài đà gió càng lớn thì sóng do gió càng cao,
tạo ra sự xáo trộn sâu hơn trong tầng mặt và tạo nước dồn sinh dòng chảy do gió. Tỷ lệ dung
tích trên độ sâu hồ càng lớn thì chế độ nước trong hồ càng ổn định, đồng thời sự phân bố các
đặc trưng thuỷ lý, thuỷ hoá, thuỷ sinh và chế độ động lực càng kém đồng nhất.
Bảng 3.1.
Các hồ lớn trên thế giới
Hồ
Diện tích
(km
2
)
Độ sâu lớn
nhất (m)
Hồ
Diện tích
(km
2
)
Độ sâu lớn
nhất (m)
Caxpiên
Thượng
Victoria
Aran
Hurôn
371.795
82.362
69.485
65.527
59.570
995
406
81
68
229
Misigân
Tanganyika
Gấu lớn
Baican
Nyatxa
58.016
32.893
31.792
30.510
29.604
282
1.417
413
1.620
678
Mực nước hồ là hàm của các yếu tố sau:
Đặc điểm chu kì nước nhiều năm.
Tương quan giữa lượng nước đến và nước đi.
Đặc điểm mặt nước hồ.
Chế độ động lực trong hồ.
Hoạt động kiến tạo, địa chấn.
Dao động mực nước hồ chia thành ba loại:
Dao động tuyệt đối, có tính quy luật, là dao động có liên quan tới sự thay đổi trữ lượng
nước hồ do các tác nhân khí hậu, biên độ dao động lớn.
Dao động thế kỷ, liên quan tới hoạt động nâng lên hạ xuống của bề mặt Trái Đất, diễn ra
chậm.
55
Dao động tương đối, bất thường, diễn biến nhanh, như sóng, nước dồn. Loại dao động
thứ ba này có đặc điểm quan trọng là có thể mang tính khu vực, làm cho mặt nước hồ không
bằng phẳng và không nằm ngang.
Dòng chảy trong hồ có vai trò làm tăng xáo trộn trong khối nước, do đó nó là một nhân tố
tích cực cho quá trình tự làm sạch và đồng nhất các đặc trưng thuỷ lý, thuỷ hoá theo không
gian. Chế độ dòng chảy thường xuyên trong hồ có nhiều điểm phân biệt với chế độ dòng chảy
trong sông như:
Vận tốc không lớn.
Dòng chảy thường khó phân bố trên toàn mặt cắt ngang
Hướng dòng chảy phân tán, phụ thuộc phức tạp vào vị trí điểm nước vào ra hồ, lưu lượng
nước, hình dạng hồ, gió, nhiệt độ Đo đạc đầy đủ trên một số hồ lớn cho thấy hướng dòng
chảy trong hồ phân hoá theo diện và độ sâu rất phức tạp.
Điều kiện hình thành dòng phân tầng trong hồ là:
Tỷ trọng của nước gia nhập so với nước hồ khác nhau đáng kể.
Hồ tiếp nhận nước có độ sâu lớn, độ dốc thuận, đáy và chiều rộng không có những thay
đổi đột biến.
Khi có các điều kiện trên, dòng nước nhập vào sẽ có khả năng chuyển động thành tầng
riêng, không hoà nhập, hoặc hoà nhập từ từ vào khối nước hồ. Các dòng phân tầng trên mặt
có khả năng hoà trộn nhanh hơn do xáo trộn. Dòng phân tầng đáy vừa khó hòa nhập do xáo
trộn kém, vừa tăng nguy cơ gây ô nhiễm đáy hồ. Dòng chảy không thường xuyên trong hồ
bao gồm dòng trôi dạt do gió, dòng do chênh lệch áp suất không khí, dòng đối lưu nhiệt và
dòng mật độ.
Đối lưu nhiệt trong miền biến đổi nhiệt độ >4
o
C chỉ diễn ra trên tầng mặt khi nhiệt độ
giảm do mất nhiệt từ trên mặt và trong miền biến đổi nhiệt độ <4
o
C chỉ xảy ra khi nhiệt độ
tăng từ trên mặt do được cấp nhiệt.
Trong các hồ nước sâu, dòng chảy nhỏ, có thể diễn ra hiện tượng phân tầng nhiệt như
sau:
Tầng sâu, Hypolimnion, nhiệt độ gần 4
o
C ổn định theo độ sâu và theo thời gian ngày,
mùa do xáo trộn kém.
Tầng mặt, Epilimnion (5 - 20m), nhiệt độ hầu như đồng đều theo độ sâu, do xáo trộn tốt
bằng dòng do gió, đối lưu , biến động nhiệt theo thời gian phụ thuộc vào điều kiện khí hậu.
Tầng giữa, Metalimnion, còn gọi là tầng nêm nhiệt, dày khoảng (2 - 7m), có nhiệt độ
trung gian giữa hai tầng trên, do xáo trộn kém, với gradien nhiệt theo độ sâu là lớn nhất trong
toàn khối nước.
Khi nhiệt độ nước lớn hơn 4
o
C, phân tầng được gọi là thuận nhiệt, còn khi nhiệt độ nhỏ hơn
4
o
C, phân tầng được gọi là nghịch nhiệt. Phân tầng nhiệt là yếu tố cản trở sự phát tán vật chất
trong khối nước và đồng nhất hoá các giá trị đặc trưng thuỷ lý, thuỷ hoá, dẫn đến cản trở quá trình
tự làm sạch của nước.
Một hệ sinh thái hồ hoàn chỉnh có đủ các thành phần sinh vật tự dưỡng, dị dưỡng và sinh
vật phân huỷ thích nghi với trạng thái nước tương đối tĩnh. Vùng bờ thoải là nơi sống lý tưởng
của các vành đai thực vật thuỷ sinh thích nghi với các độ sâu khác nhau. Tầng mặt có ánh
sáng là nơi sinh sống của nhiều loại thực vật phù du, tạo môi trường thuận lợi cho động vật
56
phát triển. Hệ động vật có mặt các loài ăn thực vật, động vật tầng mặt, tầng đáy, do đó đa
dạng sinh học và năng suất sinh học đều cao.
Vùng bờ hồ có thực vật phát triển có xu thế nông dần, bờ tiến vào vùng nước sâu rất
nhanh, độ sâu khối nước và dung tích hồ giảm nhanh chóng, thậm chí tới mức biến hồ thành
đầm lầy. Trầm tích hồ có thể trở thành nguồn gây ô nhiễm khối nước nếu xuất hiện những cơ
chế cho phép cuốn chúng trở lại khối nước, như đối lưu, xáo trộn Khả năng này tăng theo sự
giảm độ sâu hồ.
Cán cân nước hồ có đặc điểm là tỷ trọng dòng đến, dòng đi so với lượng nước trong hồ
không lớn. Tiêu hao nước trong các hồ không có dòng chảy đi liên quan chủ yếu với ngấm,
bốc hơi và các hoạt động nhân sinh. Khi bốc hơi là nguyên nhân chủ đạo gây tiêu hao nước
hồ, thì sẽ xảy ra quá trình tích luỹ muối khoáng gây mặn hoá hồ và suy thoái hệ sinh thái hồ.
Thành phần hoá học nước hồ phụ thuộc vào các yếu tố chính sau:
Đặc điểm dòng đến và đi.
Mức độ xáo trộn nước trong hồ.
Đặc điểm các quá trình cơ lí, hoá sinh trong hồ.
Dòng chất lơ lửng gia nhập vào hồ sẽ dễ dàng lắng đọng tạo trầm tích làm nông đáy hồ,
do tốc độ dòng chảy trong hồ nhỏ hơn rất nhiều so với trong sông. Dòng chất tan, nếu có hàm
lượng cao hơn trong nước hồ thì sẽ phân tán vào nước hồ, làm tăng độ khoáng hoá nước hồ
ngay cả khi dòng chảy ra bằng dòng chảy vào. Bốc hơi không đem theo các chất khoáng, do
vậy tương quan giữa lượng bốc hơi và lượng dòng vào càng lớn, độ khoáng hoá của hồ tăng
càng nhanh. Chính vì vậy nước các hồ nằm trong vùng khô hạn thường có độ khoáng hoá cao.
Mức độ xáo trộn nước hồ càng cao thì khả năng tự làm sạch của nước càng lớn và phân bố vật
chất càng đồng đều, còn khi nước hồ càng tĩnh thì quá trình lắng đọng diễn ra càng thuận lợi.
Chế độ nước hồ càng tĩnh, khả năng lắng đọng trầm tích trong hồ càng lớn. Các hồ sâu,
bờ đá và nghèo dinh dưỡng, Oligotrophic, sinh vật kém phát triển, trầm tích đáy chủ yếu là
chất khoáng (chiếm đến 85 - 95% trọng lượng khô). Trong các hồ nông, bờ đất và giàu dinh
dưỡng, sinh vật phát triển tốt, trầm tích đáy có thành phần hữu cơ cao (chiếm đến 50-80%
trọng lượng khô). Trong trầm tích một số hồ đặc biệt có thể có tích luỹ những loại chất có giá
trị đạt tới mức độ khai thác, trong đó thường gặp nhất là than bùn, sắt, mangan.
Hồ thuộc loại đất ngập nước biệt lập có vai trò tự nhiên và nhân văn hết sức quan trọng.
Hồ cung cấp nước trực tiếp cho nhu cầu của người và sinh vật, cung cấp không gian sống cho
thuỷ sinh, điều tiết dòng chảy mặt, lưu thông với các thuỷ vực mặt và ngầm, điều hoà khí hậu.
Trong những vùng kém ẩm, khả năng sinh thuỷ không đủ hình thành mạng lưới sông ngòi, thì
sự tồn tại của các hồ có vai trò quan trọng đối với toàn bộ hệ sinh thái khu vực nói chung và
sự sống của con người nói riêng. Chúng tạo ra các ốc đảo nước ngọt có ý nghĩa sống còn đối
với động vật hoang dã và hệ thuỷ sinh địa phương, là nơi nghỉ chân của nhiều loài chim di cư,
góp phần tạo ra và duy trì đa dạng sinh học.
Các hồ lớn ít lưu thông và có độ sâu lớn thường có hệ sinh thái đặc thù, với nhiều loài
đặc hữu có giá trị rất cao cả về kinh tế và đa dạng sinh học. Hồ Bai Can sâu nhất thế giới
(1.620m). Hồ nước mặn Caxpiên rộng nhất thế giới, 371.000km
2
. Biển Chết ở bán đảo A Rập
có độ muối 20%, cao gấp 7 lần nước biển thông thường, là sản phẩm của quá trình bốc hơi
liên tục, biển hầu như không có sự sống. Hồ Niuoacơ trên đảo Ki Tin, Bắc cực có 5 tầng nước
do thành phần nước phân hoá, có nguồn gốc khác nhau, mặt hồ đóng băng gần như quanh
năm nên ít xáo trộn. Trên cùng là nước ngọt với hệ sinh thái nước ngọt rất đa dạng; Tầng thứ
57
hai có chứa nhiều muối vi lượng, cư dân chủ yếu có các loài động vật tiết túc, giáp xác như
tôm, cua ; Tầng thứ ba nước lợ, có các loài hải quỳ, sao biển, cá biển; Tầng thứ tư màu hồng,
có nhiều tảo và vi khuẩn hấp thụ sunfuarơ; Tầng thứ năm ở đáy, có nhiều bùn thối đen và vi
khuẩn yếm khí.
Tuy nhiên hồ cũng là một hệ thống tự nhiên nhạy cảm. Những tác động tự nhiên vào cán
cân nước hồ như làm tăng giảm thành phần dòng đến hoặc đi của hồ, làm thay đổi cân bằng
nước hồ và cân bằng dòng vật chất trong hồ đều có thể gây nên những hệ quả rất xấu, như suy
thoái, ô nhiễm hồ, khủng hoảng hệ sinh thái hồ, cạn kiệt và biến mất hồ Nhiều loài đặc hữu
trong các hồ có giá trị rất cao về mặt kinh tế hoặc sinh thái, có vai trò quan trọng tạo ra những
giá trị cảnh quan sinh thái và du lịch trong hồ có thể bị tuyẹet diệt do bị khai thác quá mức
hoặc do chất lượng nước hồ suy giảm.
Bảng 3.1.
Khủng hoảng biển Aran
Aran từng là biển hồ lớn thứ 4 trên lục địa, diện tích 66.000km
2
, chứa 1.064km
3
nước, dòng chảy hàng năm
từ sông Amuaria và Sư Đaria gia nhập vào hồ là 56 km
3
, nhưng hồ cũng tiêu hao 60km
3
/năm vào bốc hơi, do
đó cán cân nước hồ tự nhiên đã luôn bị thiếu hụt. Năm 1975, trên lưu vực hai con sông đổ vào hồ, người ta đã
mở rộng sản xuất, làm cho diện tích bông cần tưới tăng trên 10 triệu ha, lượng nước tưới được khai thác trực tiếp
từ hai sông đổ vào hồ. Hệ quả là lượng nước nhập vào hồ giảm xuống, chỉ còn 7 - 11km
3
/năm. Do thiếu hụt
nghiêm trọng cán cân nước đến so với bốc hơi, hồ Aran thu hẹp dần kích thước.
Đến nay diện tích hồ chỉ còn 36 km
2
, chia thành hai hồ nhỏ, dung tích giảm 69%, độ muối tăng 3 lần, đạt
24%.
Phần lòng hồ nông nhiều trầm tích bở rời và muối mặn bị khô cạn, phơi ra trước nắng gió, là nguồn cung cấp
từ 40 nghìn đến hàng triệu tấn bụi muối/năm, gây ô nhiễm nặng các vùng xung quanh.
Sử dụng hoá chất trong nông nghiệp gây ô nhiễm nước. Hệ quả là đã gây ra bệnh tật cho gia súc, người và động
vật hoang dại, năng suất cây trồng giảm tới 40%. Các loài hoang dã giảm từ 178 xuống còn 38, các loài đặc hữu
biến mất. Quá trình hoang mạc hoá, mặn hoá, ô nhiễm nước vẫn đang tiếp diễn.
3.2 Tài nguyên nước hồ chứa
3.2.1 Tổng quan
Hồ chứa, còn gọi là kho nước nhân tạo, hồ chứa nhân tạo, là những thuỷ vực chứa nước
tương đối lớn, hình thành một cách nhân tạo hoặc bán nhân tạo, có chế độ nước bị điều tiết
nhân tạo. Các hồ chứa lớn trên thế giới đều được xây dựng theo phương thức đắp đập ngăn
sông. Những con đập đầu tiên đã được xây dựng từ khoảng 5.000 năm trước trên sông Ti-gri
và Ơ-phra-tơ ở Me-zo-po-ta-mia, trên sông Nin ở Hi Lạp và trên sông In-du ở Pakistan. Tất cả
các đập xa xưa được xây dựng chủ yếu để phục vụ cấp nước tưới cho nông nghiệp và kiểm
soát lũ. Mục tiêu xây đập thủy điện được thực hiện từ 1890. Đập lớn được định nghĩa là loại
đập có chiều cao >15m hoặc cao từ 5 – 15m nhưng có dung tích >3 tỷ m
3
. Những năm giữa
của thế kỷ 20 có 5.000 đập lớn đã được xây dựng. Tốc độ xây dựng đập tăng nhanh và đến
cuối thế kỷ trước đã có 45.000 đập lớn đang hoạt động. Thêm vào đó, toàn thế giới còn có
khoảng 800.000 đập khác không thuộc loại lớn. Tổng chi phí của việc xây dựng đập trong thế
kỷ 20 ước tính khoảng 2.000 tỷ USD.
Trong gần suốt thế kỷ trước, đập lớn được xem là biểu tượng của khả năng chế ngự tự
nhiên và phát triển công nghiệp cũng như quyền lực chính trị, kinh tế xã hội và điện lực. Đối
với nhiều chính phủ, việc xây dựng các đập lớn có ý nghĩa thể hiện sức mạnh của đất nước.
Kết quả là hơn một nửa các con sông chính trên thế giới đã bị ảnh hưởng của đập và gần 40
triệu người dân đã phải di dời. Trung Quốc là nước có nhiều đập lớn nhất, với khoảng hơn
20.000 đập (trên tổng số >90.000 đập), Mỹ có khoảng 6.400, Ấn Độ 4.000, Nhật và Tây Ban
Nha có >1.000 đập. Năm 1992, Trung Quốc đã tiến hành công trình trên sông Dương Tử trị
giá 30 tỷ đô la, với đập nước cao 185m, có chức năng cấp nước, điều tiết lũ, cung cấp điện
58
(12% nhu cầu toàn quốc). Công trình làm 1,3 triệu người phải di dời và ngập 41.000ha đất
nông nghiệp.
Những hồ chứa có dung tích >1 triệu m
3
hoặc dung tích <1 triệu m
3
nhưng có vai trò đặc
biệt quan trọng trong khu vực, như là nguồn cấp nước cho một đô thị lớn, được gọi là kho
nước lớn. Trên thế giới đã xây dựng hơn 10.000 hồ chứa, trong đó >30 hồ dung tích >10km
3
,
150 hồ dung tích >5km
3
, chiếm 80% tổng dung tích các hồ chứa. Tổng dung tích hữu ích của
hồ chứa nhân tạo ước khoảng 5.000 km
3
, diện tích mặt nước >600.000 km
2
. Từ 1960 việc xây
dựng kho nước trên thế giới phát triển mạnh. Trong khoảng 30 năm số kho nước tăng gấp đôi
và dung tích chứa tăng còn nhiều hơn. Trên 60% dung tích kho nước hiện phân bố tại các
nước đang phát triển.
Kho nước được xây dựng phục vụ nhiều mục đích kinh tế xã hội và kỹ thuật như sau:
Sản xuất điện cho tiêu thụ trong nước và xuất khẩu
Trữ và cấp nước tưới cho các vùng đất nông nghiệp để nâng cao năng suất sản lượng cây
trồng, đảm bảo an ninh lương thực
Điều tiết chế độ dòng chảy, cắt lũ và tăng dòng chảy kiệt, cải thiện hệ sinh thái.
Ngoài ra việc xây dựng đập và hồ chứa còn tạo thêm những lợi ích xã hội khác như: phát
triển điện khí hóa nông thôn, tạo việc làm trong quá trình xây dựng đập nói riêng và tăng
cường phát triển nói chung, phát triển ngư nghiệp và du lịch Các lợi ích trên đã góp phần
quan trọng cho sự phát triển con người ở nhiều nước. Nhưng cũng đã có những ví dụ về
những đập không đáp ứng được sự mong đợi về mặt tài chính, kỹ thuật và kinh tế như dự
kiến, đặc biệt là khi so sánh với các giải pháp thay thế khác có thể thực hiện được. Đồng thời
những tác động bất lợi của việc xây dựng đập về mặt môi trường, sinh thái và xã hội vượt xa
dự kiến ban đầu, dẫn đến gia tăng mức phản đối của cộng đồng đối với việc xây đập. Do đó
xu thế phát triển nhanh các đập và kho nước lớn đã chững lại tại các quốc gia phát triển. Hơn
thế nữa một số đập đã xây dựng cũng bị hủy bỏ. Mỹ đã loại bỏ >500 đập nhỏ trong những
năm gần đây.
Bảng 3.2.
Một số kho nước lớn trên thế giới
Stt Tên hồ/sông (châu lục hoặc quốc gia)
Dung tích
km
3
Diện tích
km
2
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
Oden- Fols - Victoria /s. Nin (Phi)
Bratxk /s. Angara (CHLB Nga)
Cariba/s. Zamberi (Dămbia & Rođedia Nam)
Naser /s. Nin (Xuđăng & Ai Cập)
Volta /s. Volta (Ga Na)
Daniel – Djonson / s. Manikugan (Canađa)
En Ninho – Mateco /s.Karoni (Vênêzuêla)
Krasnoar /s. Enixây (CHLB Nga)
Vadi – Tactar /s. Tigre (Irăc)
Xamưnxa /s. Hoàng Hà (Trung Quốc)
Quibưsep /s. Vonga (CHLB Nga)
O – Mid /s. Kolorađô (Mỹ)
205
169
160
157
148
142
111
73
67
65
58
37
76.000
5.470
4.450
5.120
8.480
1.940
-
2.000
2.000
3.500
6.448
631
3.2.2 Các đặc trưng hình thái kho nước dạng đập
Mực nước chết (mực nước thấp nhất thiết kế): Giới hạn trên của dung tích chết (Phần
dung tích để chứa bồi lắng trong suốt tuổi thọ công trình, đảm bảo vệ sinh môi trường và hệ
sinh thái vùng thượng lưu và đảm bảo đầu nước tối thiểu cho phát điện hiệu quả).
59
Mực nước dâng bình thường: Mực nước cao nhất mà kho có thể duy trì trong một thời
gian lâu dài, ngang với cao trình đỉnh đập tràn tự do; là giới hạn trên của dung tích kho nước
và dung tích hiệu dụng (Phần nằm trên dung tích chết, có vai trò đáp ứng các nhiệm vụ thiết
kế của công trình).
Mực nước siêu cao: Giới hạn trên của dung tích siêu cao (Phần nằm trên dung tích hiệu
dụng, có thể chứa nước trong những thời đoạn ngắn đột xuất, bất thường).
Dung tích phòng lũ: Dung tích nằm giữa mức nước siêu cao và cao trình cửa xả lũ.
3.2.3 Những vấn đề đặc biệt của kho nước nhân tạo
Hơn một nửa số đập thuỷ điện trên toàn thế giới đã được quy hoạch và xây dựng bỏ qua
việc đánh giá tác động môi trường một cách đầy đủ. Do đó, nhiều vấn đề môi trường đã xảy
ra trong vùng thượng và hạ lưu đập, cả trên lưu vực và trong thuỷ vực, tác động xấu đến hệ
sinh thái, điều kiện tự nhiên và con người.
Tương tác nước - bờ vùng trên đập gây xói lở
Do mực nước của các kho nước dâng rất cao so với tự nhiên nên vùng bờ cũ bị chìm sâu
dưới nước và vùng đất vốn trước đây nằm rất cao trên mặt nước biến thành vùng bờ. Vùng bờ
mới, bao gồm cả phần ngập nước thường xuyên và dải bán ngập, trước đây là sản phẩm của
các quá trình tự nhiên trên sườn dốc nên có độ dốc, cấu trúc đặc điểm bề mặt hoàn toàn không
phù hợp với một vùng bờ thường xuyên chịu tác động của sóng và dòng chảy. Hệ quả tất yếu
là sẽ diễn ra một quá trình tương tác mạnh giữa khối nước với vùng bờ, theo xu thế chính là
tăng xói mòn vùng gần mép nước, tăng chuyển tải vật chất vào vùng nước sâu và bồi lắng.
Chế độ mực nước bị điều tiết nhân tạo có biên độ mực nước năm rất lớn, tạo ra một dải bờ
rộng trên sườn dốc, luân phiên bị ngập hoặc phơi trống trong một khoảng thời gian tuỳ theo
chế độ điều tiết hồ. Tương tác nước bờ cũng dịch chuyển liên tục theo sự thay đổi mực nước.
Nhìn chung các quá trình trên diễn ra mạnh mẽ nhất trong những năm đầu hoạt động của
kho nước và sẽ ổn định dần vào các năm sau. Tuy nhiên vấn đề có thể còn phụ thuộc vào việc
quản lý vùng bán ngập. Trên dải bán ngập hồ Hoà Bình, những cư dân không chấp nhận di
dời vẫn tiếp tục canh tác, làm tăng khả năng xói mòn cấp phù sa từ sườn dốc.
Dao động mực nước gây trượt lở
Dao động mực nước trên sông chính làm thay đổi mốc xâm thực của các phụ lưu, dẫn đến
biến đổi chế độ thuỷ lực, thúc đẩy các quá trình tạo lòng sông. Vấn đề đặc biệt nghiêm trọng
xảy ra khi mực nước hạ lưu đập hạ thấp trong một số thời kỳ đặc biệt nào đó (ví dụ như tích
nước…), dẫn tới hạ thấp mực nước, xói lở hạ thấp đáy sông, từ đó gây trượt lở vùng bờ của
các nhánh sông đổ vào phần hạ lưu đó.
Dao động đột ngột và liên tục của mực nước vùng sát chân đập trong mùa lũ đe doạ gây
sạt lở nghiêm trọng vùng bờ.
Ngoài ra, dòng xả lũ mạnh có thể gây ra xói lở mạnh mẽ vùng sát chân đập, do động năng
của nước lớn và dòng nước có rất ít phù sa.
Bồi lắng trong lòng hồ
Dòng chảy khi chuyển qua cửa hồ bị giảm vận tốc nhanh chóng, do mặt cắt ngang dòng
chảy mở rộng, làm giảm động năng, giảm khả năng tải phù sa, dẫn đến tăng lắng đọng phù sa
kích thước lớn bồi lấp đáy hồ. Vùng cửa hồ không cố định theo sự thay đổi mực nước, mà lùi
dần về thượng nguồn khi mực nước lên và ngược lại, do đó vùng bồi lắng cũng trải dài trên
60
suốt vùng cửa hồ này, làm giảm dung tích hữu ích của hồ. Phần phù sa mịn có thể di chuyển
về bồi lắng trong vùng dung tích chết. Trung bình mỗi năm các hồ chứa bị bồi mất 0,5% dung
tích. Bồi lắng trong hồ làm thay đổi đáng kể sự lưu chuyển và chế độ phù sa sông. Sự tổn thất
phù sa này gây thiệt hại cho việc bổ sung dinh dưỡng, tạo môi trường sống cho các loài thủy
sinh, cũng như bồi đắp vùng cửa sông ven biển.
Diện tích mặt nước lớn gây sóng lớn, tăng bốc hơi, thay đổi vi khí hậu vùng ven bờ
và vấn đề tổn thất do di dời ra khỏi vùng ngập.
Những thay đổi vi khí hậu vùng bờ xảy ra theo xu thế tích cực, biên độ nhiệt độ không
khí giảm, độ ẩm tăng, thích hợp cho các hoạt động du lịch, nghỉ dưỡng nói riêng và đời sống
nói chung. Sóng do gió trên mặt hồ phụ thuộc chiều dài đà sóng, do vậy khi diện tích hồ càng
lớn, khả năng sinh sóng lớn càng cao, tác động bất lợi tới vùng bờ, công trình xây dựng và
hoạt động du lịch, khai thác thuỷ sản trong hồ.
Diện tích ngập càng lớn, số dân phải di dời càng lớn. Tuy nhiên, di dân không đơn thuần
là sự di chuyển của những con người, mà là sự di dời và làm biến dạng những bản sắc văn hoá
địa phương vốn gắn liền với vùng đất sinh thành ra nó, vì diện tích bị ngập thường là đất đai
ven sông, nơi có điều kiện hình thành và duy trì các điểm dân cư với các nền văn hoá truyền
thống đặc thù. Định cư dân vùng lòng hồ cũng là một vấn đề lớn, đi kèm với nó là việc thiết
lập mới toàn bộ hạ tầng cơ sở cho điểm dân cư và tạo điều kiện cho bảo tồn, phát huy các giá
trị văn hoá truyền thống.
Trong nhiều trường hợp xây đập, quá trình tái định cư của những người vốn sống trong
và trên vùng đất bị ngập thường được xác định bởi chính phủ, không qua quá trình tư vấn và
có sự tham gia của người bị thiệt hại. Tầm quan trọng, phạm vi của việc di dời, tác động kinh
tế xã hội không được đánh giá thích đáng trước. Quan điểm chi phối là một số người phải hy
sinh cho lợi ích của đa số và sự hy sinh ấy sẽ được bù đắp bằng các lợi ích kinh tế và xã hội
nào đó, cũng do chính chính phủ và các nhà đầu tư xác định. Hệ quả thường thấy là nảy sinh
mâu thuẫn giữa người bị di dời, bị tước đoạt cơ hội định cư tại vùng đất truyền thống, với cư
dân gốc vùng tái định cư, những người bị tước đoạt quyền lợi do phải san sẻ với người đến
định cư trong các lĩnh vực như: cạnh tranh về đất đai, việc làm, tài nguyên nhiên, bất đồng
văn hóa truyền thống
Đối tượng thứ hai bị tổn hại là những người tuy không phải di dời, nhưng kế sinh nhai bị
thay đổi do sự thay đổi của chế độ thủy văn. Ví dụ như việc khai thác cá trong hồ chứa hoàn
toàn khác so với khai thác trong sông tự nhiên trước đó. Do vậy những người từ nơi khác đến,
có sẵn phương tiện và kinh nghiệm khai thác kinh tế mặt nước hồ sẽ thành đạt, còn cộng đồng
ngư dân tại chỗ có thêm sự thiệt hại, có thể trở nên nghèo hơn Việc tạo thêm chỗ làm mới
thông qua một số dự án phát triển cũng không đem lại nhiều cơ hội cho dân địa phương, vì
trên thực tế công việc đòi hỏi kỹ năng cao, còn các chủ đầu tư thường đáp ứng nhu cầu bằng
những người di cư có sẵn kinh nghiệm. Và thế là người dân tại chỗ bị tước đoạt cơ hội thành
đạt do các công việc này mang lại.
Không thể phán xét chính xác sự thành công của công việc tái định cư trong vòng một vài
năm. Chỉ khi những đứa trẻ của dân định cư và dân tại chỗ cùng lớn lên có cuộc sống tốt đẹp,
hòa nhập và thành đạt, trở thành thành viên của cùng một cộng đồng thống nhất và thịnh
vượng, thì tái định cư mới được xem là thành công.
Cột nước lớn gây gia tăng dư chấn địa chất
61
Cột nước lớn tạo ra áp lực rất lớn lên vùng đáy, do vậy trong vùng kho nước lớn, thời kỳ
đầu, thường quan sát thấy sự tăng mạnh các trận động đất cấp thấp. Đây là vấn đề cần phải
tính tới trong thiết kế để đảm bảo độ an toàn của công trình.
Chế độ động lực thay đổi dẫn đến thay đổi hệ thuỷ sinh, thay đổi chất lượng nước, làm
chậm tốc độ đổi mới nước của thuỷ vực
Các hồ chứa đã làm giảm tốc độ đổi mới nước sông toàn cầu 3 - 4 lần. 80% hồ chứa có
hiện tượng phì dưỡng trong những năm đầu. Các hồ chứa dạng đập có chế độ thuỷ lực nước
chảy chậm, cột nước cao, áp lực nước lớn, vùng đáy có chế độ nhiệt, chế độ thuỷ hoá phân
hoá so với vùng mặt, do đó sẽ phát triển một hệ thuỷ sinh mới, không giống hệ thuỷ sinh
trong nước sông trước đó, hình thành hệ sinh vật vùng đáy phong phú. Cá trong hồ chứa sẽ
khác so với cá trong sông tự nhiên. Những loài còn tồn tại được có thể sẽ bị yếu hơn và số cá
thể có thể bị thay đổi. Nói chung, lượng cá lúc đầu tăng rất nhanh, nhưng sau đó lại giảm, do
năng suất tổng thể thấp hơn trong tự nhiên. Việc đưa các loài du nhập có thể hủy diệt nốt
những gì còn sót lại của các loài nguyên sản. Đập chắn ngang sông ngăn cản sự di cư của thủy
sinh. Giải pháp sử dụng các bậc thang cho cá vượt ngàn được sử dụng hiệu quả đối với cá hồi,
nhưng không có hiệu quả đối với các loài cá nhiệt đới.
Ngoài ra, những hồ chứa nước không được làm sạch các loài thực vật là nguồn thải khí
nhà kính CO
2
và CH
4
do sự phân hủy yếm khí chất hữu cơ. Vùng nước tĩnh mép hồ cung cấp
môi trường sống cho các loài ốc sên, chủ nhân của Schistosomiasis parasite và các loài muỗi
gây bệnh sốt rét. Do đó số lượng các loại bệnh lây truyền từ động vật có vòng đời liên quan
với môi trường nước có thể tăng mạnh sau khi xây đập.
Tác động gián tiếp của hồ chứa tới môi trường
Kiểm soát lũ, điều tiết dòng chảy, phát điện… tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển, hạn
chế tai biến liên quan tới phân hoá chế độ dòng chảy cực đoan, làm tăng tiêu thụ nước và các
vấn đề môi trường liên quan.
Do có hồ chứa nước nên hệ sinh thái trên cạn gồm rừng, đầm lầy, các thung lũng và môi
trường sống của các loài động vật hang dã thường bị xóa một phần, thậm chí toàn bộ mà
không có cách nào để hạn chế.