86
Chương 6
Tài nguyên nước Việt Nam
6.1 Tổng quan chung
6.1.1 Đặc điểm chung tài nguyên nước Việt Nam
Việt Nam có nguồn nước mưa dồi dào hơn so với các vùng cùng vĩ độ địa lý. Lượng mưa
trung bình năm toàn lãnh thổ 1960 mm, gấp 2,6 lần lượng mưa trung bình lục địa, cung cấp
640 tỷ m
3
/năm, từ đó tạo ra một lượng dòng chảy khoảng 320 tỷ m
3
, hệ số dòng chảy là 0,5.
Lượng mưa phân bố không đồng đều theo không gian và thời gian do bị đặc điểm địa lý,
địa hình và loại hình thời tiết gây mưa chi phối. Chênh lệch lượng mưa giữa các vùng lên tới
10 lần. Những vùng có lượng mưa lớn đều nằm trên các sườn và đỉnh núi đón gió, địa hình
dạng phễu hội tụ như Bắc Quang, Móng Cái - Tiên Yên (>5.000mm), Hoàng Liên Sơn,
Pusilung, Ngàn Sâu, đèo Ngang, đèo Hải Vân, bắc đèo Cả, Trà Mi - Ba Tơ, trung lưu s.Đồng
Nai, Plâycu (3.000 - 4.000 mm). Tâm mưa nhỏ nằm trong những vùng khuất gió như thung
lũng Mường Xén, Phan Rang (500 - 600mm), thung lũng Yên Châu, Lục Bình, sông Ba
(<1.200mm). Mưa phân bố không đều theo thời gian, 20 - 30 % tổng mưa rơi trong một tháng
cao điểm, 70 - 90 % mưa rơi trong mùa mưa, còn lượng mưa ba tháng nhỏ nhất chỉ chiếm 5 -
8% tổng mưa và lượng mưa tháng ít mưa nhất chỉ có 1- 2%.
Hình 6.1.
Sơ đồ cấu trúc cân bằng nước Việt Nam
Lượng bốc hơi lớn, > 900 mm/năm. Bốc hơi nhỏ nhất 400 - 500 mm/năm quan sát thấy ở
vùng núi cao Tây Bắc và Đông Bắc Bắc Bộ do bị hạn chế bởi trường nhiệt và ở ven biển Ninh
Thuận, Bình Thuận, do bị hạn chế bởi trường ẩm. Tây Nam Bộ có lượng bốc hơi lớn nhất, >
1.300 mm/năm do cả hai trường nhiệt ẩm đều phong phú. Lãnh thổ Trung Bộ bốc hơi năm trung
bình là 900 - 1.200 mm, phần còn lại của lãnh thổ 800 - 1.000 mm.
87
6.1.2 Đặc điểm tài nguyên nước sông Việt Nam
Hệ thống sông suối của Việt Nam khá phát triển, nhưng phân bố không đều. Mật độ trung
bình 0,6 km/km
2
, lớn nhất 2 - 4 km/km
2
ở châu thổ sông Hồng - Thái Bình và Cửu Long, do
nhu cầu tiêu thoát nước lớn trong khi địa hình bằng phẳng, biên độ triều lớn và khả năng can
thiệp của con người cao. Những vùng mưa nhiều, địa hình thuận lợi cho sinh dòng mặt như
Móng Cái, Hoàng Liên Sơn, Đèo Ngang, Hải Vân, thượng nguồn Đồng Nai có mật độ sông
suối lớn, 1,5 - 2 km/km
2
. Vùng mưa vừa, độ cao trung bình như Quảng Ninh, Ngân Sơn (Bắc
Cạn), trung lưu Đồng Nai, Thu Bồn, thượng nguồn các sông Tây Nguyên, một số sông ở
Đông Trường Sơn mật độ sông suối 1 - 1,5 km/km
2
. Vùng mưa nhỏ, bốc hơi lớn, thấm tốt,
như Trùng Khánh (Cao Bằng), Quản Bạ (Hà Giang), Bắc Sơn (Lạng Sơn), Trà Lĩnh, Mộc
Châu (Sơn La), Kẻ Bàng (Quảng Bình), Bắc và trung Tây Nguyên, Ninh Thuận, Bình Thuận
có mạng lưới sông suối kém phát triển, chỉ đạt <0,3 - 0,5 km/km
2
. Đặc biệt vùng sông Phan,
sông Dinh mật độ chỉ đạt 0,12 - 0,15 km/km
2
. Mật độ sông suối lớn tạo ra những thuận lợi
cho đối tượng trực tiếp dùng nước, tạo điều kiện phát triển giao thông thủy.
Đa phần sông ngòi thuộc loại vừa và nhỏ, chảy theo hướng chủ đạo Tây Bắc - Đông
Nam, đổ ra biển Đông. Trong 2.360 sông dài >10 km thường xuyên có nước chảy có 17 lưu
vực độc lập diện tích >1.000 km
2
, 173 lưu vực 500 - 1.000 km
2
, 614 lưu vực 100 - 500 km
2
và
1.556 lưu vực <100 km
2
.
Việt Nam có 9 lưu vực sông lớn diện tích >10.000 km
2
, tổng diện tích 258.800 km
2
,
chiếm 74% diện tích toàn quốc, có số dân là 60 triệu, bằng 85% dân số Việt Nam và tạo ra
91% GDP cả nước, cung cấp 771 tỷ m
3
, tương ứng 88% tài nguyên nước Việt Nam (bảng
6.1). Rõ ràng rằng mọi tiếp cận bền vững trong khai thác tài nguyên và phát triển trên 9 lưu
vực sông chính này có vai trò then chốt trong chiến lược phát triển bền vững cả nước.
Sông ngòi có tính đa quốc gia. 7/9 hệ thống sông chính của Việt Nam chảy qua từ 2 - 5
nước, tỷ lệ diện tích lưu vực thuộc Việt Nam 9 - 87% và tỷ lệ dòng chảy ngoại nhập từ 5 -
90% (không kể Kỳ Cùng Bằng Giang). Chỉ có lưu vực Thu Bồn và sông Ba nằm trọn vẹn ở
Việt Nam. Dòng chảy ngoại nhập là yếu tố khó kiểm soát, điều tiết, phân phối cả về mặt
lượng và chất, đòi hỏi quản lý sử dụng trên tinh thần hợp tác đa quốc gia.
Bảng 6.1.
Lưu vực và dòng chảy của các hệ thống sông lớn ở Việt Nam [11]
Diện tích Dòng chảy
Lưu vực sông
Toàn bộ 10
3
km
2
ở VN 10
3
km
2
% ở VN Toàn bộ
tỷ m
3
% VN
đóng
góp
Dân số
triệu
người
%
GDP
Kỳ Cùng -
Bằng Giang
Hồng -
Thái Bình
Mã
Cả
Thu Bồn
Ba
Đồng Nai
Cửu Long
12,88
169
28,49
27,2
10,5
13,9
42,66
795
11,22
86,66
17,81
17,73
10,5
13,9
36,26
72
87
51
63
65
100
100
85
9
8,9
137
20,1
24,2
19,3
10,4
30,6
520,6
81
68
78
80
100
100
95
10
1,1
24,2
2,9
3,1
0,86
0,85
10,2
15
1
26
2
3
1
1
28
27
Tổng cộng 266,8 771 58,2 89
Toàn VN 330 879 40 70 100
Lượng dòng chảy sông ngòi thuộc loại dồi dào, gần 880 tỷ m
3
, trong đó trên 550 tỷ m
3
là
nguồn nước ngoại lai; Mô đun dòng chảy 31 l/s.km
2
, lớp dòng chảy 980 mm/năm, lớn gấp 3
lần trung bình lục địa và 4,6 lần trung bình châu Á. Độ phong phú nước nội địa là 921.000
88
m
3
/km
2
.năm và 2,7triệu m
3
/km
2
.năm nếu tính cả nguồn ngoại lai. Các tâm dòng chảy lớn
(nhỏ) đều trùng với các trung tâm mưa lớn (nhỏ). Nơi có dòng chảy lớn nhất là Bắc Quang,
Móng Cái, mô đun dòng chảy >100 l/s.km
2
, lớp dòng chảy >3.000 mm. Vùng Hoàng Liên
Sơn, Ngàn Sâu, đèo Ngang, Hải Vân, Trà Mi - Ba Tơ mô đun dòng chảy khoảng 70 - 100
l/s.km
2
. Vùng ven biển Bắc và Trung Ninh Thuận, Bình Thuận có mô đun dòng chảy nhỏ
nhất, không vượt quá 5 - 10 l/s.km
2
.
Mặc dù có tài nguyên nước dồi dào nhưng do bị phụ thuộc vào các nước ở vùng thượng
lưu và tình trạng phân bố không đồng đều, nên tài nguyên nước Việt Nam vẫn bị xếp vào loại
thấp trong khu vực Đông Nam Á. Chỉ số tài nguyên nước tính theo đầu người là 4.170m
3
,
trong khi trung bình khu vực Đông Nam Á là 4.900m
3
và trung bình châu Á 3.300m
3
.
Sông ngòi Việt Nam có tiềm năng thuỷ điện lớn. Tiềm năng thuỷ điện lí thuyết của các
sông ngòi Việt Nam là 28,27 triệu kW, tương ứng 248,5 tỷ kWh/năm, tức 94 kWh/ km
2
, gấp
3,6 lần trung bình thế giới. Trữ năng thuỷ điện kỹ thuật của Việt Nam là 91,4 tỷ kWh, bằng
33,7% tiềm năng lí thuyết; Trữ năng khai thác kinh tế là 55 - 60tỷ kWh, bằng 20 - 22% tiềm
năng lí thuyết, tương đương với khoảng 14.000 - 17.000 MW công suất lắp máy (gấp >6 lần
công suất nhà máy thuỷ điện Hoà Bình).
Sông Đà có tiềm năng thuỷ điện phong phú nhất, 50 tỷ kWh/năm, chiếm 19% tiềm năng
toàn quốc. Sông Đồng Nai xếp thứ hai với 40 tỷ kWh/năm; Các sông Sesan, Krong Pôcô, 26
tỷ kWh/năm, sông Thao - 15,66 tỷ kWh/năm, sông Ea Krông - 14,15 tỷ kWh/năm, Srepôc -
14 tỷ kWh/năm, sông Cả 13,27 tỷ kWh/năm, sông Trà Khúc 12,48 tỷ kWh/năm, sông Lô
10,24 tỷ kWh/năm, sông Mã 9,2 tỷ kWh/năm, sông Ba 8 tỷ kWh/năm.
Bảng 6.2:
Trữ năng thuỷ điện sông ngòi Việt Nam [ 8 ]
Trữ năng lý thuyết Trữ năng kỹ thuật
Hệ thống sông
Công suất
MW
Sản lượng
tỷ Wh/năm
%
Công suất
MW
Sản lượng
tỷ kWh/năm
%
Miền Bắc
Hồng
Thái Bình
Cả
Sông khác
19.124
13.915
1.674
1.603
1.982
167,5
121,9
14,6
14
17
61,7
44,9
5,4
5,2
6,2
12.600
10.822
850
630
298
56,45
49,5
2,8
2
2,15
61,8
54,2
3,1
2,2
2,3
Miền Nam
Đồng Nai
Sesan
Thu Bồn
Đakrong
Sông khác
11.846
3.122
1.879
1.831
1.387
3.627
103,7
27,3
16,5
16,
12,1
31,9
38,3
10,1
6,1
5,9
4,5
11,7
8.100
3.795
1.175
1.670
757
703
34,95
16,77
5,6
8,2
3,2
1,1
38,2
18,3
6,3
9
3,5
1,2
Toàn quốc 30.970 271,3 100 20.700 91,4 100
Hiện chúng ta đã xây dựng trên 500 nhà máy thuỷ điện lớn nhỏ, sản xuất khoảng 3,6 MW
và 800MW đang trong quá trình xây dựng. Sản lượng thuỷ điện hiện chiếm 55% tổng công
suất phát điện toàn bộ hệ thống điện lưới quốc gia đã xây dựng. Các đập thuỷ điện lớn nhất là
Hoà Bình, Thác Bà, Đa Nhim, Trị An, Thác Mơ và Yaly. Theo chiến lược thuỷ điện quốc gia,
Việt Nam sẽ xây dựng thêm các hệ thống sản xuất điện tương đương 5.045 MW tại các sông
Sê San, Srêpôc, sông Đà, Đồng Nai.
Phân phối dòng chảy theo tháng trong năm phân hoá sâu sắc theo không gian và cực
đoan theo thời gian do sự không ổn định của chế độ mưa và sự phân hoá sâu sắc của điều kiện
địa hình. Trên đường quá trình nước nhiều sông thấy thể hiện dạng hình răng cưa rất không
đồng đều.
89
Chất lượng nước sông Việt Nam tốt, phần lớn thuộc loại Bicacbonat Canxi kiểu I, độ
khoáng hoá thấp <1 g/l, độ cứng nhỏ, 3me/l, độ kiềm nhỏ, 4 me/l, pH gần trung tính, khá phù
hợp với các mục tiêu dùng nước khác nhau. Nước sông miền Bắc có pH trung bình 7,06.
Những đoạn sông có pH lệch khỏi trung tính thường là vùng ô nhiễm do nhận nước thải công
nghiệp: Lâm Thao pH 3,8 - 4,1; Việt Trì pH 8,0 - 8,9. Nước sông miền Nam có độ pH trung
bình 7,6. Nước sông Mê Công thường hơi kiềm, vùng Đồng Tháp Mười pH =3,0; sông Đồng
Nai pH < 6,0.
Chất hữu cơ trong nước sông tự nhiên thường thấp, <3 mg/l, dao động từ 0,4 - 10,9 mg/l
ở miền Bắc, 0,85 - 18,32 ở miền Nam. Trung bình ôxy hoà tan trong nước sông miền Bắc 4,4
mg/l, miền Trung 6 - 7 mg/l, miền Nam 6,9 mg/l; Những đoạn sông bị ô nhiễm nặng nồng độ
ôxy hoà tan rất thấp. Hàm lượng chất hoà tan trong nước biến động ít theo mùa và thành phần
hoá học nước mặt và nước dưới đất khác nhau không nhiều. Ô nhiễm nước do nước thải công
nghiệp, đô thị mang tính khu vực, ô nhiễm do nông nghiệp và các nguồn diện khác khó xác
định, nhưng đã có những dấu hiệu cần lưu ý.
Nitrat ở một số sông lớn miền Bắc dao động từ vết đến 1,9mg/l; trung bình 0,25 mg/l, cao
nhất thường gặp tại những đoạn sông nhận nước thải công nghiệp; Lượng Amôn từ vết đến
12,53 mg/l. Nước sông miền Nam có nitrat từ 0,007 - 1,185 mg/l, trung bình 0,161 mg/l;
Amôn từ 0,006 - 0,383 mg/l, trung bình 0,161 mg/l .
Nước sông miền Bắc có hàm lượng sắt tổng từ 0,04 - 1,0 mg/l, trung bình 0,75 mg/l; Những
nơi có sắt cao là Lâm Thao 4mg/l, Phả Lại 2,88 mg/l; Những nơi sắt thấp là Việt Trì 0,08 - 0,16
mg/l, Dừa 0,075 mg/l. Nước sông miền Nam có hàm lượng sắt tổng từ 0,317 - 8,656 mg/l,
trung bình 2,53 mg/l; Những nơi có sắt cao thường là vùng nhiễm phèn nặng. Khi Fe
2+
từ
0 - 2mg/l cá phát triển bình thường, 4 - 5 mg/l cá bị ảnh hưởng, 15 - 100 mg/l cá chết;
Tiêu chuẩn nước sinh hoạt quy định Fe
2+
<1mg/l
Lượng silic trong nước sông miền Bắc từ 8 - 18,2 mg/l, trung bình 13,7 mg/l; trong đó
những nơi có silic cao là Cẩm Thuỷ - sông Mã, Dừa - sông Lam, Nam Định - sông Đào, thấp
nhất tại Lạng Sơn - sông Kỳ Cùng. Hàm lượng silic trong nước sông miền Nam từ 0,915 -
17,25 mg/l.
Dòng chảy phù sa lớn, đặc biệt trong mùa lũ. Tổng lượng dòng chảy phù sa năm của các
sông trên 300 triệu tấn, trong đó sông Hồng - 120 triệu tấn (năm 1971 đạt 202 triệu tấn ), sông
Mê Công 160 triệu tấn. Lượng bùn cát mùa lũ thường chiếm 80 - 90% tổng lượng năm, tháng
lớn nhất có thể đến 25 - 30% tổng lượng năm. Xâm thực trên lưu vực đạt 130 - 200 tấn /km
2
.
năm khi lượng mưa 1.000 - 1.500 mm/năm, 200 - 300 tấn /km
2
. năm khi lượng mưa 1.500 -
2.000 mm/năm, 300 - 400 tấn /km
2
. năm khi lượng mưa trên 2000 mm/năm.
Xâm nhập triều phụ thuộc vào cường độ dòng triều và lưu lượng nước sông. Chế độ triều
dọc bờ biển Việt Nam phân hoá: nhật triều ở Hòn Gai, Hòn Dáu, nhật triều không đều ở Cửa
Hội, bán nhật triều không đều ở Quy Nhơn, Sài Gòn, Vũng Tàu. Xâm nhập triều trên sông
Hồng và Mê Công thuộc vào loại sâu so với thế giới. Trên sông Hồng biên độ triều 1m vào
sâu 70 km và cách cửa sông 180 km vẫn còn quan sát được dấu hiệu của triều, tuy không rõ
nét. Trên sông Mê Công xâm nhập triều có thể vào sâu 400 km, đến tận Kông Pông Chàm,
còn tại Tân Châu, cách biển 200km, biên độ triều đạt đến 1 m. Đặc biệt là hạ lưu sông Mê
Công chịu sự chi phối của hai chế độ triều khác nhau cả về chu kỳ, mực nước triều và biên độ
triều là nhật triều ở vịnh Thái Lan và bán nhật triều không đều ở Biển Đông.
Độ mặn theo phương truyền triều xác định theo công thức
S
x
= S
o
exp (KX) (6.1)
90
trong đó X - khoảng cách tính từ cửa sông, So- độ mặn tại cửa sông, K- hệ số khuếch tán
thực nghiệm của sông
Khi độ mặn > 0,1% thì năng suất lúa bắt đầu giảm, khi độ mặn > 0,4% thì cây lúa không
phát triển hoặc chết. Xâm nhập mặn cũng thúc đẩy quá trình bồi lấp luồng lạch, cửa sông.
6.1.3 Đặc điểm tài nguyên nước dưới đất Việt Nam
Lãnh thổ Việt Nam có thể chia thành 26 đơn vị chứa nước dưới đất, có đặc điểm phân
bố, chất lượng, số lượng và khả năng khai thác, sử dụng khác nhau, tuỳ thuộc vào sự hiện
diện của chúng ở các miền và phụ miền địa chất thuỷ văn khác nhau.
Kết quả tính toán cho thấy tiềm năng nước dưới đất của nước ta rất lớn. Tổng trữ lượng
động tự nhiên trên toàn lãnh thổ (chưa kể phần hải đảo) được đánh giá vào khoảng 1828 m3/s,
tương ứng với môđun dòng ngầm là 4,5 l/s.km2 và phân bố theo các vùng như trong bảng 6.3.
Tuy nhiên, trữ lượng động tự nhiên của nước dưới đất phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như điều
kiện địa lý tự nhiên và điều kiện địa chất nên các con số trên chưa nói lên mức độ giàu nghèo
nước và khả năng khai thác nước dưới đất của các miền địa chất thuỷ văn.
Trữ lượng khai thác của nước dưới đất là lượng nước tính bằng mét khối trong một ngày
đêm có thể thu được bằng các công trình lấy nước một cách hợp lý về mặt kinh tế - kỹ thuật
với chế độ khai thác nhất định và chất lượng nước đáp ứng yêu cầu sử dụng suốt trong thời
gian tính toán sử dụng nước. Trữ lượng có tiềm năng khai thác của Việt Nam khoảng gần 60
tỷ m3/năm. Kết quả nghiên cứu được tiến hành ở 144 vùng với tổng diện tích 35000 km2 xác
định được trữ lượng khai thác (cấp A + B) là gần 2.000.000 m3/ngày, thăm dò sơ bộ (cấp C)
là 17.500.000 m3/ngày. Phần lớn trữ lượng khai thác cấp A + B nằm trong phức hệ chứa
nước trầm tích aluvi (71%), tiếp đến là trong thành hệ cacbonat (11%).
Bảng 6.3.
Trữ lượng động tự nhiên của nước dưới đất
Vùng Lưu lượng (m
3
/s) Mô đun (l/s.km
2
)
Đông Bắc
Tây Bắc
Đồng bằng Bắc Bộ
Bắc Trung Bộ
Nam Trung Bộ
Tây Nguyên
Đồng bằng Nam Bộ
Đông Nam Bộ
238,7
214,8
88,9
476,0
318,8
180,5
158,2
163,0
4,5
5,1
3,6
8,0
3,7
3,3
3,4
Chất lượng nước dưới đất được đánh giá dựa trên các chỉ tiêu: độ khoáng hoá, độ pH,
tổng độ cứng, hàm lượng sắt, các hợp chất nitơ, CO2 ăn mòn và vi khuẩn. Theo các chỉ tiêu
trên có thể đưa ra một số nhận xét và đánh giá sơ bộ về chất lượng nước dưới đất như sau:
Nước dưới đất ở miền núi và trung du có chất lượng tốt, đáp ứng được yêu cầu sử dụng
vào mục đích ăn uống, sinh hoạt. Tuy vậy một số nơi nước còn chứa nhiều sắt, độ cứng cao
và tính ăn mòn CO2 lớn, không thuận lợi đối với việc cấp nước cho một số ngành công
nghiệp và có tác hại cho các công trình xây dựng, đòi hỏi phải xử lý.
Vùng ven biển, nước dưới đất thường nhiễm mặn, hàm lượng clo lớn, không đáp ứng tiêu
chuẩn nước sinh hoạt.
Đồng bằng Bắc Bộ và Nam Bộ, chất lượng của nước dưới đất thay đổi rất phức tạp do sự
xen kẽ giữa nước nhạt và nước mặn theo diện tích cũng như trên mặt cắt của một số vùng.
Các chỉ tiêu khác cũng biến đổi trong giới hạn rất rộng, nhiều khi không rõ quy luật, đặc biệt
91
là hiện tượng nhiễm mặn, nhiễm sắt, nhiễm phèn khá phổ biến trên nhiều vùng. Ở những vùng
canh tác có sử dụng phân bón và một số trung tâm dân cư, công nghiệp lớn, nước dưới đất đã
có dấu hiệu nhiễm bẩn ở các mức độ khác nhau.
Hàm lượng Cu, Pb, As, Hg đều nhỏ hơn tiêu chuẩn cho phép đối với nước sinh hoạt. Tuy
nhiên, ở một số nơi thuộc đồng bằng Bắc Bộ đã có hàm lượng Hg khá cao. Hàm lượng Mn
trong nước của các lỗ khoan trong trầm tích Đệ tứ bở rời đều cao hơn tiêu chuẩn cho phép.
Trên phạm vi toàn quốc những năm trước đây có 22 nhà máy khai thác nước dưới đất tập
trung, trong đó 15 nhà máy lấy nước trong các thành tạo bở rời, cát cuội sỏi, ba nhà máy lấy
trong thành tạo cacbonat và bốn nhà máy lấy từ đá phun trào bazan. Tính chung cho cả nước
thì chỉ có chưa đầy 5% tổng trữ lượng nước được khai thác. Việc khai thác nước dưới đất ở
các vùng rất khác nhau. Ví dụ rất khó khai thác nước dưới đất ở vùng Đông Bắc do các tầng
chứa nước nằm phân tán và đa dạng. Trong khi đó khai thác nước ngầm ở Tây Nguyên lại dễ
dàng, nên đã bị khai thác quá mức để phục vụ tưới cho các loại cây trồng công nghiệp, dẫn
đến tình trạng thiếu nước ở một số địa bàn trong vùng. Đồng bằng sông Hồng và sông Cửu
Long, các vùng phụ cận Hà Nội và Tp.Hồ Chí Minh đã khai thác nước ngầm quá mức gây sụt
lún đất, nhiễm mặn.
Tài nguyên nước khoáng, nước nóng của Việt Nam phong phú, có chất lượng tốt, đa dạng
về loại hình, có giá trị sử dụng cao cho nhiều mục đích khác nhau như dùng cho thuỷ lý trị
liệu, sản xuất nước khoáng đóng chai, khai thác năng lượng địa nhiệt, CO2 Theo số liệu
điều tra, cả nước có khoảng 400 nguồn nước khoáng và nước nóng, trong đó nguồn có nhiệt
độ 30 – 70oC và độ khoáng hoá (ĐKH) <1 – 5 g/l chiếm ưu thế (bảng 6.3, 6.4). 287 nguồn đã
được khai thác và khảo sát. Đã xác định được trên 100 điểm nước khoáng, nước nóng
Bảng 6. 4.
Phân loại nước khoáng Việt Nam theo độ khoáng hoá
Loại nước Độ khoáng hoá
g/l
Tỷ lệ số nguồn so với tổng số
%
ĐKH rất thấp
ĐKH thấp
ĐKH trung bình
ĐKH cao
<1,0
1,0 – 5,0
5,0 – 10,0
10,0 – 35,0
48,13
37,98
2,32
11,57
Bảng 6.5.
Phân loại nước khoáng Việt Nam
Loại nước Nhiệt độ nước
(
o
C)
Tỷ lệ số nguồn
so với tổng số, %
Lạnh
Ấm
Nóng
Rất nóng
Quá nóng
Nước sôi
<30
30 – 35
35 – 50
50 – 70
70 – 100
>100
3,55
17,75
45,55
23,07
9,46
0,72
6.1.4 Hồ đầm Việt Nam
Hồ đầm tự nhiên
Việt Nam không có các hồ đầm tự nhiên cỡ lớn vì trong giai đoạn tân kiến tạo vận động
nâng là chủ yếu, mạnh mẽ, liên tục, không có những đứt gãy kiến tạo và vùng sụt võng sâu.
Mặt khác khả năng bồi tích của sông ngòi rất lớn, nhanh chóng lấp đầy các địa hình trũng.
92
Hồ nguồn gốc từ sông thường gặp rất nhiều trong vùng đồng bằng châu thổ các con sông
lớn. Do đó các đô thị đồng bằng, gồm cả Hà Nội có rất nhiều hồ nhỏ tạo nên nhiều giá trị
cảnh quan sinh thái và môi trường.
Trong các vùng núi đá vôi có những hồ tiềm thực do hoà tan ngầm và sụt đổ, như Nậm
Soi - Sơn La, Ba Bể - Bắc Cạn. Hồ Ba Bể gồm ba bể thông nhau, kích thước 4 ì 1,5 km, 2 ì
2,2 km và 3 ì 1 km, nằm ở độ cao 145m, giữa một vùng diệp thạch kết tinh xen núi đá vôi,
diện tích 450 ha, sâu nhất đến 29 m, dung tích 90 triệu mét khối. Sóng do gió trên mặt hồ có
thể cao tới 7 - 8 m. Hồ là một cảnh quan đẹp giữa vùng rừng nhiệt đới.
Hồ miệng núi lửa gặp quanh thị xã PlâyCu, điển hình nhất là Biển Hồ, nằm trên độ cao
800m, diện tích mặt nước 600ha, cấp nước tưới, sinh hoạt và cá cho khu vực.
Đầm phá thường gặp dọc bờ biển miền Trung, là sản phẩm của quá trình tương tác biển
sông trong đó biển chiếm ưu thế. Hệ sinh thái đầm phá có đa dạng sinh học và năng suất cao,
đặc biệt có vai trò quan trọng đối với vùng khơi tương tự vai trò của các hệ sinh thái rừng
ngập mặn ở bờ biển miền Bắc và miền Nam. Phá Tam Giang - Cầu Hai lớn và nổi tiếng nhất,
với diện tích 7.800ha, dài 20km, rộng 0,5 - 3km, sâu khoảng 1m, nhận nước ngọt từ trên 10
con sông, trong đó có sông Hương và thông với biển qua cửa Thuận An
Ven biển miền Trung có một số hồ nước ngọt trên cát, nơi có nền đá gốc bên dưới không
bằng phẳng và ít thấm, có vai trò quan trọng trong cấp nước ngọt cho sinh hoạt và sản xuất.
Hồ chứa
Việt Nam có khoảng 3.600 hồ chứa kích thước khác nhau, trong đó chỉ có chưa đến 15%
là các hồ cỡ vừa và lớn, dung tích >1 triệu m
3
hoặc có độ cao >10m. Hồ chứa lớn thường
được thiết kế và sử dụng đa mục đích, trước tiên là phát điện, điều tiết dòng chảy (cắt lũ và
cấp nước mùa kiệt), ngoài ra còn có các mục đích sử dụng khác như phục vụ giao thông, thuỷ
lợi, du lịch Sự tích tụ phù sa đã làm giảm nhiều dung tích các hồ chứa, một số hồ chỉ còn
khoảng 30% dung tích ban đầu. Hồ chứa nhỏ chỉ phục vụ tưới tại chỗ và khai thác để nuôi
trồng thuỷ sản.
Bảng 6.6.
Các hồ chứa lớn ở Việt Nam
Hồ chứa
Dung tích
10
6
m
3
Diện tích tưới
ha
Thuỷ điện
MW
1
2
3
4
5
6
7
8
9
Hoà Bình
Thác Bà
Trị An
Dầu Tiếng
Thác Mơ
Yaly
Phú Ninh
Sông Hinh
Kẻ Gỗ
9.450
2.940
2.760
1.580
1.370
1.037
414
357
345
72.000
23.000
17.000
1.920
108
420
150
720
66
Hộp 6.1.
Hồ Hoà Bình trên sông Đà [12]
Hồ Hoà Bình khởi công ngày 6/11/1979, chặn dòng 12/1/1983.
Hồ có các thông số thiết kế sau:
Đập: cao 123m, dài 734m, rộng 20m.
Cao trình đáy Cửa Lưu lượng tối đa
Xả đáy 56 m
6 × 10m
21.900m
3
/s
Xả mặt 102m
15 × 15m
13.500m
3
/s
93
Đặc trưng Mực nước (m)
Diện tích mặt nước
(Km
2
)
Dung tích (Km
3
)
Tối thiểu 75 107
Chết 80 117
Trước lũ 85 4,5
Dâng bình thường 115 208 (dài 230km) 9,5
Gia cường 120 308
Dung tích hữu ích 5,65
Dung tích phòng lũ 5,6
* Bồi lắng theo thiết kế trong thời gian vận hành là 0,54% dung tích hồ, tương đương 51 tr. m
3
/năm, trong
đó sau 25 năm bồi 60% dung tích chết, sau 50 năm bồi 90% dung tích chết và 3% dung tích hữu ích, sau 60
năm bồi toàn bộ dung tích chết và một phần dung tích hữu ích.
* Quản lý mực nước trước lũ: Theo Quy định ngày 30/6/1991 của Ban Phòng chống lụt bão Trung ương
(BPCLBTƯ): Kỳ lũ sớm: (15/6 - 15/7) duy trì mực nước 91 ± 1m. Kỳ lũ chính (16/7 - 15/8) duy trì mực nước
89 ± 1m, sau khi đỉnh lũ qua thì nhanh chóng tích nước đến 115 m. Mùa kiệt cấp nước đến mực nước trước
lũ, thấp nhất 70,5m
Các vấn đề môi trường hồ chứa sau 8 năm hoạt động
1. Bồi lắng: Trung bình 69,4 triệu m
3
/năm, nhiều hơn thiết kế 5%, làm đáy hồ bị nâng cao trung bình 0,34 m/năm.
Những nguyên nhân làm tăng bồi lắng lòng hồ so với thiết kế là do xói lở vùng bờ và dải bán ngập, rửa trôi xói
mòn từ vùng rừng đầu nguồn không được bảo vệ và tăng mực nước trước lũ. Lắng ở phần dung tích chết 78%,
dung tích hữu ích 20%, nguyên nhân là do vùng cửa hồ nằm trong dung tích hữu ích quá dài.
2. Hoạt động địa chấn tích cực quan sát thấy trong vùng hồ, dọc đứt gãy sâu Chợ Bờ. Động đất kích thích
tăng mạnh những năm đầu tích nước, đặc biệt là ở khu vực quanh đập. Tần suất xuất hiện động đất và các
dư chấn địa chất tập trung vào 1991 - 1992 sau đó giảm dần.
3. Các hiện tượng thành tạo khe nứt, trượt lở ven hồ, nâng cao mực nước ngầm, thẩm thấu nước, thay đổi
cơ chế và mức độ hoạt động caxtơ quan sát thấy ở một số khu vực.
4. Biến động hệ sinh thái thượng du: Ở cạn mất 1.610,8 ha rừng, 10 họ (33%), 92 loài sinh vật (49,7%), số
cá thể nhiều loài cũng giảm. Ở nước hệ sinh thái nước hồ chứa thay thế gây biến động mạnh quần xã sinh
vật, mất các động vật ăn đáy, động thực vật phù du phát triển, phì dưỡng xuất hiện ở một số vùng cửa sông
đổ vào hồ trong những năm đầu. Trước khi có hồ, khu hệ cá sông Đà có 95 loài, đến 1992 mới điều tra
được 31 loài.
5. Diễn biến lòng sông hạ du: Xói sâu cục bộ ngay sau chân đập tạo hố tiêu năng và gây bồi tích vùng kế
tiếp. Xói ngang vùng thị xã Hoà Bình năm 1989-1990 do xả mạnh sinh dòng quẩn sau đập tràn phía bờ
phải, làm xói lở mạnh chân đập, phá huỷ đường vào hầm giao thông qua đập tràn; Sạt trượt vùng bờ do hạ
thấp mực nước mạnh sinh dòng thấm đột ngột từ bờ ra phía sông.
6. Ảnh hưởng đến vùng hạ lưu và cửa sông: Giảm lượng phù sa trong sông (trung bình 1986 – 19995 còn
77 triệu tấn/năm) dẫn tới giảm 1/2 tốc độ lấn biển vùng cửa sông (chỉ còn 50m/năm), ảnh hưởng tới chất
lượng rừng ngập mặn khiến chim di cư giảm từ 1000 – 2000 con xuống còn 500 – 600 con, mỏ tôm Ba Lạt
và bãi cá giảm 50% sản lượng, hàng năm mất 500 triệu con cá bột sông Hồng.
7. Các vấn đề xã hội: Ngập 2.899 ha ruộng, 170 ha rừng trồng, 840 ha cây ăn quả, 107.308 m
2
nhà, trường,
trạm xá, kho tàng, 406 km đường dân sinh, 42 hồ đập thuỷ lợi, 63 phai đập thuỷ lợi, 37 tuyến mương,
35.352 m
2
ao cá, di chuyển 11.763 mồ mả, 53.033 người.
6.1.5 Tai biến rủi ro liên quan đến nước ở Việt Nam
Việt Nam là một trong những quốc gia thường xuyên bị ảnh hưởng nặng nề của bão, áp
thấp nhiệt đới, lũ lụt, hạn hán, nước biển dâng, trượt lở đất, xâm nhập mặn…
Các hình thế thời tiết gây mưa lũ ở Việt Nam rất đa dạng và thường cùng đồng thời xuất
hiện: Mưa lũ trên lưu vực sông Hồng - Thái Bình do các hình thế thời tiết cơ bản sau gây nên:
xoáy thấp Bắc Bộ, bão, xoáy thấp lạnh, dải áp thấp Nam Trung Quốc, rãnh thấp nóng phía
Tây, dải hội tụ nhiệt đới, xoáy thuận kết hợp với không khí lạnh hay các hình thế thời tiết
khác. Miền Trung chịu ảnh hưởng của các loại hình thời tiết gây mưa như bão, không khí
lạnh, thấp, dải hội tụ nhiệt đới, hoặc các hình thế thời tiết khác kết hợp phức tạp với nhau.
Mưa lớn trên lưu vực sông Mê Công có nguyên nhân từ dải hội tụ nhiệt đới kết hợp với gió
mùa tây nam, bão hoặc áp thấp nhiệt đới.
Bão là một loại hình thế thời tiết đặc biệt gây gió từ 120 km/giờ (cấp 1) - 250 km/giờ (cấp
5), sóng lớn tròn đầu cao 10 - 12 m do áp thấp ở tâm bão hút nước lên và mưa lớn. Trận bão
năm 1902 ở Việt Nam đã bẻ gẫy cầu Tràng Tiền (Huế). Hàng năm nước ta phải nhận hoặc
94
chịu ảnh hưởng trực tiếp của trung bình 4 - 6 trận bão, nhiều nhất là 11 - 12 trận, tập trung từ
tháng 5 - 12. Bão cung cấp 12% lượng mưa ở đồng bằng Bắc Bộ và Đông Trường Sơn, 6 -
12% lượng mưa cho khu Tây Bắc, 5 - 10% lượng mưa cho Tây Nguyên và gần 5% lượng mưa
cho Nam Bộ. Trong nhiều năm bão đổ bộ vào Việt Nam tuân theo quy luật chung là chậm dần
từ Bắc vào Nam và hầu như hiếm gặp ở cực Nam Việt Nam. Những năm gần đây đã xuất hiện
bất thường trong thời gian xuất hiện, đường đi và điểm đổ bộ của bão, gia tăng mạnh mẽ thiệt
hại do bão gây ra.
Theo thống kê sơ bộ, trong những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ trước, trung bình mỗi
năm Việt Nam có trên 800 người chết do các loại thiên tai khác nhau, trong đó tổn thất do lũ
lụt đồng bằng sông Cửu Long thường chiếm trên dưới một nửa. Đặc biệt cơn bão số 5
LINDA vào Cà Mau ngày 2/11/1997 đã làm khoảng 3.000 người thiệt mạng, 3008 tàu thuyền
bị đắm. Nước dâng do bão gây hư hại nghiêm trọng các tuyến đê biển và tổn thất tài nguyên,
tài sản các loại.
Lũ lụt trên các sông Việt Nam
Dòng chảy sông ngòi Việt Nam phân hoá thành hai mùa: mùa lũ và mùa kiệt. Mùa lũ từ 3
- 5 tháng. Từ Bắc vào Nam mùa lũ bắt đầu và kết thúc chậm dần. Mùa lũ ở Bắc Bộ từ tháng 6
đến tháng 9, 10. Nam Thanh Hoá - Nghệ An: tháng 7 - 11, Hà Tĩnh - Bắc đèo Hải Vân: tháng
9 - 12, Nam đèo Hải Vân – Ninh Thuận: tháng 10 - 12, Tây Nguyên: tháng 7, 8 - 11, 12, Nam
Bộ: tháng 7 - 11. Phần còn lại trong năm là mùa kiệt. Dòng chảy phân bố cực đoan theo mùa:
Mùa lũ chiếm 60 - 90% dòng chảy toàn năm, trong đó tháng lũ lớn nhất có dòng chảy lên tới
20 - 30 % tổng lượng toàn năm; Mùa kiệt chỉ có 10 - 40% tổng lượng dòng chảy. Ngoài lũ
chính vụ, sông ngòi các tỉnh ven biển miền Trung còn có mùa lũ tiểu mãn, thường xảy ra vào
tháng 4 - 5. Lũ tiểu mãn thường không lớn nhưng có vai trò cấp nước và phù sa đặc biệt cho
sản xuất nông nghiệp trong khu vực. Trên các sông có lũ tiểu mãn, tỷ phần dòng chảy do lũ
chính vụ cấp trong tổng dòng chảy năm thiên giảm, có thể gây nên những đánh giá sai lầm về
mức độ cực đoan của phân phối dòng chảy.
Trung bình hàng năm sông suối có 3 trận lũ, biên độ lũ sông nhỏ 3 - 5 m, sông vừa và
lớn từ 5 - 10 m đến 15 - 20 m, cường suất lũ lên nhanh nhất ở các sông miền núi, trung bình
từ vài cm đến 1 m/giờ, cực đại 3 m/giờ (Bình Liêu, sông Tiên Yên). Riêng sông Cửu Long
cường suất lũ lên không lớn, cao nhất là 20 - 25 cm/ngày. Tốc độ lũ lớn nhất trên 6 - 7 m/s tại
các sông miền núi: 7,6 m/s tại Bản Điệp, sông Ngòi Thia, 7,4 m/s tại Tài Chi - sông Hà Cối,
6,42 m/s tại Bản Củng - sông Nậm Mu.
Lũ trên hệ thống sông Hồng và Thái Bình có tác động chi phối nhau do được nối thông
với nhau bằng sông Đuống và sông Luộc. Vùng cửa sông chịu ảnh hưởng đáng kể của triều
cản trở thoát lũ. Trong gần 600 năm qua, trung bình 5 năm có một trận lũ lớn để lại dấu ấn
trong lịch sử. Nếu xét mức báo động cấp 3 tại Hà Nội (11,5m) thì từ năm 1902 đến 1998 đã
có 26 trận lũ vượt qua, trung bình mỗi năm là 0,27 trận, tức khoảng 4 năm một lần. Lũ lịch sử
trên sông Hồng xảy ra năm 1971 với mức nước đỉnh lũ tại Hà Nội là 14,67 m (mức hoàn
nguyên) và lưu lượng tại Sơn Tây đạt 37.800m3/s. Trong thế kỷ XIX đã có 188 trận lụt làm
vỡ đê sông Hồng. Ngoài lũ lớn trong sông, mưa lớn gây úng nội đồng cũng là một dạng thiên
tai gây thiệt hại đáng kể. Đê là công trình phòng lũ chính trên hệ thống sông Hồng, việc tiêu
nước mưa nội đồng chủ yếu dựa vào các trạm bơm tiêu.
Các sông miền Trung ngắn và dốc, đồng bằng thấp, hẹp, cửa tiêu thoát hẹp, mưa tập
trung theo từng đợt trên diện rộng, cường độ lớn, sinh lũ lớn tập trung nhanh, cường suất lũ
lên rất lớn, nước rút chậm, các tuyến đường sắt bộ chạy dọc đất nước gây ra sự cản trở thoát
nước mặt, gây ngập úng sâu vùng đồng bằng hẹp và các khu dân cư. Ví dụ tháng 9/1993,
95
lượng mưa ngày lớn nhất tại Tuy Hoà (Phú Yên) là 600mm, kết hợp với lũ lớn ở thượng
nguồn sông Đà Rằng và triều cường ven biển đã làm cho thị xã ngập úng trầm trọng, có nơi
sâu 2 m, mọi hoạt động kinh tế và giao thông tê liệt, thiệt ước tính hàng trăm tỷ đồng. Lũ lớn
liên tiếp tháng 11 và 12 năm 1999 ở miền Trung làm chết trên 700 người, nhiều người khác bị
thương hoặc bệnh, 10.000 người phải sơ tán, nhiều gia đình mất hết nhà cửa, tài sản và kế
sinh nhai, thiệt hại ước tính trên 340 triệu USD.
Lũ đồng bằng sông Cửu Long có ba mức: Mức lớn khi mực nước >4,5 m (40,6% số
năm); mức vừa khi mực nước 4 - 4,5 m (46,2%); mức nhỏ khi mực nước <4 m (13,2%).
Trong 40 năm gần đây có 6 năm lũ lớn, với số ngày duy trì mực nước cao >4,5 m tại Tân
Châu là 52 ngày (1961), 40 (1966), 60 (1978), 32 (1984), 22 (1991 và 1996). 86% đỉnh lũ
đồng bằng sông Cửu Long xuất hiện vào cuối tháng 9, đầu tháng 10. Đỉnh lũ lớn nhất là 5,28
m, quan sát thấy năm 1961, 5,27 m (1966) và 4,94 m (1978). Các vùng bị ngập chính là: 1-
Đồng Tháp Mười, có độ cao từ 0,5 - 2 m, xung quanh bị bao bọc bởi bờ sông Tiền, bờ biển
Gò Công và thềm đất cũ Đông Nam Bộ; 2- Tứ Giác Long Xuyên, đất thấp và dốc nghiêng từ
bờ sông Hậu sang Vịnh Kiên; 3- Vùng đất thấp chua mặn U Minh - Cà Mau nằm sát biển,
không bị ngập bởi nước sông nhưng bị ngập mặn do ảnh hưởng triều.
Ngập úng ở một số đô thị lớn đồng bằng
Hà Nội nằm ở cốt cao độ từ 4 - 11m, thấp hơn mực nước lũ trên sông Hồng. Đường thoát
nước chính của Hà Nội theo trục các sông nội đô, qua cống Thanh Liệt vào sông Nhuệ. Khi
mực nước Thanh Liệt 5,5m sông Tô Lịch không còn khả năng tự chảy, gây úng ngập diện
rộng. Ngoài ra, do địa hình không bằng phẳng, những vùng trũng kín cứ mưa xuống là úng
ngập cục bộ do không tiêu thoát được nước tại chỗ và phải nhận thêm nước từ các hố ga đùn
lên. Nhu cầu thoát nước Hà Nội cho trận mưa có chu kỳ lặp 10 năm, là 170 m3/s, trong khi đó
sông Tô Lịch chỉ có khả năng thoát 30-35 m3/s. Do vậy Hà Nội hàng năm thường xảy ra ngập
úng vào mùa mưa, chỉ với lượng mưa 50mm trong 2 - 3 giờ đã có thể làm ngập trên 40 điểm
trong nội đô. Ngày 9/11/1984 trận mưa 614mm đã làm 45% diện tích thành phố bị ngập từ 30
- 50 cm, có nơi ngập trên 1m, thời gian ngập nhiều nơi đến 7 - 8 ngày, tác động sâu sắc đến
các hoạt động đời sống, sản xuất, cấp điện, giao thông… Khu vực Nam và Đông Nam Tp. Hồ
Chí Minh thấp, cao độ 1 - 2m, trong khi cao độ đáy cống thành phố ra sông Sài Gòn là 1 - 1,8
m, úng ngập lớn trên diện rộng trong thời gian dài xảy ra do tổ hợp tác động của mưa, triều và
xả nước hai hồ chứa Dầu Tiếng, Trị An
Bảng 6.7.
Thiệt hại do lũ lụt ở Việt Nam từ 1971 - 2002
Năm
Thiệt hại
(USD)
Chết
(người)
Năm
Thiệt hại
(USD)
Chết
(người)
1971
1973
1978
1980
1983
1985
1986
1987
1988
1989
1990
1991
78
57
20
10
19
-
110
28
35
74
17
44
62
82
260
255
610
79
107
776
638
545
332
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
62
82
260
255
610
79
107
776
638
545
332
352
387
507
756
3.621
237
245
5.122
4.310
2.481
1.915
Hậu quả do mưa lũ, úng ngập lụt thường rất to lớn. Chúng gây thiệt hại nặng nề về người,
phá huỷ cơ sở vật chất, kỹ thuật, tổn thất tài nguyên gây ô nhiễm, tàn phá môi trường, làm
96
gián đoạn các hoạt động kinh tế, dân sinh trực tiếp và lâu dài, gây xáo trộn xã hội, gián đoạn
phát triển kinh tế tại chỗ và các vùng liên đới quy mô lớn hơn.
Theo UNDP, thiệt hại do lũ lụt hàng năm ở đồng bằng sông Hồng và ven biển miền
Trung lên đến 130 triệu USD.
Hạn chế liên quan đến chất lượng nước
Những vấn đề đáng lưu tâm hơn cả trong chất lượng nước sông ngòi Việt Nam hiện nay
là phù sa và nhiễm mặn. Lượng cát bùn trong sông nói chung là lớn và tập trung nhiều vào
mùa lũ (hơn 90% tổng lượng cát bùn năm). Tổng lượng phù sa lơ lửng do hệ thống sông tải ra
biển tới 300 triệu tấn/năm, trong đó riêng sông Hồng cung cấp khoảng 120 triệu tấn (qua Sơn
Tây), Cửu Long gần 100 triệu tấn (qua Phnom Pênh). Hàm lượng phù sa cao tạo ra tính phức
tạp của biến hình lòng sông, tăng khả năng hình thành bồi tụ trong đồng bằng châu thổ và cửa
sông ven biển, giảm hiệu quả sử dụng hệ thống thuỷ lợi và hồ chứa. Phù sa cung cấp nguồn
dinh dưỡng có giá trị cho các hệ sinh thái nông nghiệp vùng được bồi tụ và hệ thuỷ sinh trong
các thuỷ vực. Tuy nhiên, phù sa lớn là yếu tố bất lợi cho nhiều đối tượng dùng nước yêu cầu
cao, làm tăng giá thành xử lý nước.
Xâm nhập mặn phụ thuộc độ dốc mặt nước sông và tương quan giữa hai khối nước mặn,
ngọt. Các sông miền Trung có độ dốc lớn nên có mức độ ảnh hưởng mặn ít hơn cả. Tại đồng
bằng sông Cửu Long diện tích vùng bị nhiễm mặn (mức 4 g/l) chiếm tới trên 1 triệu km2, bao
trùm toàn bộ bán đảo Cà Mau, vùng Hà Tiên, Cửu Long, Bến Tre, Mỹ Tho. Xâm nhập mặn
gây ảnh hưởng nghiêm trọng nhất cho lĩnh vực nông nghiệp, đặc biệt là trong mùa kiệt và là
tác nhân đáng lưu ý trong khai thác sử dụng nước ngầm.
Các loại tai biến môi trường khác
Ở Việt Nam đất trượt thường xảy ra ở nhiều miền núi Tây Bắc, Đông Bắc, Nam Trung
Bộ và dọc các con sông lớn. Vùng đồi núi, dọc các tuyến giao thông, đất thường sạt lở sau
những trận mưa to.
Núi lở thường xảy ra ở sườn dốc có độ dốc từ 30o đến 45o trở lên. Tác nhân gây núi lở là
đặc điểm sườn núi (độ dốc, cây cối, tính chất đất đá…) và điều kiện khí hậu. Núi lở cũng
thường xảy ra ở các vùng mỏ. Những núi đất đá thải trong quá trình khai thác quặng có thể đổ
ụp xuống mỗi khi có mưa to hay động đất. Ngày 4/6/1987 núi Mông Dương lở, lũ bùn cùng
nước biển tràn vào làm ngập toàn bộ hầm lò mỏ than Mông Dương, Quảng Ninh ở độ sâu
97m, may không có ai bị tử vong.
Bảng 6.8.
Mức độ ác liệt của thiên tai ở Việt Nam [ 9 ]
Vùng Bão Lũ
Lũ
quét
Hạn
hán
Hoang mạc
hóa
Nhiễm
mặn
Ngập
úng
Lở
đất
Đ - B +++ +++ +++ - - - ++
T - B +++ ++ +++ +++ - - - ++
ĐB sông Hồng ++++ ++++ - + - + +++ ++
Bắc Tr. Bộ ++++ ++++ +++ +++ ++ ++ ++ ++
Duyên hải
NTr. Bộ
++++ ++++ +++ ++++ ++ ++ ++ ++
Tây Nguyên ++ ++ +++ +++ + - - +
Đ Nam Bộ +++ +++ +++ ++ ++ ++ ++ ++
ĐB sông Cửu Long ++ ++++ + ++ + +++ +++ ++
Ở Việt Nam xu hướng tăng các hiện tượng thời tiết cực đoan thể hiện rõ. Đó là tăng các
trận mưa có cường độ lớn, tăng số trận bão đổ bộ vào Nam Trung Bộ, tăng các trận mưa do
bão kết hợp không khí lạnh gây mưa rất lớn. Bão phát sinh từ Thái Bình Dương và biển Đông
97
có thể tăng 1 - 2 trận/năm, cấp bão tăng 1 - 2 cấp, thời kỳ tái diễn cùng một cấp bão giảm 20 -
50%.
Theo số liệu của Tổng cục Khí tượng Thuỷ văn, ở Việt Nam EnNino gây hệ quả như sau:
1- Tần số bão và áp thấp nhiệt đới giảm, từ 5,9 xuống 5,3 cơn/ năm; 2- Mùa nóng dài hơn,
nhiệt độ không khí tăng (rõ rệt nhất là ở phía Nam); 3- Mùa mưa ngắn, bắt đầu chậm, kết thúc
sớm, lượng mưa các tháng đa phần giảm, đặc biệt là vào mùa hè ở Bắc Trung Bộ. Hạn
nghiêm trọng thường xảy ra trong thời kỳ EnNino, đặc biệt là ở miền Trung và miền Nam,
gây hệ quả xấu cho các hệ sinh thái tự nhiên và tổn hại nghiêm trọng cho nền kinh tế. Trong
kỳ EnNino 1997 - 1998, hạn hán gây thiệt hại cho nền kinh tế 5.000 tỷ đồng.
LaNina gây hệ quả như sau: 1- Tần số bão và áp thấp nhiệt đới tăng mạnh, từ 5,9 lên 8,3
cơn/năm; 2- Nhiệt độ miền Bắc lạnh hơn, miền Nam nóng hơn ; 3- Mùa nóng ngắn hơn, mùa
đông dài hơn 5 - 16 ngày; Lũ lụt thường nghiêm trọng.
Vào năm 2070, ước tính nhiệt độ không khí sẽ tăng 1,5 - 2,5oC, lượng dòng chảy trung
bình năm có thể giảm 5%, gây nguy cơ thiếu nước cấp. Trong khi đó, lượng mưa ở tâm bão
tăng 20%, lượng mưa ngày lớn nhất có thể tăng 5 - 10% ở Bắc Bộ, 10 - 15% ở Bắc Trung Bộ,
15 - 20% ở Nam Trung Bộ. Do đó khả năng xảy ra lũ lớn và lũ quét cũng tăng.
Ước tính lưu lượng đỉnh lũ ở các lưu vực vừa và nhỏ sẽ tăng như sau: 3 - 7% ở Bắc Bộ, 7
- 12% ở Bắc Trung Bộ, 12 - 15% ở Nam Trung Bộ.
6.1.6 Nhu cầu về nước
Nhu cầu tiêu thụ nước những năm 90 ước tính khoảng 50 tỷ m3/năm, trong đó nông
nghiệp sử dụng 92 %, công nghiệp 5% và sinh hoạt 4%. Gần 84% lượng nước khai thác từ
nguồn nước dưới đất được sử dụng cho các mục đích nông nghiệp, tuy nhiên mức khai thác
này vẫn đảm bảo dòng chảy môi trường thấp nhất của các sông ngòi (30% dòng chảy năm
thấp nhất).
Việt Nam là nước Đông Nam Á chi phí nhiều nhất cho thủy lợi. Cả nước hiện có 75 hệ
thống thủy nông, với 659 hồ, đập lớn và vừa, trên 3.500 hồ, đập nhỏ, 1.000 cống tiêu, trên
2.000 trạm bơm lớn nhỏ, trên 10.000 máy bơm các loại, có khả năng cung cấp 60 - 70 tỷ
m3/năm. Tuy nhiên, nhiều hệ thống thuỷ nông đã xuống cấp nghiêm trọng, chỉ đáp ứng được
50 - 60% công suất thiết kế.
Từ năm 1998 diện tích được tưới tăng trung bình mỗi năm khoảng 3,4%, nhưng các hệ
thống tưới chỉ có thể đáp ứng cho 7,4 triệu ha (bằng khoảng 80% tổng diện tích đất trồng).
Năm 2000 nông nghiệp tiêu thụ 76,6, tỷ m3 nước, chiếm 84% tổng nhu cầu.
Bảng 6.9.
Nhu cầu sử dụng nước theo vùng ở Việt Nam [ 8 ]
Vùng
Tổng trữ
lượng W
10
6
m
3
Tưới
% TNC
Sinh hoạt
% TNC
Công nghiệp
% TNC
Dịch vụ %
TNC
Tổng nhu
cầu TNC
10
6
m
3
% TNC
so vớiW
Đông Bắc 22 88,9 1,1 4,0 3,3 5,06 14
Tây Bắc 56 88,7 5,6 1,3 1,4 3,95 9
Đồng bằng
sông Hồng
141 84,7 2,1 6,2 5,1 17,42 12
Bắc Trung
Bộ
46 89,2 2,3 2,6 2,1 10,72 23
Duyên hải
Nam Trung
Bộ
33 90,5 1,4 4,4 1,6 11,47 35
Tây Nguyên 45,7 85,4 1,7 1,0 0,7 4,81 11
98
Đông Nam
Bộ
44,4 37,2 4,4 41,6 14,5 7,42 17
ĐB sông
Cửu Long
533 89,4 1,3 2,5 1,9 30,44 6
Dự tính tới năm 2030 dân số cả nước đạt 129 triệu trong đó dân thành phố lên 60 triệu,
kinh tế tăng trưởng 10 lần, GDP đầu người tăng 7 lần, diện tích tưới tăng 3,4%/năm, chuẩn
cấp nước tăng gấp đôi, 150 lít/ngày/người, 100% dân được cấp nước sạch vào năm 2020. Cơ
cấu dùng nước sẽ thay đổi theo xu hướng nông nghiệp 75%, công nghiệp 16%, tiêu dùng 9%.
Nhu cầu nước dùng sẽ tăng gấp đôi, chiếm khoảng 1/10 tổng lượng nước sông ngòi, 1/3 lượng
nước nội địa, 1/3 lượng dòng chảy ổn định.
Tăng dân số và đô thị hoá dẫn đến tăng mạnh nhu cầu nước và tăng xả thải ô nhiễm. Tăng
trưởng kinh tế và công nghiệp hoá cũng làm tăng nhu cầu nước và tăng xả thải ô nhiễm. Tăng
giá trị bất động sản và đất đai, tăng mật độ dân số, tăng dân trong các vùng rủi ro cao làm tăng
rủi ro tài chính và kinh tế gắn liền với lũ lụt, tăng nhu cầu đầu tư cho nhóm nghèo nhất.
Việt Nam có tài nguyên nước dồi dào, nên trong tương lai gần nhu cầu lượng nước dùng
vẫn nằm trong khả năng cung cấp bền vững. Tuy nhiên, do nước phân phối theo không gian
và thời gian không đồng đều, không đồng pha với biến trình nhu cầu, nên đã có những vùng
chịu tác động bất lợi của việc thiếu nước sinh hoạt, sản xuất trong mùa kiệt. Tuy hạn hán
không kéo dài, nhưng các đợt hạn thường rất nghiêm trọng, gây thiếu nước cho tưới, thuỷ
điện và cấp nước. Miền Trung Việt Nam đã có biểu hiện hoang mạc hoá và hạn hán xảy ra
thường xuyên trong thập kỷ trước. Duyên hải Nam Trung Bộ là khu vực hay bị hạn hán nhất.
Tại Tây Nguyên, từ năm 1980, hạn hán xảy ra thường xuyên với tần suất hạn khốc liệt 5
năm/lần. Năm 2003 lưu lượng nước trong tất cả các sông suối ít hơn 20 - 50 % so với cùng kỳ
2002. Mực nước hồ chứa xuống dưới mực nước chết, gương nước ngầm hạ thấp từ 1,5 - 2m
đến 3 - 4m, gây thiếu nước sinh hoạt cho hàng trăm nghìn hộ dân. Năm 2002 hạn nghiêm
trọng ở duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Ngoài thiệt hại về mùa
màng, hạn còn góp phần gây cháy rừng diện rộng, trong đó có trận cháy 5.000 ha rừng U
Minh Thượng và U Minh Hạ.
Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn ở Việt Nam đang là vấn đề nan giải do
những khó khăn tự nhiên và kinh tế xã hội của vùng. 76,6% dân số Việt Nam đang sinh sống
ở nông thôn, trong những điều kiện rất hạn chế về việc cấp thoát nước. trên 50% hộ dân đang
dùng nước giếng khơi, 25% dùng nước sông suối, trên 10% dùng nước mưa. Ước tính, mới có
khoảng 30% dân số có nguồn nước tương đối sạch, trong đó chỉ có khoảng 10% đạt tiêu
chuẩn quốc gia.
Theo Uỷ ban Quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường, nông thôn Việt nam có thể
chia thành 5 vùng cấp thoát nước cơ bản như sau:
Vùng ven biển, chạy dài từ Móng Cái đến Hà Tiên, bao gồm 91 huyện với diện tích tự
nhiên 2,4 triệu ha, có trên 14 triệu dân. Nguồn nước ngọt cũng như việc cấp nước ở đây rất
khó khăn, nước mặt và nước ngầm sát đất bị nhiễm mặn, đất chủ yếu thuộc loại cát và cát pha,
không thể xây dựng hồ chứa.
Vùng nội đồng, nằm giữa ven biển và trung du, bao gồm 126 huyện, đất đai màu mỡ, 26
triệu dân. Dân đông, ở phân tán không theo quy hoạch, khó tổ chức hệ thống cấp nước tập
trung. Nguồn nước sinh hoạt ở đây chủ yếu từ nước mưa, nước sông ngòi, hồ ao, giếng khơi
lấy nước mạch ngang có chất lượng xấu như nước mặt.
Vùng bán sơn địa, cao 25 - 300m, gồm 70 huyện, diện tích 5 triệu ha, đất khô cằn, trơ
trụi, bị rửa trôi, bạc màu, chua và nghèo dinh dưỡng. Dân số 8,5 triệu người, sống tập trung ở
99
các vùng đất bằng, ven các chân đồi nơi mạch nước ngầm nông hoặc lộ ngay trên mặt đất,
chất lượng nước tốt.
Vùng núi thấp, cao 300 - 900m ở phía Bắc, 300 - 700m ở phía Nam, gồm 67 huyện, dân
số 6,5 triệu người. Diện tích tự nhiên 9,5 triệu ha, chủ yếu trồng cây công nghiệp. Do rừng bị
tàn phá nên cân bằng sinh thái bị phá huỷ, nhiều nguồn nước tự nhiên bị cạn kiệt, hồ chứa
không có nước, giếng đào nhanh cạn, cung cấp nước gặp nhiều khó khăn. Cần có nhiều hồ
chứa điều tiết dòng chảy.
Vùng núi cao, gồm 64 huyện, diện tích tự nhiên 11,4 triệu ha, dân số 3,5 triệu người, đa
phần là dân tộc thiểu số. Đây là vùng đất hấp dẫn dân di cư, đến năm 2010 có thể số dân lên
tới 10 triệu người, nhưng cũng là vùng có nhiều vấn đề về nước, mùa lũ ác liệt, mùa kiệt thiếu
nước nghiêm trọng.
Giao thông thuỷ có lợi thế quan trọng là an toàn cao, giá cước thấp, chỉ bằng 1/3 giá vận
tải đường thuỷ và bộ, đồng thời thích hợp cho việc vận tải hàng siêu trường siêu trọng. Trong
tổng chiều dài 41.900 km sông tự nhiên, giao thông thuỷ hiện đang khai thác 11.226 km
(26%).
Mạng lưới đường sông phía Bắc chủ yếu tập trung ở đồng bằng sông Hồng, luồng có độ
sâu tối thiểu 1,5 - 2m, rộng đáy nhỏ nhất 30 - 60m, mức nước chênh lệch giữa hai mùa từ 5 -
7m, mùa kiệt bị hạn chế bởi độ sâu, sau mùa lũ thường tạo nên những bãi cạn biến động hàng
năm.
Luồng lạch các sông phía Nam có chiều rộng đáy 30 - 100m, độ sâu tối thiểu 2,5 - 3m, rất
thuận lợi cho giao thông thủy, tuy nhiên vận tải thuỷ chịu tác động của tĩnh không thấp, khẩu
độ hẹp và nhiều chướng ngại vật dưới sông do lịch sử để lại.
Sông miền Trung mùa lũ nước chảy xiết, mùa cạn thượng nguồn nông, không thuận lợi
cho phát triển giao thông thủy.
6.1.7 Quản lý tài nguyên nước ở Việt Nam
Luật tài nguyên nước được Quốc hội thông qua 20/5/1998, có hiệu lực từ tháng 1/1999.
Luật được xây dựng làm khung pháp lý linh hoạt và sẽ được bổ sung các nghị định quy định
trách nhiệm và nhiệm vụ của các tổ chức, cơ quan thực hiện.
Nội dung cơ bản của Luật bảo vệ tài nguyên nước là:
Xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khi tham gia các quan hệ phát sinh từ việc
khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước.
Quy định quyền hạn, nghĩa vụ và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong quản lý và
bảo vệ tài nguyên nước.
Quy định các tiêu chuẩn về nước làm cơ sở cho công tác kiểm soát, giám sát và bảo vệ
môi trường.
Điểm đặc biệt của Luật tài nguyên nước là cách tiếp cận quản lý mang tính liên ngành và
phối hợp. Trên cơ sở đó Việt Nam đã thành lập Hội đồng quốc gia về tài nguyên nước và các
ban quản lý, quy hoạch lưu vực ở cấp địa phương (hiện đã thành lập được 3 ban quản lý lưu
vực sông Cửu Long, Đồng Nai và sông Hồng - Thái Bình). Đây là các đơn vị trực thuộc
Chính phủ, có nhiệm vụ tư vấn giúp Chính phủ điều phối và quy hoạch phát triển và tiêu thụ
nước
100
Hộp 6.2.
Các văn bản luật pháp chính của Việt Nam liên quan đến quản lý tài nguyên nước [ 9]
Luật bảo vệ môi trường 27/12/1993. Nghị định 75/CP ngày 18/10/1994 về hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ
môi trường. Nghị định 26/CP ngày 26/4/1996 quy định xử phạt vi phạm hành chính về môi trường. Nghị định
67/2003/NĐ-CP về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải. Quyết định 155/QĐ-TTg 16/7/1999 về ban hành
Quy chế quản lý chất thải nguy hại (bao gồm cả nước thải nguy hại)
Luật đất đai 14/7/1993 và sửa đổi năm 2001. Quyết định 327-CT của Chủ tịch hội đồng Bộ trưởng 15/9/1992
về một số chủ trương chính sách sử dụng đất trống đồi núi trọc, rừng, bãi bồi ven biển và mặt nước.
Luật tài nguyên nước 20/5/1998 và Nghị định 179/1999/NĐ-CP về thi hành Luật tài nguyên nước. Chỉ thị
487/TTg 30/7/1996 về tăng cường quản lý nhà nước đối với tài nguyên nước.
Chỉ thị 200/TTg 29/4/1994 về bảo đảm cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. Quyết định
299/TTg 18/3/1998 về định hướng phát triển cấp và thoát nước đô thị đến 2020.
Pháp lệnh về phát triển và bảo vệ nguồn lợi thủy sản 1989. Nghị định 43/NĐ-CP 2/5/2003 quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Thủy sản. Nghị định 70/NĐ-CP 17/6/2003 quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong ngành thủy sản. Luật tài nguyên thủy sản (dự kiến).
Pháp lệnh phòng chống lụt bão 1993, bổ sung và sửa đổi 2000. Quyết định 299/TTg 13/5/1996 hướng dẫn
thành lập Ủy ban Phòng chống lụt bão trung ương
Quyết định 67/QQĐ-TTg 15/6/2000 thành lập Hội đồng quốc gia về tài nguyên nước. Quyết định 104/QQĐ-
TTg 15/6/2000 về quy chế tổ chức và hoạt động của Hội đồng quốc gia về tài nguyên nước.
Quyết định 860/TTg 30/12/1995 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu của Ủy ban sông Mê Công
Việt Nam. Quyết định 37, 38, 39/QĐ-BNN-TCCB của Bộ trưởng BNN&PTNT 9/4/2001 về thành lập Ban quản lý và
quy hoạch các lưu vực sông Cửu Long, Đồng Nai, sông Hồng - Thái Bình.
Quyết định 357/BNN&PTNT 13/3/1997 ban hành quy chế tạm thời thực hiện chế độ cấp phép thăm dò, khai
thác, hành nghề khoan nước ngầm và đăng ký công trình khai thác nước ngầm
Quyết định 395/QĐ-BKHCNMT 10/4/1998 ban hành quy chế bảo vệ môi trường trong các hoạt động tìm
kiếm, thăm dò, phát triển mỏ , khai thác, tàng trữ, vận chuyển chế biến dầu khí và các dịch vụ liên quan.
Trách nhiệm quản lý tài nguyên nước được chia sẻ cho 9 bộ và cơ quan ngang bộ chịu
trách nhiệm trong từng nội dung công việc cụ thể (Bảng 6.10). Uỷ ban nhân dân các tỉnh chịu
trách nhiệm thực thi các chức năng quản lý ở cấp tỉnh và huyện. Chi phí cho quản lý tài
nguyên nước từ ngân sách không được phân bổ thành mục riêng. Ước tính đầu tư của nhà
nước cho ngành nước chiếm 33% ngân sách giai đoạn 1996 - 1998 và 21% năm 2001 (8,559
tỷ đồng), bao gồm 64% từ nguồn ODA và 36% từ đầu tư trực tiếp trong nước, chủ yếu tập
trung vào thủy lợi và cấp thoát nước.
Bảng 6.10.
Chức năng của các cơ quan nhà nước Việt Nam trong quản lý nguồn nước
[ 9 ]
Cơ quan Trách nhiệm
Bộ Tài
nguyên
và Môi
trường
Quản lý chung về tài nguyên nước. Cục Quản lý tài nguyên
nước quản lý nhà nước, kiểm kê, xây dựng và quản lý cơ sở
dữ liệu về tài nguyên nước. Vụ khí tượng thủy văn quản lý nhà
nước về xây dựng chính sách tiêu chuẩn, quy trình khảo sát
các thông số nền và quản lý dữ liệu. Cục Địa chất khoáng sản
quản lý nước khoáng.
Bộ NN
và PTNT
Quản lý các hệ thống phòng chống lụt bão, công trình thuỷ lợi,
cấp nước sạch, vệ sinh môi trường nông thôn
Bộ Công
nghiệp
Xây dựng, vận hành, quản lý các cơ sở thuỷ điện
Bộ Xây
dựng
Quy hoạch không gian và xây dựng các công trình cấp thoát
nước và vệ sinh
Bộ Giao
thông
Quy hoạch, xây dựng và quản lý các hệ thống giao thông thuỷ
Bộ Thuỷ
sản
Bảo vệ và khai thác các nguồn lợi thuỷ sản
Bộ Y tế Quản lý chất lượng nước dùng trong ăn uống
Bộ KH
và Đầu
tư
Xây dựng kế hoạch đầu tư cho nguồn nước
Bộ Tài
chính
Xây dựng chính sách về thuế và phí tài nguyên nước
101
Hệ thống quan trắc tài nguyên nước
Mạng lưới quan trắc thủy văn hiện có 232 trạm phân bố trên toàn bộ các hệ thống sông,
đo đạc các yếu tố thủy văn theo quy phạm thống nhất, liên tục. Trách nhiệm xử lý và phân
tích dữ liệu được giao cho 9 trung tâm khí tượng thủy văn cấp vùng.
Mạng quan trắc môi trường năm 2002 có 21 trạm, quan trắc tại 250 điểm thuộc 45 tỉnh
thành, bao gồm cả những điểm nóng như khu công nghiệp, thành phố lớn và các vùng sinh
thái nhạy cảm. Tần suất quan trắc 6lần/năm. Kết quả quan trắc được giao cho phòng dữ liệu
và thông tin cục bảo vệ môi trường.
Mạng quan trắc nước dưới đất có 310 trạm với trên 600 điểm phủ rộng trên toàn quốc, do
Cục địa chất khoáng sản quản lý.
Bộ Thủy sản tiến hành quan trắc chất lượng nước ở các khu vực có hoạt động nuôi trồng
thủy sản.
Bộ Y tế chịu trách nhiệm giám sát chất lượng nước uống.
6.2 Các lưu vực sông lớn ở Việt Nam
6.2.1 Lưu vực sông Hồng - Thái Bình
Đặc điểm hệ thống sông và tài nguyên nước
Sông Hồng dài 1.126km, bắt nguồn từ núi Ngụy Sơn, Vân Nam Trung Quốc, vào Việt
Nam tại Hà Khẩu, chảy theo hướng chính Tây Bắc - Đông Nam, đổ ra biển qua cửa chính Ba
Lạt (dài 556km). Mật độ lưới sông 1 km/km2, hệ số uốn khúc 1,5. Lưu vực có độ cao bình
quân 647m, độ dốc 29,9%, diện tích 143.700km2, phần thuộc Việt Nam là 61.400 km2. Tổng
phụ lưu từ cấp 1 -6 là 614. Phân lưu hữu ngạn có: sông Đáy tách ra ở Hát Môn, sông Phủ Lý
tách ra ở Hưng Yên, sông Nam Định, sông Ninh Cơ tách ra từ Xuân Trường. Phân lưu tả ngạn
có: sông Trà Lý tách ra từ Thương Hộ, sông Đuống và sông Luộc chia nước sang hệ thống
sông Thái Bình.
Dòng chảy sông Hồng rất dồi dào nhưng phân bố không đều. Tổng lượng 126,8km3/năm,
trong đó riêng sông Đà đóng góp 57%. Mô đun dòng chảy 25,7 l/s.km2. Phần lưu vực thuộc
Trung Quốc chỉ tạo ra 40% lượng dòng chảy toàn hệ thống. Các tâm dòng chảy lớn đều ở Việt
Nam và trùng với tâm mưa lớn là Bắc Quang, Hoàng Liên Sơn, Mường Tè, mô đun dòng
chảy 70 - 100 l/s.km2. Tâm dòng chảy nhỏ nhất ở Đồng Văn, Sơn La, Mộc Châu, mô đun
dòng chảy 15 - 20 l/s.km2. Tại Sơn Tây lưu lượng trung bình là 3.600m3/s, lớn nhất
37.800m3/s (tháng 7/1991), nhỏ nhất 840m3/s, chênh nhau 45 lần.
Biến đổi lượng nước năm không nhiều, chênh lệch giữa năm nhiều nước và năm ít nước
khoảng 2 - 3 lần. Phân phối dòng chảy theo mùa cực đoan. Mùa lũ, từ tháng 6 - 10, cung cấp
70 - 78 % tổng lượng dòng chảy năm, tháng 8 thường có lượng dòng chảy lớn nhất, 19 - 23%.
Kiệt nhất thường gặp vào tháng 3, dòng chảy chỉ đạt 1,7 - 2,5%. Lũ sông Hồng phức tạp và ác
liệt, đặc biệt là ở hạ lưu, do ba sông nhánh hợp lưu cùng một chỗ, bờ sông bị hệ thống đê
khống chế, thềm bãi sông bị ngăn chặn. Đường quá trình dòng chảy có dạng răng cưa, lên
xuống hàng chục lần trong mùa lũ, biên độ lũ lớn, cường suất lũ lên lớn, 3 - 7 m/ngày, tốc độ
dòng chảy lũ lớn, 3 - 5 m/s.
102
Phù sa sông Hồng vào loại lớn, tại Sơn Tây độ đục là 1.310 g/m3, tổng lượng phù sa 120
triệu tấn/năm, trong đó sông Đà cung cấp 53%, sông Thao 35%. Phù sa mùa lũ lớn gấp 5 - 7
lần mùa kiệt, tại Sơn Tây mùa lũ 3.500g/m3, mùa kiệt - 500 g/m3.
Sông Thái Bình bắt nguồn từ núi Va Ôn 1.060m, đổ ra biển qua cửa Thái Bình, Văn Úc,
Cấm. Thái Bình do ba phụ lưu lớn là sông Cầu (từ Tam Đảo), sông Thương (từ Lạng Sơn) và
sông Lục Nam (từ Đình Lập, là phụ lưu của sông Thương) hợp thành, dài 385km, diện tích
lưu vực 12.680km2, độ cao trung bình 190m, độ dốc 16,1% Mạng lưới sông xếp theo hình
nan quạt, xoè rộng ở Đông Bắc và quy tụ tại Phả Lại, mật độ 2,1 km/km2, hệ số uốn khúc
2,02; Tổng phụ lưu từ cấp 1 - 6 là 143. Lượng nước sông Thái Bình tại Phả Lại 9,19
km3/năm, trong đó dòng chảy ngầm chiếm 20%. Hàng năm, sông Thái Bình nhận được từ
sông Hồng gần 33 tỷ m3 nước và 17 triệu tấn phù sa. Mùa lũ từ tháng 6 - 9,10 với dòng chảy
chiếm 75% tổng lượng năm. Lưu vực sông Cầu khá ẩm ướt, mật độ sông suối phát triển 0,95 -
1,2 km/km2, lũ ác liệt, cường suất lũ 1 - 2,5 m/giờ, biên độ mực nước 4 - 10m. Mạng lưới
sông Thương kém phát triển, nhất là vùng đá vôi bờ phải thượng và trung du, mật độ 0,5 - 0,7
km/km2. Vùng thượng lưu từ Chi Lăng lên thuộc loại ít nước nhất miền Bắc, 13,3 l/s.km2.
Chế độ nước sông Lục Nam cực đoan nhất miền Bắc và dòng chảy ngầm bé nhất miền Bắc
(17 - 20% tổng lượng dòng chảy năm).
Đặc điểm dân cư kinh tế xã hội và hiện trạng khai thác tài nguyên nước
Lưu vực sông Hồng - Thái Bình là nơi sinh sống của 1/3 dân số và sản xuất khoảng 1/5
lượng gạo cả nước. Riêng đồng bằng, diện tích 17.000 km2, là nơi cư trú của 17 triệu dân, tạo
ra trên 4/5 thu nhập toàn lưu vực và 1/5 GDP. Cơ cấu kinh tế đồng bằng là nông nghiệp 35%,
công nghiệp 24% và các dịch vụ 41%.
Hiện tại nhu cầu nước dùng cho nông nghiệp là lớn nhất, chiếm khoảng 90% tổng lượng
tiêu thụ. Gần như toàn bộ diện tích trồng lúa trong châu thổ này đều cần các biện pháp thuỷ
lợi. Tưới bơm cấp nước cho khoảng 500.000ha, tiêu bằng bơm phục vụ 450.000ha, phần còn
lại được tưới tiêu tự chảy. Hệ thống thuỷ lợi thiếu đồng bộ và kém hiệu quả đang gây tổn thất
tài nguyên nước và thiếu nước cho sản xuất nông nghiệp.
Tài nguyên nước lưu vực phong phú, thuận lợi cho khai thác, đáp ứng đủ nhu cầu cấp
nước trong tất cả các mùa cho trước mắt và trong tương lai gần. Nước tiêu thụ hiện chiếm 1/4
- 1/2 lượng nước trong sông, tháng 1 cần dưới 700 m3/s trong khi lưu lượng tại Sơn Tây là
1.367 m3/s, tháng 3 cần khoảng 300 m3/s, trong khi lưu lượng tại Sơn Tây là 1.270 m3/s. Một
số nơi ở Thái Bình đã xảy ra thiếu nước vào những năm hạn lớn.
Chất lượng nước mặt nhìn chung tốt, đáp ứng các nhu cầu sử dụng. Tuy nhiên vẫn còn
tồn tại ba vấn đề đáng lưu ý: Phù sa lớn không thuận lợi cho phục vụ sinh hoạt và sản xuất
công nghiệp, nhiễm mặn vùng cửa sông ven biển làm giảm khả năng cấp nước và ảnh hưởng
tới sản xuất, ô nhiễm nghiêm trọng tại những vùng trực tiếp nhận nước thải của các đô thị và
trung tâm công nghiệp.
Trữ lượng các tầng chứa nước đồng bằng khoảng trên 1 tỷ m3/năm. Khai thác nước ngầm
chủ yếu phục vụ cho sinh hoạt và một phần rất nhỏ để tưới. Các vấn đề về nước ngầm hiện
nay liên quan chủ yếu tới chất lượng. Khoảng 50% số giếng trong lưu vực không đạt ít nhất
một tiêu chuẩn cho phép nào đó, trong đó 19% bị nhiễm mặn bởi nước biển, 3% có hàm
lượng nitơrat vượt quá tiêu chuẩn cho phép.
Thiên tai rủi ro lớn nhất liên quan tới nước trên lưu vực là lũ lụt. Trung bình cứ 10 năm
thì có khoảng 15 trận bão đổ bộ vào bờ biển lưu vực gây gió to, mưa bão lớn trên diện rộng và
103
sóng cao. Tại hạ lưu sông Hồng vấn đề xói lở bờ sông cục bộ vẫn xảy ra liên tục và có xu thế
ngày càng tăng.
Điều kiện khí hậu và nhu cầu lương thực khiến hình thành trên đồng bằng châu thổ sông
Hồng - Thái Bình truyền thống canh tác lúa nước hai ba vụ với yêu cầu chặt chẽ về thời vụ.
Do các vụ đều có nguy cơ chịu rủi ro do lũ lụt, xâm nhập mặn, một tập quán lâu đời chung
sống với lũ lụt đã khởi sinh từ đầu Công nguyên và đứng vững tại đây. Hiện lưu vực có
khoảng 3.000 km đê sông và 1.500 km đê biển. Trong 80 năm thực dân Pháp đô hộ nước ta đã
thống kê được 34 năm có vỡ đê sông Hồng và 18 năm vỡ đê Văn Giang. Mỗi lần vỡ đê là một
thảm hoạ, ngoài tổn thất người và của do bị lũ cuốn trực tiếp thì tổn thất sau lũ do nạn đói và
dịch bệnh hoành hành cũng rất nghiêm trọng.
Điều tiết dòng chảy bằng hồ chứa đa mục đích đang được áp dụng đạt kết quả tại lưu vực
sông Hồng, với hai hồ chứa lớn và rất nhiều hồ chứa nhỏ. Dung tích chứa nước thường xuyên
của hồ Hoà Bình là 5,6 tỷ m3, của hồ Thác Bà là 1,2 tỷ m3, tuy nhiên chúng chỉ có khả năng
cắt lũ cho Hà Nội ở mức hạn chế. Ngoài nhiệm vụ phòng lũ, các hồ chứa lớn còn có phục vụ
phát điện, giao thông, cấp nước, nuôi trồng thuỷ sản, du lịch. Bất lợi của việc điều tiết dòng
chảy bằng kho nước trên lưu vực sông Hồng là kéo dài thời gian lũ, tăng nguy cơ đe doạ các
đoạn đê xung yếu. Việc xả nước trong mùa kiệt theo kế hoạch phát điện (xả không đều đặn)
có thể làm tăng nguy cơ mặn xâm nhập sâu khi mực nước trong sông hạ thấp. Rủi ro vỡ đập
có xác suất rất nhỏ nhưng lại có nguy cơ gây tổn thất rất cao.
Tương lai, lưu vực sông Hồng - Thái Bình được qui hoạch phát triển mạnh, cư dân đô thị
sẽ tăng đến 80% và sản lượng công nghiệp chiếm khoảng 1/2 tổng sản phẩm lưu vực. Điều
này đồng nghĩa với sự tăng mạnh nhu cầu nước dùng chất lượng cao và tăng nguy cơ gây ô
nhiễm các nguồn nước do nước thải. Mặt khác nhu cầu nước cho nông nghiệp có khả năng
giảm do giảm diện tích đất nông nghiệp và chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Hiệu suất sử dụng
nước chắc chắn sẽ được nâng cao nhờ hoàn thiện các hệ thống thuỷ nông và quản lý tốt tài
nguyên.
6.2.2 Lưu vực sông Kỳ Cùng - Bằng Giang
Hệ thống sông và tài nguyên nước
Kỳ Cùng - Bằng Giang là hệ thống sông gồm hai nhánh lớn là Kỳ Cùng, Bằng Giang,
chảy trong lòng máng Cao Lạng và gặp nhau ở Trung Quốc. Lưu vực có lượng mưa
1.422mm/năm, tập trung chủ yếu (85%) vào mùa mưa, từ tháng 4 - 10; Lượng bốc hơi 762
mm/năm. Sông Kỳ Cùng bắt nguồn từ đèo Xeo Bo cao 625m, dài 243 km, chảy theo hướng
gần Đông Bắc - Tây Nam, lòng sông uốn khúc mạnh, mật độ sông suối 0,88 km/km2, tổng
phụ lưu từ cấp 1 - 6 là 80, độ cao bình quân lưu vực 386m, độ dốc 18,8%, diện tích lưu vực
thuộc Việt Nam 6.532 km2. Mô đun dòng chảy 17 l/s.km2, nhỏ so với các vùng Bắc Bộ. Tổng
lượng dòng chảy 3,6 km3/năm, trong đó 70 - 75% là dòng chảy mùa lũ (tháng 6 - 10). Dòng
chảy nhỏ nhất thuộc loại bé nhất vùng Đông Bắc, mô đun dòng chảy 30 ngày nhỏ nhất liên
tục dưới 3 l/s.km2. Sông Bằng Giang dài 108 km, bắt nguồn từ Na Lượng Nưa cao 600m,
chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Diện tích lưu vực thuộc Việt Nam 4.000 km2, 40% là
núi đá vôi, độ cao bình quân 482m, độ dốc 20,1%. Hệ số uốn khúc lòng sông 1,29; Mật độ
lưới sông 0,91 km/km2, tổng phụ lưu từ cấp 1 - 6 là 26. Cao nguyên Pắc-pó và Bình Lạng có
mật độ sông suối rất thấp 0,5 - 0,7 km/km2, vùng núi đất diệp thạch, sa thạch mật độ sông
suối lớn hơn 0,9 - 1,24 km/km2. Tổng lượng dòng chảy năm 3,73 km3, trong đó 76% là dòng
chảy mùa lũ (tháng 6 - 9).
104
Nhìn chung lượng nước hiện có trong sông ngòi lớn hơn nhu cầu dùng nước thường
xuyên, nhưng vẫn tồn tại vấn đề thiếu nước địa phương do địa hình núi cao và dòng chảy
phân phối cực đoan. Đặc biệt nghiêm trọng là thiếu nước sản xuất ở lưu vực sông Kỳ Cùng
vào mùa khô, khi tổng dòng chảy ba tháng kiệt nhất chỉ bằng 3% dòng chảy năm, trong khi đó
các thoả thuận với Trung Quốc đòi hỏi phải duy trì một lượng nước cần thiết trong sông ở
biên giới. Trong các vùng núi đá vôi xa xôi, vào thời kỳ mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3,
ngay nguồn nước cung cấp cho dân cư sinh hoạt cũng rất khan hiếm. Lũ mang tính chất núi rõ
nét. Dòng chảy mùa lũ cao gấp 10 - 15 lần mùa kiệt. Tại lưu vực Kỳ Cùng mưa lũ tháng 7 có
thể làm ngập tới 10.000ha đất nông nghiệp.
Đặc điểm dân cư kinh tế xã hội và hiện trạng khai thác tài nguyên nước
Cư dân lưu vực chỉ có 1,02 triệu người, đa phần là dân tộc thiểu số, mật độ dân thấp, 91
người/km2, sống rải rác trong các vùng núi, với 86% dân số nông thôn. Nông nghiệp hiện
cung cấp 42% tổng sản phẩm khu vực, trong đó 40% là từ chăn nuôi. Chỉ có 10% diện tích
lưu vực (tức 135.000ha) được sử dụng để trồng trọt, trong đó có 28.000 ha được tưới bằng các
công trình thuỷ lợi nhỏ bơm và tự chảy. Diện tích lúa trong khu vực liên tục giảm và được
thay thế bằng các loại cây trồng trên đất khô như ngô, khoai tây, khoai lang và sắn. Đây là
một xu thế chuyển đổi đúng đắn, phù hợp với điều kiện tự nhiên khu vực. Rừng trước đây
chiếm 90% diện tích lưu vực, hiện đã bị chặt phá nhiều, nhưng những diện tích này vẫn là đất
tiềm năng thích hợp nhất cho trồng lại rừng và cây công nghiệp. Sử dụng đất theo hướng này
cũng là một giải pháp tốt cho phát triển kinh tế trong điều kiện tài nguyên nước hạn chế.
6.2.3 Lưu vực sông Mã
Dòng chính sông Mã bắt nguồn từ vùng núi PhoueiLong - Lai Châu, chảy theo hướng tây
bắc - đông nam, qua Lào một đoạn, đổ ra biển Đông qua ba cửa Sung, Lạch Trường, Đồng
Hới. Diện tích lưu vực 28.400 km2, dài 512 km, trong đó phần ở Việt Nam có diện tích
17.600 km2 (63%), dài 410 km. Độ cao bình quân lưu vực 762m, độ dốc 17,6%. Mật độ lưới
sông 0,66km/km2, hệ số uốn khúc 1,79, tổng phụ lưu từ cấp 1 - 6 là 91. Hai phụ lưu lớn là
sông Chu và sông Bưởi đều nhập vào sông Mã tại hạ lưu, cách cửa sông 25 - 48 km, tạo mạng
lưới sông hình nan quạt rất nguy hiểm do tăng cường mức ác liệt của lũ. Tổng lượng dòng
chảy năm 10,8 km3, dòng chảy phù sa 2,86 triệu tấn/năm. Dòng chảy phân bố không đều.
Thượng và trung lưu mưa ít, gió tây khô nóng nên dòng chảy chỉ khoảng 10 - 20 l/s.km2, hạ
lưu 25 l/s.km2. Nhiều nước nhất là vùng thượng nguồn các sông Luồng, Lò, Bưởi (25 - 35
l/s.km2). Mùa mưa và mùa lũ ở thượng nguồn bắt đầu sớm hơn hạ nguồn một tháng, khiến
mùa lũ hạ nguồn kéo dài 5 tháng, từ tháng 6 - 10, dòng chảy mùa lũ chiếm 70 - 75% tổng
lượng năm. Tại Hồi Xuân cường suất lũ lên trên 50 cm/giờ, biên độ mực nước trên 11m. Thời
gian lũ lên tương đối ngắn, 2 - 3 ngày. Hạ lưu thường bị ngập úng trong mùa lũ do độ dốc đáy
sông nhỏ và ảnh hưởng của triều. Nhật triều không đều, biên độ trung bình 1,3m, lớn nhất
2,5m gây ảnh hưởng vào sâu tới 35-40 km. Sông bị đê khống chế từ Cẩm Thuỷ.
Sông Chu, phụ lưu lớn nhất, bắt nguồn từ Lào, diện tích 7.550 km2, dài 325 km. Phần
thuộc Việt Nam có diện tích 2.050 km2, dài 160km, mạng lưới sông suối phát triển, 0,98
km/km2. Dòng chảy hạ lưu bị điều tiết từ đập Bái Thượng. Tổng lượng dòng chảy năm 4,6
km3. Chế độ lũ hai mùa: lũ tiểu mãn đầu hè và lũ chính từ tháng 7 - 11. Lũ ác liệt, cường suất
lũ lên 40 - 60 cm/giờ trên sông chính và trên 100 cm/giờ trên sông nhánh. Biên độ lũ xấp xỉ
10m. Kiệt nhất vào tháng 3, dòng chảy chỉ đạt 1 - 3% tổng lượng năm. Mặn vào sâu 12 km
trên sông Lèn.
105
Dân số lưu vực 3 triệu người, 93% sống ở nông thôn, mức sống thấp. Kinh tế lưu vực chủ
yếu là nông nghiệp, sản xuất lúa gạo chiếm 90%. Công nghiệp tập trung vào chế biến nông
sản, sản xuất xi măng và phân bón. Kinh tế và tăng trưởng trong lưu vực bị hạn chế bởi nguồn
nước, đất đai kém màu mỡ và điều kiện khí hậu khắc nghiệt. Diện tích đất nông nghiệp
240.000ha (75% tổng tiềm năng), trong đó 136.000ha được tưới và 27.000ha được tiêu bằng
các công trình tự chảy hoặc bơm. Mỗi năm lưu vực chịu tác động của ít nhất một trận bão,
kèm theo mưa lớn và lũ lụt. Diện tích bị ngập úng thường xuyên khoảng 44.000ha. Đê biển
không đủ cao và vững chắc nên vẫn bị nước mặn tràn, vỡ đê, nhất là khi có bão, sóng lớn.
Nguồn nước hiện có trong tháng 3, 4 không đủ đáp ứng cho nhu cầu canh tác vụ xuân ở các
vùng sông Chu, Lèn, gây thiếu nước trên 27.000 ha. Ngập úng và hạn hán là những thiên tai
gây tổn thất nghiêm trọng cho sản xuất nông nghiệp. Mùa kiệt thiếu nước tưới và xâm nhập
mặn sâu gây thiệt hại cho nông nghiệp khoảng 17 triệu đô la/năm, bão và ngập úng mùa mưa
gây thiệt hại vài chục tỷ/năm.
Khả năng tăng nhu cầu nước nông nghiệp trong tương lai có thể xảy ra do tăng vụ và tăng
diện tích đất nông nghiệp, cũng như đất nông nghiệp được tưới. Nước dùng cho nông nghiệp
và sinh hoạt sẽ tăng. Việc cấp nước đô thị, vùng đông dân và vùng cao sẽ có thể trở thành vấn
đề nghiêm trọng trong tương lai. Chiến lược điều tiết dòng chảy hợp lý cho lưu vực là tăng
cường xây dựng các hồ chứa đa năng, phục vụ phát điện và tưới.
6.2.4 Lưu vực sông Cả
Sông Cả dài 531 km, bắt nguồn từ bản Khom Han, Lào trên độ cao 1.100m, chảy theo
hướng chính là Tây Bắc - Đông Nam, đổ ra biển Đông qua ba cửa Hội, Sát và Lò. Diện tích
lưu vực 27.000km
2
, phần thuộc Việt Nam 17.730 km
2
(66%) và sông dài 360km. Độ cao bình
quân lưu vực 294m, độ dốc 18,3%. Tổng phụ lưu từ cấp 1 - 6 là 151, hệ số uốn khúc 1,74.
Dòng chảy không lớn, 21 km
3
/năm (ở Lào 4,9 km
3
/năm). Dòng chảy phù sa 4,4 triệu
tấn/năm. Mô đun dòng chảy ở thượng lưu 20 l/s.km
2
và ở hạ lưu 30 l/s.km
2
. Lũ tiểu mãn
tháng 5, 7. Mùa lũ chính từ tháng 7, 8 - 11, dòng chảy chiếm 65 - 75% tổng lượng năm. Biên
độ mực nước 10 - 15m. Kiệt nhất là tháng 3 hoặc 4, mô đun 30 ngày liên tục nhỏ nhất là 4,8 -
5,5 l/s.km
2
.
Phụ lưu lớn nhất là sông Hiếu (sông Con), diện tích lưu vực 5.340 km
2
, dài 228 km.
Thượng lưu mưa nhiều, mật độ sông suối rất phát triển, 1 -1,28 km/km
2
, tổng lượng dòng
chảy năm 5 km
3
. Mô đun dòng chảy trung bình 20 - 30 l/s.km
2
, mô đun dòng chảy nhỏ nhất
30 ngày liên tục chỉ có 2 - 3 l/s.km
2
.
Phụ lưu lớn thứ hai là sông Ngàn Sâu, diện tích lưu vực 3.210 km
2
. Mật độ sông suối
phát triển trên1 km/km
2
, nguồn nước phong phú, 6 km
3
/năm (40 - 70 l/s.km
2
). Lũ tiểu mãn
tháng 5, 7. Mùa lũ chính ngắn, chậm, từ tháng 9 - 11, chiếm 50 - 60% tổng lượng nước năm.
Mô đun dòng chảy liên tục 30 ngày nhỏ nhất 3 - 4 l/s.km
2
. Hệ thống thuỷ lợi được xây dựng
khá tốt, như Nham Hùng Nghi, Diễn Yên Quỳnh, Nghệ An và Linh Cảm, nhưng hiệu quả sử
dụng chưa cao, diện tích trồng trọt được tưới ước đạt 85.000 ha.
Dân số lưu vực 3 triệu người, 90% sống ở nông thôn, 15% là dân tộc ít người. 60% GDP
của lưu vực là từ nông nghiệp, trong đó sản xuất lúa gạo chiếm 80%. Công nghiệp chỉ giới
hạn trong lĩnh vực xây dựng, sửa chữa đầu máy xe lửa, đóng tàu, chế biến chè và hải sản, với
tỷ trọng khoảng 14% GDP. Tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp, một số người dân sống rất nghèo
khổ.
106
Trở ngại lớn đối với sự phát triển là bão, lũ lụt. Lũ ác liệt và ngập lụt thường gây thiệt hại
cho sản xuất trên diện tích 30.000 - 60.000 ha/năm, làm mất khoảng 10-20% sản lượng nông
nghiệp, tương đương với khoảng 20-40 triệu đô la Mỹ. Nước kiệt tháng 3 gây nhiễm mặn
nặng vào sâu tới 20 km. Hạn hán có thể xảy ra vào tháng 5, 6 cũng là những trở ngại đáng kể
cho sản xuất nông nghiệp. Giải pháp hạn chế thiên tai hiệu quả nhất là hồ chứa đa mục đích
và cải thiện hệ thống kiểm soát lũ.
6.2.5 Lưu vực sông Thu Bồn
Sông Thu Bồn dài 205 km, diện tích lưu vực 10.350 km
2
, trong đó 80% là cao nguyên
với nhiều thung lũng hẹp và đỉnh núi cao, 80% là rừng, độ cao bình quân lưu vực 552m, độ
dốc 25,5%. Hệ thống sông phát triển mạnh, hệ số uốn khúc 1,86, tổng phụ lưu từ cấp 1 - 6 là
81. Thượng nguồn Thu Bồn (sông Tranh) bắt nguồn từ núi Ngọc Lĩnh cao 1.600m, chảy theo
hướng bắc - nam, đổ ra biển tại cửa sông Thạnh Châu Đông. Sông Cái bắt nguồn từ núi Ngọc
Lĩnh, chảy gần song song sông Tranh, hợp với sông Bung tạo thành sông Vũ Gia. Sông Vũ
Gia và Thu Bồn hợp lưu nhau tạo thành sông Hội An. Hạ lưu sông Thu Bồn phát triển chằng
chịt, với nhiều phân lưu như sông Ngang, Vĩnh Điện, Tĩnh Yên đổ vào vịnh Đà Nẵng qua
sông Hàn, sông Trường đổ vào vịnh An Hoà, đồng thời cũng ăn thông với sông Tam Kỳ qua
phá Trường Giang. Hiện tượng xói lở bồi lấp dòng sông vùng hạ lưu diễn biến rất phức tạp.
Dòng chảy phân bố đồng đều trên lưu vực. Tổng lượng dòng chảy năm là 20 km
3
, trong
đó dòng chảy ngầm 6 km
3
. Mùa lũ từ tháng 9, 10 - 12, lượng dòng chảy 65% tổng lượng
năm. Lũ lụt xảy ra đồng bộ trong cả hệ thống và rất ác liệt. Biên độ mực nước lên tới gần
20m. Cường suất lũ lên tại nhiều nơi khá lớn, tới vài mét/giờ. Lũ quét cũng là mối đe doạ
thường xuyên. Dòng chảy mùa cạn khá lớn, 18 - 41 l/s.km
2
. Dòng chảy tháng nhỏ nhất (4) chỉ
chiếm 2% tổng lượng nước năm.
Nông nghiệp là hoạt động kinh tế chính của lưu vực, với các cây trồng chủ yếu là lúa,
mía, lạc, thuốc lá và sắn. Sản lượng nông nghiệp chiếm khoảng 60% tổng GDP. Đất nông
nghiệp hạn chế, chỉ có 64.000 ha (6% diện tích lưu vực), trong đó trên 2/3 nằm ở vùng đất
thấp đã được khai thác, còn khoảng 20.000 ha nằm trên cao nguyên khai thác hạn chế. 70%
diện tích đất canh tác đã được tưới tiêu bằng hệ thống các hồ chứa nhỏ và đập dâng nước,
trong đó khoảng 30.000 ha trồng lúa. Nước cho nông nghiệp có nguy cơ thiếu hụt do mùa kiệt
kéo dài và xâm nhập mặn. Lũ lớn và tình trạng cửa sông không ổn định đe dọa vùng hạ lưu và
cửa sông trong đó có thành phố Đà Nẵng. Trong tháng 11 và 12, khoảng 31.000 ha ven biển
thường bị ngập lụt ngắn, khoảng 1 - 3 ngày.
Trong tương lai gần, nhu cầu nước lưu vực khó biến động do diện tích canh tác nông
nghiệp khó tăng. Tuy nhiên cần tính tới biến động bất thường của tài nguyên nước và nhu cầu
nước cho đô thị, khu công nghiệp tăng. Dự kiến để khai thác hợp lý tài nguyên đất và nước
trong lưu vực có thể áp dụng các giải pháp kho nước nhỏ ở thượng nguồn, thay đổi cơ cấu cây
trồng trong mùa khô, thay lúa bằng cá trong mùa úng ngập, đầu tư xây dựng cống ngăn mặn
6.2.6 Lưu vực sông Ba
Sông Ba dài 388km, bắt nguồn từ Công Pông, trên cao nguyên miền Trung cao 1.200m,
đổ ra biển qua cửa Ngọc Đăng. Lưu vực dài và hẹp, độ cao trung bình 400m, độ dốc 10,9%,
diện tích 13.900km
2
, phân bố ở cả hai sườn dãy Trường Sơn, với 80% là cao nguyên có các
thung lũng hẹp và đỉnh núi cao nên thường có mưa lớn, lũ nhanh và tiềm năng thuỷ điện dồi
dào. Mật độ sông suối 0,94 km/km
2
, hệ số uốn khúc 1,98, tổng phụ lưu cấp 1 - 6 là 106. Tổng
107
lượng dòng chảy 10 km
3
, trong đó nước ngầm chiếm khoảng 15%. Vùng nhiều nước là lưu
vực sông Hinh, 50 l/s.km
2
, và thượng nguồn sông chính, 25 - 35 l/s.km
2
. Lưu vực sông Ba
thường được xem là có lượng nước dồi dào nhưng phân bố bất lợi theo thời gian. Mùa lũ ở
thượng và trung lưu từ tháng 8 -11, mức lũ không lớn, ở hạ lưu từ tháng 9 - 12, thường xảy ra
lũ lớn và ngắn, đặc biệt là cuối mùa. Dòng chảy mùa lũ chiếm 60 - 73% tổng lượng năm.
Tháng có lượng dòng chảy lớn nhất xuất hiện đồng bộ trên toàn lưu vực vào tháng 9, với
lượng dòng chảy chiếm tới 21 - 40% tổng lượng năm, gây nguy cơ rất lớn cho vùng trung hạ
lưu. Riêng trận lũ từ ngày 9 - 20 tháng 11 năm 1981 đã có lượng nước là 4 km
3
(bằng 40%
dòng chảy trung bình năm và lớn hơn dòng chảy năm của sông Kỳ Cùng). Mùa lũ 1996 tỉnh
Phú Yên phải huy động hàng vạn người đào cồn cát chắn cửa sông Ba để thoát lũ. Tháng kiệt
nhất là tháng 4 ở Đông Trường Sơn và tháng 7 ở Tây Trường Sơn, dòng chảy 0,9 - 1,6% tổng
lượng năm. Những năm ít nước các sông suối nhỏ hầu như khô cạn, mặn xâm nhập sâu qua
cửa sông 15 - 20 km.
Cư dân lưu vực sông Ba khoảng 1 triệu người, thưa nhất trong cả nước, tỷ lệ dân đô thị
khoảng 20%. Kinh tế chỉ đóng góp chưa đầy 1% tổng GDP cả nước. Nông nghiệp hiện đang
sử dụng 150.000 ha trong tổng số 268.000 ha có khả năng canh tác. Diện tích được tưới
khoảng 21.500 ha, nhu cầu tưới rất lớn, vì tám tháng mùa khô đều có lượng mưa nhỏ hơn bốc
hơi, đặc biệt là tháng 2, 3, 3 4 khi lượng mưa xuống dưới 40 mm/tháng. Vùng ven biển đã có
các hệ thống thuỷ lợi ổn định, nhưng thường xuyên chịu tác động của bão, lũ. Vùng đất trũng
đã xảy ra lụt nghiêm trọng. Hiện trên lưu vực chưa có công trình kiểm soát lũ và úng ngập. Ba
công trình dự kiến khả thi nhất là hồ chứa Ya Yun và sông Hinh điều tiết nước phục vụ thuỷ
lợi, An Khê phục vụ phát điện và chuyển nước sang sông Con ngoài lưu vực với lưu lượng
14 - 18 m
3
/s. Mặc dù được dự đoán là hoạt động đồng thời của ba công trình sẽ không gây
ảnh hưởng lớn tới dòng chảy mùa kiệt ở hạ lưu, tuy nhiên tình hình sẽ phụ thuộc rất nhiều vào
hoạt động thực tế của từng công trình.
6.2.7 Lưu vực sông Đồng Nai
Đặc điểm hệ thống sông và tài nguyên nước
Sông Đồng Nai, bắt nguồn từ Nhơn Giao trên cao nguyên Lâm Viên cao 1.700m, chảy ra
biển qua cửa Soi Rạp, Vũng Tàu, là con sông dài nhất nội địa Việt Nam, 635 km. Diện tích
lưu vực 44.100km
2
, ở Việt Nam 37.400 km
2
, độ cao bình quân lưu vực 470m, độ dốc 4,6%.
Mật độ lưới sông 0,64km/km
2
, hệ
số uốn khúc 2,16, tổng phụ lưu từ cấp 1 - 6 là 266. Phụ lưu
chính là La Ngà, Sông Bé, Sài Gòn và Vàm Cỏ. Thượng và trung lưu sông chảy qua sơn
nguyên Đà Lạt, cao nguyên Di Linh, Mơ Nông, dòng sông nhiều đoạn bằng phẳng xen lẫn
thác ghềnh (Pren, Trị An). Hạ lưu sông qua đồng bằng Nam Bộ, lòng sông mở rộng, hội với
sông Sài Gòn rồi đổ ra biển bằng nhiều nhánh chằng chịt, trong đó có Lòng Tào và Soài Rạp.
Lòng Tào sâu, ít bãi bồi, là đường chính cho tàu bè vào cảng Sài Gòn. Tả ngạn Soài Rạp nhận
thêm nước sông Vàm Cỏ ngay trước khi đổ ra biển.
Thượng nguồn sông Đồng Nai có dòng chảy trung bình, 20 - 30 l/s.km
2
. Lưu vực sông
Sài Gòn, sông Vàm Cỏ mưa ít, bốc hơi mạnh nên lượng nước kém, 10 - 20 l/s.km
2
. Trung lưu
sông Đồng Nai, La Ngà và thượng nguồn sông Bé có nguồn nước dồi dào, trên 40 l/s.km
2
.
Tổng lượng dòng chảy sông Đồng Nai là 33 km
3
/năm, trong đó dòng chính và sông Bé cung
cấp 24,2 km
3
/năm, sông Sài Gòn 4,1 km
3
, sông Vàm Cỏ 4,5 km
3
(3,1 km
3
/năm của hai sông
này là nhận từ nước ngoài). Mùa lũ từ tháng 7 - 11, mức độ tập trung dòng chảy cao nhất
nước, 80 - 85% tổng lượng dòng chảy năm, tháng có dòng chảy lớn nhất có thể là 9, 10, cấp
25 - 30% tổng lượng nước năm. Dòng chảy mùa kiệt tương đối lớn, 20 - 30 l/s.km
2
.
108
Nguồn thuỷ năng của hệ thống sông Đồng Nai rất dồi dào, tính đến Trị An là 31 tỷ kW/h,
còn trên sông Bé 9 tỷ kW/h. Lưu vực hiện có ba hồ chứa đa mục tiêu là Trị An, Đa Nhim,
Thác Mơ và hồ Dầu Tiếng phục vụ cấp nước sinh hoạt và nông nghiệp. Các công trình trên
chứa tổng cộng trên 6 km
3
nước, đảm bảo cho trên 700 MW công suất lắp đặt thuỷ điện. Trị
An và Dầu Tiếng hiện cấp 225 m
3
/s nước trong mùa khô, nhưng nước mặn có nồng độ tối đa
trung bình 4.000ppm vẫn xâm nhập sâu 7km trên đoạn hợp dòng của sông Đồng Nai và Sài
Gòn, gây nguy cơ làm giảm chất lượng nước Tp.Hồ Chí Minh và khu vực xung quanh.
Đặc điểm dân cư kinh tế xã hội và hiện trạng khai thác tài nguyên nước
Châu thổ sông Đồng Nai có vành đai kinh tế Tp. Hồ Chí Minh - Biên Hoà là trung tâm
phát triển kinh tế lớn nhất ở Việt Nam. Phần lớn châu thổ, chiếm 10% diện tích cả nước, là
nơi sinh sống của trên 10 triệu dân hoạt động trong ba khu vực công nghiệp - dịch vụ, cây
công nghiệp - lâm nghiệp và sản xuất nông nghiệp (tập trung trong đồng bằng phù sa Long
An). Thu nhập bình quân đầu người cao, gần gấp đôi trung bình cả nước.
Không giống như nhiều vùng khác, châu thổ sông Đồng Nai hầu như không có bão, do
vậy lụt không nghiêm trọng, trừ úng ngập xảy ra ở ven biển trong mùa mưa do khả năng tiêu
thoát nước kém. Nhiệt độ, độ ẩm, nắng thuận lợi cho nông nghiệp. Diện tích đất có thể trồng
trọt khoảng 1,2 triệu ha, chiếm 17% tổng diện tích đất nông nghiệp Việt Nam. Nông nghiệp
chỉ tập trung trong các thung lũng hẹp, cung cấp 20% tổng sản lượng vùng, tương đương 2
triệu tấn lương thực năm, hay 200kg/người.năm. Cao nguyên cung cấp 90% sản lượng cao su
toàn quốc. 56% diện tích đất tiềm năng nông nghiệp đã được tưới tiêu.
Hạn chế tài nguyên nước là một vấn đề nghiêm trọng. Lượng mưa lớn nhưng phân hoá
cực đoan, trên 90% tập trung vào 7 tháng mùa mưa, từ tháng 5 - 11. Trong những tháng mùa
khô lượng mưa chỉ khoảng 10 - 50 mm/tháng, dòng chảy nhỏ, xâm nhập mặn nặng nề. Ảnh
hưởng phức tạp của chế độ triều cản trở tiêu thoát lũ, cản dòng chảy xuôi dòng chuyển tải
chất thải đi khỏi Tp. Hồ Chí Minh và kích thích lan truyền ra diện rộng những nguồn ô nhiễm
bất thường vùng cửa sông (Hộp 6.1)
Hộp 6.3
Một số sự cố tràn dầu lớn ở Tp. Hồ Chí Minh
Ngày 8/5/1994 tàu Humanity (Taiwan) và Transco - 01 (Việt Nam) đụng nhau tại Tam thôn Hiệp, huyện Cần
Giờ, gây tràn 139 tấn dầu FO, gây ô nhiễm 4 km
2
, phải bồi thường thiệt hại kinh tế 200.000 USD, 400.000
USD.
Ngày 3/10/1994 tàu Neptune Aries (Singapore) đụng vào cầu cảng A1, cảng Cát Lái, huyện Thủ Đức làm tràn
1680 tấn dầu, gây ô nhiễm 40 km
2
, phải bồi thường thiệt hại 4.000.000 USD
Ngày 27/1/1996 Tàu Gemini (Singapore) đụng vào cầu cảng A1, cảng Cát Lái, huyện Thủ Đức làm tràn 32
tấn dầu thô nhẹ, gây ô nhiễm 1 km
2
, phải bồi thường thiệt hại 600.000 USD
Chi tiết về vụ tràn dầu tàu Neptune Aries (Singapore):
Sự cố xảy ra lúc 13 giờ 35 phút, làm sập cầu cảng, thủng thân tàu. Dầu tràn tạo thành lớp dày hàng chục cm,
loang nhanh phủ kín cả một khúc sông. Thời điểm sự cố là lúc hai hồ Dầu Tiếng và Trị An đang xả lũ, nên mức
nước ngập trong khu vực cao hơn bình thường 15 - 50 cm, dòng chảy mạnh.
Chế độ triều thuộc loại bán nhật triều, biên độ trên 3 m, gây phức tạp thêm quá trình lan truyền và mở rộng diện
lan truyền. Vài giờ sau sự cố, biên vết dầu loang đã theo triều lên ngược dòng Đồng Nai 6 km. Chiều cùng
ngày, khi triều xuống, vết dầu loang lại bị kéo xuôi về. Trong vòng 24 giờ đã có 4 lần dầu tiến lui, lan truyền
ngược dòng khoảng 10 km và xuôi dòng khoảng 40 km cách Cát Lái, theo các sông Đồng Nai, Sài Gòn, Soài
Rạp, Ngã Bảy.
Điểm xảy ra sự cố nằm trong khu vực mạng lưới sông rạch chằng chịt, đồng lúa và ao đầm nuôi thuỷ sản
được cấp nước từ sông rạch bằng dòng tự chảy nhờ triều, nên ô nhiễm lan trên diện rộng nhanh. Cửa sông
là rừng ngập mặn phòng hộ môi trường, diện tích trên 60.000 km
2
.
Vết ô nhiễm dầu đạt cực đại vào ngày thứ 8, loang trên diện rộng khoảng 65.000 ha, trong đó diện tích bị ô
109
nhiễm nặng là 40.000 ha.
Tổ chức ứng cứu gặp khó khăn do: dòng chảy mạnh làm phao quây bị dồn, xếp, đứt không phát huy tác
dụng. VIETSO PETRO phải đi từ Vũng Tàu vào nên 1 giờ sáng hôm sau mới tới, gặp nước cạn không xoay
trở được và không đủ đèn mạnh nên không làm việc đêm được. Đến 6 giờ sáng tàu mới làm việc được thì
vết dầu đã quá mỏng và thiết bị không thích hợp nên ứng cứu không hiệu quả. Hơn 200 thuyền nhỏ của dân
là lực lượng tham gia thu gom có hiệu quả nhất.
Dầu tràn một phần bay hơi (tối đa khoảng 45%), phần còn lại hoà tan trong khối nước, dính bám vào thực
vật, đất, lắng đọng trong trầm tích, gây ô nhiễm: Lúa và nhiều loại thực vật thuỷ sinh chết, thực vật ngập mặn
có biểu hiện vàng lá, chậm lớn, bần con bị chết, động thực vật phù du giảm khoảng 50%.
Kế hoạch sẽ phát triển thuỷ lợi 81.000 ha đất tiềm năng nông nghiệp còn lại trong thời
hạn ngắn và trung bình. Tính toán cân bằng nước cho 30% kế hoạch trên đã cho thấy thiếu
nước 10 - 15% mỗi tháng có thể xảy ra từ tháng 2 đến tháng 6, nước ở các vùng thấp sẽ hầu
như cạn kiệt trong mùa khô, đe doạ phá vỡ mặt ngăn mặn hiện tại, đẩy xâm nhập mặn sâu
hơn, nghĩa là cần thiết phải xây dựng các cửa cống và đê ngăn mặn. Nhu cầu nước cho công
nghiệp và dân sinh cao, nước cho nông nghiệp thiếu nghiêm trọng vào mùa khô, xâm nhập
mặn nặng nề ở vùng ven biển cộng với địa hình thuận lợi cho khai thác thuỷ điện là cơ sở thúc
đẩy xây dựng kho nước, dự kiến gồm hai kho ở Đồng Nai, Đa Mi, Hàm Thuận, Bắc Lạc, Phúc
Hoà, Bôn Rôn, sức chứa tổng cộng khoảng 2 tỷ m
3
và công suất lắp đặt 1.300 MW. Khai thác
nước ngầm vùng thấp và trung du cũng được tính đến trong chiến lược đáp ứng nhu cầu nước
tương lai.
6.2.8 Sông Mê Công
Đặc điểm hệ thống sông và tài nguyên nước
Sông Mê Công bắt nguồn từ độ cao 5.500m ở vùng núi tuyết Tangulashan, rìa cao nguyên
Tây Tạng, chảy qua 6 nước Trung Quốc, Miến Điện, Lào, Thái Lan, Cam Pu Chia và Việt
Nam, đổ ra biển qua 9 cửa. Diện tích lưu vực 795.000 km
2
(đứng thứ 12 thế giới), dài
4.183km (đứng thứ 7 thế giới), trong đó phần ở Việt Nam 71.000km
2
, dài 230km. Độ cao
trung bình lưu vực 620m, độ dốc 35%, mật độ lưới sông 1,2km/km
2
, hệ số uốn khúc 1,7, tổng
phụ lưu từ cấp I - VI là 287. Tổng lượng dòng chảy năm khoảng 533 tỷ m
3
, đứng hàng thứ 9
thế giới, bình quân lượng nước theo diện tích đứng hàng thứ tư trên thế giới. Tại Kratie lưu
lượng bình quân năm 14.116 m
3
/s, mùa lũ 52.000 m
3
/s, mùa kiệt 1.700 m
3
/s, nhỏ nhất 1.280
m
3
/s. 70% tổng lượng nước tại đây là do 48% diện tích lưu vực thuộc vùng núi cao Tây
Trường Sơn cung cấp. Tại PhnomPênh độ đục trung bình 232 g/m
3
, tổng lượng bùn cát 97,5
triệu tấn/năm, tương đương xâm thực bình quân 147 tấn/km
2
.
Có khoảng 1.300 loài cá được xác định là đang sống trong hệ thống sông Mê Công, trong đó
có 50% là các loài đặc chủng của khu vực và 120 loài có giá trị quan trọng tại thị trường địa
phương. Tổng sản lượng cá đánh bắt hàng năm khoảng 1 triệu tấn. Chu kỳ sống của nhiều loài
cá, đặc biệt là các loài có giá trị kinh tế quan trọng, phụ thuộc vào sự ngập lụt quanh vùng
rừng Tông Lê Sap và đường lưu thông ngược sông hàng nghìn km, xuôi dòng 300 km.
Khoảng 300 triệu cư dân Đông Nam Á có cuộc sống phụ thuộc vào các sản phẩm của lưu vực.
Phân phối dòng chảy không đồng đều theo thời gian. 70 - 80% lượng nước tập trung trong
mùa lũ, từ tháng 7 - 10, lớn nhất vào tháng 9 (19%). Phân phối dòng chảy giữa các tháng mùa
lũ không lệch nhau nhiều. Cường suất lũ lên nhỏ, trung bình 6 cm/ngày, lớn nhất không quá
30 cm/ngày, biên độ lũ tại Tân Châu 4,5m. Tổng lượng nước 3 tháng kiệt nhất bằng 5,5%
tổng lượng nước năm. Chế độ bán nhật triều Biển Đông và nhật triều Vịnh Thái Lan đồng
thời tác động, trong đó ảnh hưởng của bán nhật triều Biển Đông trội hơn. Vào những tháng
110
kiệt nhất, triều có thể truyền sâu trên 400km. Tốc độ truyền triều trong vùng châu thổ ở Việt
Nam 30 km/giờ.
Lưu vực hiện chưa có công trình điều tiết dòng chảy nhân tạo lớn nào. Biển hồ Tông Lê Sap,
diện tích gần 2.500 km
2
, sâu 1m vào mùa kiệt, mùa lũ mở rộng tới 16.000 km
2
, nước dâng
cao 10m, dung tích đạt 80 tỷ m
3
, góp phần điều hoà lũ rất tốt. Sông Mê Công có khả năng rất
lớn về điều tiết lũ dọc sông. Số liệu thực đo cho thấy một số đỉnh lũ xuất hiện ở thượng nguồn
từ đầu tháng IX nhưng đến cuối tháng IX mới về đến Tân Châu.
Trên dọc sông mới có duy nhất đập Mãn Loan tại khúc sông mang tên Lạn Xạng Giang ở tỉnh
Vân Nam. Tương lai, Trung Quốc dự kiến xây dựng 15 đập thuỷ điện với tổng công suất
20.730 MW và triển khai chương trình vĩ đại chuyển nước lên phía Bắc từ thượng nguồn Mê
Công. Lào cũng có nhiều dự án thuỷ điện. Rừng trên lưu vực bị tàn phá 500.000 ha/năm. Biển
hồ Tông Lê Sáp có nguy cơ bị bồi lấp hoàn toàn trong 100 năm nữa do nạn phá rừng làm tăng
xói mòn sườn dốc. Đó là những nguy cơ đe doạ thay đổi chế độ thuỷ văn vùng châu thổ sông
Mê Công, đặc biệt là sự thiếu nước vào mùa khô.
Đặc điểm dân cư kinh tế xã hội và hiện trạng khai thác tài nguyên nước
Châu thổ diện tích 39.000km
2
, chiếm 12% diện tích Việt Nam, hiện có 15 triệu dân cư (chiếm
20% dân số cả nước), mật độ 400 người/km
2
, cung cấp trên 50% tổng sản lượng lúa, 40% sản
lượng nông nghiệp, 60% sản lượng hoa quả, 27% GDP cả nước. Sông Mê Công cung cấp
300.000 tấn thủy sản, trong đó có phần đáng kể giành cho xuất khẩu. Hiện nay khoảng 2,4 triệu
ha đang được sử dụng trong nông nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản. Hầu hết diện tích canh tác hàng
năm là trồng lúa. Tiềm năng mở rộng diện tích nông nghiệp hạn chế trong khoảng 0,2 triệu ha.
Trong vùng đồng bằng châu thổ, diện tích rừng đã giảm từ 23% năm 1942 xuống còn 9% năm
1991. Tốc độ mất rừng 0,8%/năm.
Úng lụt kéo dài trên 25% diện tích châu thổ từ tháng 7 - 12, phía Bắc bị ngập do nước sông
tràn bờ, phía Nam do địa hình trũng và tiêu thoát kém. Diện tích ngập lên đến 30.000km
2
,
mức ngập từ 0,5 - 4 m. Ngập ảnh hưởng trực tiếp tới cây trồng và đời sống, nhưng cũng có
vai trò đáng kể trong cấp bồi tích phù sa, rửa chua phèn, nuôi thuỷ sản. Mỗi năm ngập lụt
vùng châu thổ làm chết vài ba trăm người. Thiếu nước cục bộ vào đầu và cuối mùa khô, thiếu
nghiêm trọng vào giữa mùa khô. Xâm nhập mặn đang gây tác động tới 1,7 triệu ha đất nông
nghiệp và dự báo sẽ có thể tăng diện bị tác động lên 2,2 triệu ha.
Chiến lược hạn chế giảm nhẹ rủi ro: 1- Nâng cao hiệu quả kiểm soát nguồn nước nhờ hoàn
thiện hệ thống kênh mương các cấp tưới và tiêu nước, đa dạng hoá cây trồng, điều tiết cho
mùa kiệt bằng thuỷ điện; 2- Cải thiện hệ thống phòng chống lụt: đắp đê cao ở vùng đất nông
nghiệp ngập nông (có thể dẫn tới nguy cơ mức ngập tăng 0,3 m), đắp bờ thấp ở các vùng ngập
sâu nhưng ít chua mặn để bảo vệ lúa tránh lũ sớm, không đắp đê tại những vùng nhiễm mặn
nghiêm trọng; 3- Hạn chế xâm nhập mặn bằng đê biển và các công trình thuỷ lợi; 4- Phát triển
thận trọng trên đất phèn chua.
Sông Srêpôc
Sông Srêpôc là một trong những nhánh chính của sông Mê Công, bắt nguồn từ vùng cao
nguyên phía Nam của Việt Nam, nhập vào sông chính tại Cam Pu Chia. Diện tích lưu vực
30.000 km
2
, trong đó 18.200 km
2
nằm ở Việt Nam, dân số trên 1 triệu người, chủ yếu thuộc
dân tộc ít người, mật độ dân số thấp nhất Việt Nam. Lượng mưa 1400 - 2200 mm/năm. Dòng
chảy 8,1 tỷ m
3
/năm. Dòng chảy phân hoá theo mùa và nhiều năm: Mùa khô 60 m
3
/s - tháng
10, lớn nhất, có lưu lượng 552 m
3
/s, dòng chảy năm lớn nhất lớn gấp 4 lần dòng chảy năm
trung bình. Rừng dày, che phủ trên 60% diện tích lưu vực, bảo vệ đất tốt cộng với đất bazan