Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Đề tài “Đánh giá hiệu quả cho vay đối với hộ sản xuất tại chi nhánh NHNo&PTNT huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai” doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (476.93 KB, 83 trang )

Luận văn
Đánh giá hiệu quả cho vay đối với hộ
sản xuất tại chi nhánh NHNo&PTNT
huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai
- 1 -
Contents
Luận văn 1
Đánh giá hiệu quả cho vay đối với hộ sản xuất tại chi nhánh NHNo&PTNT huyện Chư
Prông, tỉnh Gia Lai 1
Contents 2
- 2 -
Phần thứ nhất
MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của nước ta đến năm 2020 là từ một nước
nông nghiệp cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại, có nền kinh tế hàng
hóa phát triển. Để đạt được mục tiêu đề ra chúng ta cần quán triệt quan điểm coi
sự nghiệp CNH – HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế
trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đặc biệt là phải coi trọng sự nghiệp
CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn. Phát triển toàn diện nông – lâm – ngư
nghiệp gắn liền với công nghiệp chế biến nông – lâm – thủy sản, phát triển nông
nghiệp toàn diện hướng vào đảm bảo an toàn lương thực quốc gia trong mọi tình
huống, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn có hiệu quả. Đây là
mục tiêu lớn nhưng để đạt được nó cũng không ít những khó khăn bởi:
Như chúng ta đã biết nước ta vốn có xuất phát điểm thấp, ở nông thôn tỷ lệ
các hộ nghèo đói còn cao, lao động dư thừa ngày càng tăng lên, khoảng cách về
thu nhập đời sống giữa nông thôn và thành thị ngày càng xa hơn. Trong muôn
ngàn lý do đó có lý do đặc biệt quan trọng nhất là người dân thiếu vốn để sản xuất.
Vậy làm thế nào để khắc phục những khó khăn trên nhằm hoàn thành mục
tiêu đề ra? Để giải quyết câu hỏi này Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chính
sách đồng bộ tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp.


Trong đó tín dụng đối với nông nghiệp được coi là mũi nhọn quan trọng và trực
tiếp nhất.
Xuất phát từ những vấn đề trên NHNo&PTNT Việt Nam ra đời nhằm phục
vụ đắc lực cho chiến lược CNH – HĐH nông nghiệp nông thôn, giải quyết vấn đề
một cách thiết thực, nhanh chóng nhất. Đồng vốn của ngân hàng đã và đang góp
phần làm thay đổi các miền quê, nâng bước hàng triệu gia đình nông dân xóa được
đói, giảm được nghèo, góp phần vào mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước.
- 3 -
Để hiểu rõ hơn về hoạt động cho vay của ngân hàng đối với các hộ sản xuất
làm kinh tế nông nghiệp. Trong thời gian thực tập tại NHNo&PTNT huyện Chư
Prông, tỉnh Gia Lai tôi đã lựa chọn đề tài “Đánh giá hiệu quả cho vay đối với hộ
sản xuất tại chi nhánh NHNo&PTNT huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai” để làm
đề tài nghiên cứu của mình.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
- Hệ thống hóa lý luận về ngân hàng và hoạt động tín dụng - cho vay của NHTM
- Đánh giá thực trạng cho vay vốn đến hộ sản xuất của chi nhánh NHNo&PTNT
huyện Chư Prông và hiệu quả sử dụng vốn vay của các hộ sản xuất trên địa bàn.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho vay đối với hộ sản xuất tại
NHNo&PTNT huyện Chư Prông và hiệu quả sử dụng vốn vay của các hộ sản xuất
trên địa bàn trong thời gian tới.
1.3 Phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động tín dụng tại chi nhánh NHNo&PTNT huyện Chư Prông, tỉnh
Gia Lai.
Các yếu tố, các mối quan hệ có ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn vay
đối với các hộ sản xuất trên địa bàn huyện Chư Prông
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
1.3.2.1 Không gian
- NHNo&PTNT huyện Chư Prông, đường Trần Hưng Đạo – TT Chư Prông –

Huyện Chư Prông – Tỉnh Gia Lai.
- Các hộ sản xuất vay vốn trên địa bàn huyện
1.3.2.2 Thời gian
- Thời gian nghiên cứu: từ tháng 3 đến tháng 5 năm 2010
- Số liệu nghiên cứu: số liệu năm 2007,2008,2009
- 4 -
Phần thứ hai
TỔNG QUAN VỀ TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý luận
2.1.1 Tổng quan về NHTM
2.1.1.1 Khái niệm NHTM
NHTM là một loại định chế tài chính trung gian cực kỳ quan trọng trong
nền kinh tế thị trường, là loại hình doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh
vực tiền tệ - ngân hàng với các hoạt động đa dạng.
Theo pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng mà công ty tài chính ban
hành ngày 24/5/1990 “NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu
và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng và sử dụng số tiền đó để cho
vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”. Như vậy,
NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ thông qua các nghiệp vụ huy động các
nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế để cho vay, đầu tư và thực hiện các
nghiệp vụ tài chính khác.
2.1.1.2 Chức năng của NHTM trong nền kinh tế
a. Chức năng tổ chức trung gian tài chính
Quan hệ giữa chủ thể có tiền chưa sử dụng và chủ thể có nhu cầu vốn cần
bổ sung gặp phải nhiều hạn chế về qui mô và thời gian, ví dụ như người có nhu
cầu cần vay 20 triệu đồng đến gặp người dư thừa tiền 10 triệu đồng thì nghiệp vụ
cho vay không thể tiến hành. Do vậy người có nhu cầu vốn khó có điều kiện gặp
người có khả năng cung cấp vốn với chức năng nhiệm vụ trong hoạt động của
ngân hàng thì đã khắc phục được những hạn chế trên, đứng ra tập trung nguồn vốn
chưa sử dụng của tất cả chủ thể trong nền kinh tế và từ đó đem cung ứng cho các

chủ thể có nhu cầu.
Với phương châm “đi vay để cho vay”. Trong nền kinh tế phát triển nghiệp
vụ tín dụng ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát
triển.
- 5 -
b. Chức năng thủ quỹ của khách hàng
Nếu mọi khoản thanh toán đều thực hiện ngoài Ngân hàng thì chi phí để thực
hiện việc chi trả rất lớn. Với sự ra đời và phát triển của NHTM thì việc thanh toán
tiền hàng và dịch vụ giữa các tổ chức, cá nhân được ngân hàng thực hiện hay nói
cách khác ngân hàng là thủ quỹ của khách hàng. Điều này có ý nghĩa lớn trong
quá trình lưu thông đồng thời tạo điều kiện cho ngân hàng thực hiện nghiệp vụ cho
vay.
Như vậy, thông qua nghiệp vụ thanh toán các đơn vị kinh tế đã thường xuyên
cung cấp những thông tin về tình hình tài chính của mình cho Ngân hàng.
c. Chức năng tạo tiền cho nền kinh tế
Đây là chức năng quan trọng của NHTM, liên quan đến mục đích của ngân
hàng là tạo ra lợi nhuận, thông qua các hoạt động cụ thể. Với mục đích tìm kiếm
lợi nhuận các Ngân hàng kinh doanh quan tâm với yêu cầu chính cho sự tồn tại và
phát triển của mình là tạo tiền. Quá trình tạo tiền của ngân hàng kinh doanh được
thực hiện là thông qua các hoạt động nhận tiền gửi, cho vay và tổ chức thanh toán
trung gian với hệ thống tín dụng năng động. Ngân hàng có vai trò quan trọng đối
với quá trình sản xuất kinh doanh, đã tạo được tiền cho bản thân ngân hàng kinh
doanh và cho nền kinh tế.
2.1.1.3. Các nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng thương mại
a. Nghiệp vụ về nguồn vốn
• Vốn tự có
Đây là vốn điều lệ của ngân hàng khi được thành lập, được bổ sung trong quá
trình hoạt động. Ngoài ra vốn tự có còn bao gồm lợi nhuận chưa phân phối và các
quỹ chưa sử dụng.
• Vốn huy động

Nghiệp vụ huy động vốn là hoạt động tiền tệ có ý nghĩa đối với bản thân
ngân hàng cũng như đối với xã hội. Trong nghiệp vụ này NHTM được sử dụng
- 6 -
những biện pháp và công cụ cần thiết mà luật pháp cho phép huy động các nguồn
tiền nhàn rỗi trong xã hội làm nguồn vốn tín dụng để cho vay đối với nền kinh tế.
Vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng kinh doanh, là tài sản
bằng tiền của các chủ sở hữu mà ngân hàng tạm thời quản lý và sử dụng nhưng với
nghĩa vụ hoàn trả kịp thời, đầy đủ cả gốc và lãi khi khách hàng có yêu cầu. Nguồn
vốn huy động bao gồm:
+ Tiền gửi thanh toán: Tiền gửi thanh toán là tiền gửi của các cá nhân, các
doanh nghiệp, hợp tác xã, đoàn thể và các tổ chức kinh tế khác, mở tài khoản
thanh toán tại ngân hàng.
Việc mở tài khoản của các tổ chức kinh tế và cá nhân giúp cho ngân hàng có
thể tận dụng được nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi để bổ sung nguồn vốn tín dụng.
Về phía khách hàng việc mở và gửi tiền vào tài khoản này thì tiền vốn sẽ được
đảm bảo an toàn và sinh lời trong thời gian gửi và nhận được các dịch vụ tài chính
từ ngân hàng kinh doanh theo yêu cầu của chủ tài khoản.
+ Tiền gửi tiết kiệm:bao gồm các hình thức tuỳ thuộc vào thời gian gửi:
- Tiền gửi không kỳ hạn: Khách hàng có thể gửi và rút bất kỳ lúc nào mình
muốn và không cần phải báo trước, thường lãi suất thấp hơn so với các kỳ hạn
khác.
Đối tượng gởi là tất cả các đối tượng có nguồn tiền nhàn rỗi gửi vào ngân
hàng để thu lợi tức và đảm bảo an toàn cho tiền vốn. Ngân hàng dùng nguồn vốn
huy động này để cho vay ngắn hạn.
- Tiền gửi có kỳ hạn: Khách hàng chỉ được rút tiền, khi thời hạn gửi tiền đến
hạn, lãi suất loại này cao hơn. Tiền gửi có kỳ hạn là nguồn vốn tín dụng mang
tính chất ổn định. Vì vậy, ngân hàng thường chú trọng biện pháp kích thích để huy
động tiền gửi này. Ngân hàng đưa ra nhiều loại thời hạn khác nhau nhằm đáp ứng
đa dạng các khoản tiền nhàn rỗi hình thành trong dân cư. Thông thường lãi suất
cao hay thấp tùy thuộc vào từng kỳ hạn và vào thị trường vốn từng thời điểm.

- 7 -
+ Tiền phát hành kỳ phiếu, trái phiếu: Ngoài huy động vốn dưới hình thức
tiền gửi, Ngân hàng kinh doanh còn phát hành kỳ phiếu, trái phiếu. Kỳ phiếu, trái
phiếu là chứng chỉ nhận nợ của ngân hàng đối với người mua, có quy định mệnh
giá, thời hạn và lãi suất. Căn cứ vào nhu cầu sử dụng vốn ngân hàng phát hành
theo từng đợt cho từng loại kỳ phiếu, trái phiếu có thời hạn và lãi suất khác nhau,
nhằm huy động đông đủ số vốn cần thiết trong thời gian nhất định.
+ Vốn vay: Ngoài các nguồn vốn trên, ngân hàng còn vay vốn trên thị trường
bằng cách vay vốn của các tổ chức tài chính và tổ chức tín dụng khác
• Các nguồn vốn khác
Ngoài các nghiệp vụ huy động vốn nêu trên, ngân hàng còn thực hiện nhiệm
vụ khác như:cầm cố động sản,giấy tờ có giá,thuê mua tài chính,nhằm tạo thêm lợi
nhuận trong quá trình kinh doanh.
- Ngân hàng thực hiện nghiệp vụ chuyển tiền, khách hàng mang tiền mặt đến
và nhờ chuyển tiền cho người thứ 3.
- Nghiệp vụ thanh toán có chứng từ (ủy thác) ngân hàng thay mặt khách hàng
nhận tiền từ các chứng từ khách hàng giao và quản lý hộ cho khách hàng.
b. Nghiệp vụ sử dụng vốn:
• Tài sản cố định: Nhằm mục đích phục vụ cho hoạt động kinh doanh của
ngân hàng, ngoài trụ sở làm việc Ngân hàng cần phải trang bị thêm các phương
tiện, thiết bị, văn phòng, hệ thống vi tính Nhằm phục vụ trong quá trình kinh
doanh của Ngân hàng.
• Tài sản ngân quỹ: Gồm các loại sau:
+ Tiền gửi tại quỹ bỏ tại kho ngân hàng. Nhu cầu dự trữ tiền mặt tại quỹ cao
hay thấp phụ thuộc vào môi trường nơi ngân hàng đang hoạt động và tính chất thời
vụ.
+ Tiền gửi dự trữ bắt buộc: Có 2 hình thức dự trữ bắt buộc:
- 8 -
- Dự trữ bắt buộc dưới hình thức phong tỏa: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc được quy
định 8% trong tổng số tiền gửi. Tiền gửi bao gồm tiền gửi thanh toán của các tổ

chức, cá nhân, tiền gửi có kỳ hạn và không kỳ hạn, các khoản tiền quản lý và giữ
hộ, trái phiếu, kỳ phiếu dưới 1 năm.
Số tiền dự trữ sau khi đã xác định sẽ đưa vào một tài khoản riêng để phong
tỏa.
- Dự trữ bắt buộc dưới hình thức không phong tỏa: NHTW quy định tỷ lệ dự
trữ bắt buộc, các ngân hàng kinh doanh phải chủ động thực hiện dự trữ theo tỷ lệ
quy định, NHTW sẽ tiến hành kiểm tra việc dự trữ của các ngân hàng kinh doanh.
Ngày nay phần lớn các ngân hàng đều áp dụng phương thức quản lý dự trữ
dưới hình thức không phong tỏa.
+ Tiền gửi thanh toán tại NHTW và ngân hàng đại lý.
Tiền gửi loại này sử dụng để thực hiện các khoản thanh toán chuyển khoản
giữa các ngân hàng khi khách hàng tiến hành các thể thức thanh toán không dùng
tiền mặt như Séc,Uỷ nhiệm chi, thẻ thanh toán.
• Cho vay:
Nghiệp vụ cho vay luôn là nghiệp vụ quan trọng nhất tạo ra nguồn thu nhập
chính của ngân hàng (chiếm khoảng 80% tổng thu nhập). Hoạt động cho vay của
NHTM rất đa dạng, phong phú nó bao gồm các loại hình sau:
+ Tín dụng ứng trước: Là một thể thức cho vay được thực hiện trên cơ sở hợp
đồng tín dụng, trong đó khách hàng được sử dụng một mức cho vay trong một thời
hạn nhất định. Tín dụng ứng trước có 2 loại:
- Ứng trước có bảo đảm: Là loại tín dụng cấp phát triển cơ sở có tài sản thế
chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của một hay nhiều người khác.
- Ứng trước không bảo đảm: Là loại tín dụng chỉ cần dựa trên cơ sở uy tín
của khách hàng mà không cần thế chấp hoặc cầm cố tài sản hoặc bảo lãnh của
người khác.
- 9 -
+ Thấu chi: Áp dụng cho các khách hàng có mở tài khoản tại ngân hàng và
có khả năng tài chính lành mạnh, khách hàng uy tín, theo đó ngân hàng cho phép
các khách hàng đó chi vượt quá số dư thực có trên tài khoản tiền gửi trong một
giới hạn thỏa thuận có ghi trong hợp đồng.

+ Chiết khấu thương phiếu: Là một nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn, khách hàng
có tiền thì có thể đến ngân hàng để bán với điều kiện là phải trả lãi suất chiết khấu
và hoa hồng phí.
+ Bao thanh toán: Đây là một dịch vụ do công ty con của ngân hàng thực
hiện, là nghiệp vụ đi mua lại các yêu cầu chi trả của doanh nghiệp nào đó để rồi
sau đó nhận các khoản chi trả của yêu cầu đó, thông thường các yêu cầu chi trả ở
đây là ngắn hạn.
+ Tín dụng thuê mua: Là hình thức tín dụng trung – dài hạn được thực hiện
thông qua việc cho thuê máy móc, thiết bị, các động sản và bất động sản khác. Bên
cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, động sản và bất động sản theo yêu cầu của
bên thuê và nắm giữ quyền sở hữu đối với tài sản cho thuê. Bên thuê sử dụng tài sản
thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được 2 bên thỏa thuận và
không được hủy bỏ hợp đồng trước thời hạn khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được
chuyển quyền sở hữu, mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã
thỏa thuận trong hợp đồng thuê.
+ Tín dụng bằng chữ ký
- Tín dụng chấp nhận: Thực chất là việc ngân hàng đứng ra thực hiện nghiệp
vụ chấp nhận thương phiếu cho khách hàng. Tức là xác nhận việc bảo đảm thanh
toán của người trả tiền thương phiếu. Người phát hành thương phiếu sau khi được
ngân hàng chấp nhận có thể sử dụng thương phiếu đó để làm phương tiện chi trả
hoặc chiết khấu ở ngân hàng. Ở nghiệp vụ này, ngân hàng là chủ thể cho mượn uy
tín của mình để khách hàng được vay vốn.
- Tín dụng chứng từ (L/C): Vừa là phương thức thanh toán quốc tế vừa là
một nghiệp vụ tín dụng, bởi lẽ khi ngân hàng mở thư tín dụng cho khách hàng của
- 10 -
mình là nhâp khẩu và người hưởng là nhà xuất khẩu ở nước ngoài, có nghĩa là
ngân hàng đã cam kết trả tiền khi nhà xuất khẩu đã giao gởi hàng đi và xuất trình
đầy đủ các chứng từ đã thỏa thuận trong thư tín dụng.
- Tín dụng bảo lãnh: Đây là việc ngân hàng đứng ra đảm bảo việc thực hiện
một nghĩa vụ của khách hàng, tức là sự cam kết của ngân hàng sẽ thực hiện nghĩa

vụ thay cho người được bảo lãnh nếu người này không thực hiện nghĩa vụ. Điều
này được cụ thể hóa bằng văn bản do ngân hàng phát hành được gọi là chứng thư
bảo lãnh. Hiện nay có rất nhiều loại bảo lãnh như bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh
đấu thầu, bảo lãnh thuế quan, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh tiền đặt cọc,
bảo lãnh chất lượng và trọng lượng.
+ Tín dụng tiêu dùng: Được thực hiện để tài trợ cho nhu cầu tiêu dùng, đối
tượng là tất cả các cá nhân tùy thuộc vào tài chính của họ.
• Đầu tư khác:
Bên cạnh hoạt động cho vay, ngân hàng còn thực hiện các hoạt động như: Tư vấn,
cho thuê két sắt… Để tìm kiếm lợi nhuận và thu nhập, nâng cao khả năng thanh toán và
đa dạng hóa các dịch vụ kinh doanh nhằm phân tán những rủi ro ngoài hoạt động cho
vay.
c. Các nghiệp vụ khác
Trong hoạt động của ngân hàng, các dịch vụ ngân hàng được xem như là
nghiệp vụ thứ 3, trên thực tế người ta phân các dịch vụ ngân hàng thành 3 loại:
+ Nghiệp vụ thanh toán, nghiệp vụ ngoại tệ, nghiệp vụ vàng bạc đá quý, nhờ
thu kỳ phiếu, Séc….
+ Nghiệp vụ phát hành, bảo vệ và bảo quản chứng khoán.
+ Quản lý tài sản (Các nghiệp vụ ủy thác, ủy nhiệm) đây là loại nghiệp vụ có
dịch vụ phí…
2.1.2 Tổng quan về tín dụng ngân hàng
2.1.2.1 Khái niệm, đặc diểm của tín dụng Ngân hàng
- 11 -
a. Khái niệm
Tín dụng (Credit) xuất phát từ chữ la tinh là Credium (tin tưởng, tín nhiệm).
Trong thực tế cuộc sống thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau;
ngay cả trong quan hệ tài chính, tuỳ theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín
dụng có một nội dung riêng. Trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của
Ngân hàng thì tín dụng được hiểu như sau:
- Tín dụng : Là một giao dịch về tài sản ( tiền hoặc hàng hoá ) giữa bên cho

vay (Ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh
nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi
vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách
nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh
toán.
- Tín dụng Ngân hàng (TDNH): là quan hệ chuyển nhượng vốn giữa ngân
hàng với các chủ thể kinh tế khác trong xã hội, trong đó Ngân hàng giữ vai trò vừa
là người đi vay, vừa là người cho vay.
b. Đặc điểm của tín dụng Ngân hàng
- Chủ thể tham gia gồm một bên là Ngân hàng và bên còn lại là các chủ thể
khác trong nền kinh tế, như các doanh nghiệp, hộ gia đình, cá nhân, vv…
- Vốn tín dụng cấp chủ yếu là tiền tệ, cũng có thể là tài sản .
- Thời hạn của TDNH cũng rất là linh hoạt, có thể là ngắn hạn, trung hạn, hoặc
dài hạn.
- Công cụ của TDNH cũng rất linh hoạt, có thể là kỳ phiếu, trái phiếu Ngân
hàng, các hợp đồng tín dụng, vv…
- Là hình thức tín dụng mang tính chất gián tiếp, trong đó Ngân hàng là trung
gian tín dụng giữa những người tiết kiệm và những người cần vốn để sản xuất kinh
doanh hoặc tiêu dùng.
- 12 -
- Mục đích của TDNH là nhằm phục vụ sản xuất, kinh doanh hoặc tiêu dùng
qua đó thu được lợi nhuận.
2.1.2.2 Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với nền kinh tế.
- TDNH góp phần thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã hội
Vai trò quan trọng nhất của tín dụng là cung ứng vốn một cách kịp thời cho
các nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của các chủ thể kinh tế trong xã hội.
Một hình thức tổ chức tín dụng đa dạng không những thoả mãn nhu cầu đa
dạng về vốn của nền kinh tế mà còn làm cho sự tiếp cận các nguồn vốn tín dụng
trở nên dễ dàng, tiết kiệm chi phí giao dịch và giảm bớt các chi phí nguồn vốn cho
các chủ thể kinh doanh.

Việc mở rộng và nâng cao các hình thức tín dụng sẽ giúp cho các nhà sản
xuất tích cực tìm kiếm cơ hội đầu tư mới và nâng cao năng lực sản xuất của xã
hội.
Các nguồn vốn tín dụng được cung ứng luôn kèm theo các điều kiện tín dụng
để hạn chế rủi ro đạo đức và rủi ro lựa chọn đối nghịch buộc những người đi vay
phải quan tâm thực sự đến hiệu quả sử dụng vốn để đảm bảo mối quan hệ lâu dài
với các tổ chức tín dụng
- Tín dụng là kênh chuyển tải tác động của Nhà nước đến các mục tiêu vĩ mô
Các mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế bao gồm ổn định giá cả, tăng trưởng kinh
tế và tạo công ăn việc làm.
Với chức năng tập trung tận dụng những nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, tín
dụng đã trực tiếp giảm khối lượng tiền mặt tồn đọng trong lưu thông, lượng tiền
dôi thừa này nếu không được huy động và sử dụng kịp thời có thể gây ảnh hưởng
xấu đến tình hình lưu thông tiền tệ, dẫn đến mất cân đối trong quan hệ H-T và hệ
thống giá cả bị biến động là điều không thể tránh khỏi. Do đó trong điều kiện lạm
phát, tín dụng được xem như là một trong những biện pháp hữu hiệu góp phần làm
giảm lạm phát.Khi nền kinh tế phát triển và ổn định về tiền tệ thì đó cũng chính là
- 13 -
điều kiện để nâng cao dần đời sống của các thành viên trong xã hội.
- Tín dụng là công cụ thực hiện các chính sách xã hội.
Chẳng hạn như việc tài trợ vốn cho người nghèo được thực hiện phổ biến
bằng tín dụng đối với người nghèo với lãi suất thấp, với phương thức này đây là sự
đảm bảo chắc chắn cho sự ổn định tài chính của các đối tượng chính sách và từng
bước làm cho họ có thể tồn tại độc lập với nguồn vốn tài trợ. Đó chính là mục đích
của việc sử dụng phương thức tài trợ các mục tiêu chính sách bằng con đường tín
dụng.
2.1.2.3 Nguyên tắc cơ bản của tín dụng Ngân hàng
- Nguyên tắc 1 : Vốn vay phải được hoàn trả nợ gốc và lãi đầy đủ theo đúng
thoả thuận. Đây là nguyên tắc cơ bản chủ đạo trong quan hệ tín dụng. Khi Ngân
hàng cấp phát tiền vay Ngân hàng phải có cơ sở tin rằng khách hàng có khả năng

trả nợ một cách đầy đủ nếu không hợp đồng tín dụng không thể xảy ra, bởi vậy để
duy trì và phát triển kinh doanh tiền tệ của Ngân hàng thì đồng vốn bỏ ra phải
quay về Ngân hàng với giá trị cao hơn, điều này không chỉ giúp cho Ngân hàng có
thể tái tạo lại nguồn vốn mà còn có lãi để trang trải chi phí, nếu Ngân hàng không
thu hồi đủ nợ thì dẫn đến thua lỗ và cao hơn nữa là mất khả năng thanh toán.
- Nguyên tắc 2 : Vốn vay phải có mục đích, đảm bảo sử dụng vốn vay đúng
mục đích đã thoả thuận. Để đảm bảo nguyên tắc thứ nhất là vốn vay phải được
hoàn trả và đảm bảo cho nền kinh tế phát triển cân đối thì khi cấp tiền vay Ngân
hàng phải biết vốn vay sử dụng vào việc gì, có khả năng thu hồi vốn tạo ra lợi
nhuận để trang trải nợ hay không mức độ mạo hiểm trong việc sử dụng vốn như
thế nào, từ đó ảnh hưởng đến khả năng hoàn trả tín dụng ra sao…Do vậy nguyên
tắc này là nguyên tắc cơ bản hỗ trợ cho nguyên tắc thứ nhất
- Nguyên tắc 3 : Vốn vay phải có đảm bảo, việc đảm bảo tiền vay phải thực
hiện theo quy định. Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế năng động chúng ta khó
có thể dự báo tương đối chính xác các sự kiện xảy ra trong tương lai. Do vậy,
- 14 -
chúng ta cũng khó mà xác định một cách chính xác người sử dụng vốn vay có thể
trả nợ trong tương lai hay không. Cho nên để đảm bảo nguyên tắc chỉ đạo trong
hoạt động tín dụng là nguyên tắc hoàn trả thì cần phải có nguyên tắc thứ ba hỗ trợ
cho nguyên tắc thứ nhất. Đây là nguyên tắc thu nợ thứ hai khi nguồn thu nợ thứ
nhất không diễn ra.
2.1.3 Hộ sản xuất và vai trò của hộ sản xuất đối với phát triển kinh tế nông
nghiệp nông thôn
2.1.3.1 Khái niệm hộ sản xuất nông nghiệp
Hộ sản xuất là các hộ có phương tiện sống dựa trên ruộng đất, sử dụng chủ
yếu lao động gia đình trong sản xuất chính, nằm trong hệ thống kinh tế rộng lớn
nhưng về mặt cơ bản được đặc trưng bằng việc tham gia từng phần vào thị trường
hoạt động với một trình độ hoàn chỉnh không cao.
Hộ sản xuất là những hộ sống ở nông thôn, có ngành nghề chính là nông
nghiệp, nguồn thu nhập và sinh sống chủ yếu bằng nghề nông. Ngoài hoạt động

nông nghiệp, hộ SXNN còn tham gia các các hoạt động khác như: tiểu thủ công
nghiệp, dịch vụ, thương mại…
Hộ sản xuất là một đơn vị kinh tế cơ sở, vừa là một đơn vị sản xuất vừa là
một đơn vị tiêu dùng. Tuy vậy, kinh tế hộ sản xuất thường nằm trong hệ thống
kinh tế lớn hơn, chủ yếu đặc trưng bởi sự tham gia cục bộ vào các thị trường và có
xu hướng hoạt động với mức độ không hoàn hảo cao. Như vậy hộ sản xuất không
thể là một đơn vị kinh tế độc lập tuyệt đối và toàn năng, và còn phải phụ thuộc vào
hệ thống kinh tế lớn hơn của nền kinh tế quốc dân. Khi trình độ phát triển lên mức
cao của CNH – HĐH, thị trường xã hội càng mở rộng và đi vào chiều sâu, các hộ
sản xuất càng phụ thuộc nhiều hơn và hệ thống kinh tế rộng lớn không chỉ trong
phạm vi một vùng, một nước. Điều này càng có ý nghĩa đối với các hộ sản xuất
nước ta trong tình hình hiện nay.
2.1.3.2 Vai trò của kinh tế hộ sản xuất đối với nền kinh tế
a. Kinh tế hộ sản xuất góp phần phát huy và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực
- 15 -
trong nông nghiệp và nông thôn.
Trong các nền kinh tế chậm phát triển hay đang phát triển, nhất là đối với
khu vực Châu Á nói chung và khu vực Đông Nam Á nói riêng, hộ sản xuất mà chủ
yếu là hộ nông dân chiếm tỷ lệ đông trong tổng số hộ của toàn quốc. Hộ sản xuất
là đơn vị kinh tế, đơn vị sản xuất kinh doanh đông đảo nhất trong nền kinh tế. Việt
Nam với xuất phát điểm nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp…
với gần 80% dân số sống ở nông thôn, hơn 70% lực lượng lao động trong nông
nghiệp, do đó cũng ở trong bối cảnh chung nói trên.
Kinh tế hộ sản xuất phát triển đã góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn
nhân lực ở nông thôn, tạo công ăn việc làm cho các lao động nhàn rỗi, góp phần
giải quyết phần nào số lao động đang thất nghiệp.
b. Kinh tế hộ sản xuất có khả năng thích ứng với cơ chế thị trường thúc đẩy sản
xuất hàng hoá, thúc đẩy phân công lao động dẫn tới chuyên môn hoá.
Với tinh thần tự chủ, năng động và sáng tạo,kinh tế hộ sản xuất đã sớm thích
ứng với những biến đổi thường xuyên của thị trường và ngày càng khẳng định vai

trò không thể thiếu được của mình, với quy mô nhỏ, vốn đầu tư ít có thể dễ dàng
đi vào sản xuất kinh doanh đã giải quyết công ăn việc làm cho hộ gia đình và một
bộ phận không nhỏ lao động ngoài xã hội, tăng thu nhập nuôi sống mọi yêu cầu
của hộ. Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường, thành phần kinh tế tập thể thu hẹp,
kinh tế tư nhân, cá thể, mở rộng và phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng
và cả quy mô đã thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư trong dân cư vào mọi lĩnh
vực sản xuất vật chất và dịch vụ. Sự phát triển lớn mạnh cả về qui mô và trình độ
của hộ sản xuất có tác động lớn đến tăng trưởng kinh tế, đến tiêu dùng và sức mua,
đến phân công lao động xã hội, đến giải quyết các vấn đề xã hội.
c. Phát triển kinh tế hộ sản xuất đã góp phần kích thích phát triển toàn diện
kinh tế nông nghiệp, nông thôn; góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng đẩy mạnh CNH – HĐH.
- 16 -
Hộ sản xuất với số lượng hộ lớn và ngày càng trở nên tự chủ trong quyết định
đầu tư, kinh tế hộ sản xuất đã và đang có vai trò to lớn trong công cuộc đổi mới và
phát triển kinh tế thực hiện CNH – HĐH đất nước.
d. Kinh tế hộ sản xuất đóng góp cho nền kinh tế đất nước một khối lượng lớn
hàng hóa dịch vụ phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Khối lượng sản phẩm hàng hoá, nhất là các sản phẩm lương thực, thực phẩm
…chủ yếu là do hộ sản xuất tạo ra cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Sản
lượng lương thực tăng từ 19,5 triệu tấn năm 1991 lên 29,1 triệu tấn năm 1998 và
đạt mức kỷ lục 36,4 triệu tấn năm 2002, bình quân đầu người tăng 303,2 kg năm
1990 lên 456,5 kg năm 2002, lương thực được sản xuất hàng năm không những đủ
tiêu dùng trong nước mà còn xuất khẩu mỗi năm 3-4 triệu tấn gạo, đưa nước ta
đứng vào danh sách 1 trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới, góp
phần nâng cao đời sống của người dân về mọi mặt.
2.1.3.4 Vai trò của Tín dụng Ngân hàng đối với kinh tế hộ
a.TDNH góp phần tạo điều kiện cho hộ sản xuất tiếp cận được với nguồn vốn
qua đó đầu tư phát triển kinh tế.
Ngày 28/06/1991 Chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng Võ Văn Kiệt ký chỉ thị số

202/CT về cho vay hộ sản xuất. Chỉ thị nêu rõ "Việc cho vay của Ngân hàng để
phát triển nông – lâm – ngư nghiệp cần được chuyển sang cho vay trực tiếp đến
hộ sản xuất, tạo điều kiện cho các hộ sản xuất ở nông thôn thực sự trở thành đơn
vị kinh tế tự chủ”. Chỉ thị 202/CT có ý nghĩa rất quan trọng, chính thức công nhận
cho vay trực tiếp hộ nông dân là một chính sách của chính phủ, một hoạt động
quan trọng của Ngân hàng. Như vậy chỉ thị 202 đã giúp cho hộ sản xuất mà chủ
yếu là hộ nông dân tiếp cận đựơc với nguồn vốn vay, tạo điều kiện cho kinh tế hộ
phát triển.
Thực hiện nghị định 14/CP và, ngày 2/9/1993 Chủ tịch hội đồng quản trị
kiêm tổng Giám đốc Phạm Văn Thực ban hành đặt dấu ấn quan trọng về biện pháp
- 17 -
cho vay hộ nông dân.
Với việc ra đời của nghị định 14/CP ngày 2/3/1993 của Chính phủ, thông tư
số 01/TT-NH1 ngày 26/03/1999 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước và văn bản
499A/NHNo-TDNT đã tạo tiền đề cho kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát triển.
Tuy nhiên so với yêu cầu CNH – HĐH nông nghiêp, nông thôn và nhu cầu vốn để
phát triển sản xuất hàng hoá của các hộ nông dân thì hoạt động tín dụng đối với hộ
nông dân còn bất cập, hạn chế. Cụ thể như: Điều kiện cho vay vốn đối với hộ nông
dân còn khó khăn, nhất là yêu cầu về tài sản thế chấp " vay dưới 500.000 đồng
không phải thế chấp tài sản nhưng phải có vật tư tương đương đảm bảo; vay từ
500 ngàn đồng đến 10 triệu đồng phải thế chấp hoặc cầm cố tài sản, bảo lãnh của
bên thứ ba, nếu ko thì phải có vật tư tương đương đảm bảo; vay từ trên 10 triệu
đồng nhất thiết phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh" trong khi đó giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) đựoc cấp ít, nên nhiều hộ không đủ điều
kiên vay vốn.
Xuất phát từ thực tế nói trên, để giải quyết các khó khăn vướng mắc nhằm
thúc đẩy tín dụng đối với kinh tế hộ phát triển, ngày 30/3/1999 Thủ tướng Chính
Phủ ban hành quyết định số 67/1999/QĐ-TTg về một số chính sách tín dụng ngân
hàng phục vụ phát triển nông nghiệp,nông thôn. Quyết định 67 ra đời tạo điều kiện
thông thoáng hơn cho hộ sản xuất vay vốn phát triển kinh tế. “Đối với hộ gia đình,

Ngân hàng cho vay đến 10 triệu người vay không phải thế chấp tài sản chỉ nộp
kèm đơn xin vay giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”. Như vậy nghị định 67 ra
đời đã đánh dấu thêm một bước ngoặt mới trong cho vay hộ sản xuất, tạo điều
kiện cho hộ sản xuất mở rộng sản xuất kinh doanh.
b. TDNH đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất đảm bảo quá trình sản xuất
liên tục, góp phần hạn chế nạn cho vay nặng lãi ở nông thôn.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh của mỗi loại hình kinh tế thì vai trò của
vốn rất quan trọng, ngay từ khi mới thành lập phương án để đi vào hoạt động thì
điều đầu tiên là cần phải có một số vốn nhất định. Ở đây có thể là ở dạng máy
- 18 -
móc, thiết bị hay vốn bằng tiền rồi trong quá trình sản xuất nhu cầu vốn cũng
được đặt ra để đầu tư phát triển sản xuất, mở rộng quy mô cho nên vốn là yếu tố
không thể thiếu được trong bất kỳ giai đoạn sản xuất kinh doanh nào. Để giải
quyết tình trạng thiếu vốn các chủ thể kinh tế có thể thực hiện bằng nhiều cách
như sau :
- Vay từ người thân, bạn bè hoặc trên thị trường "Chợ đen”.
- Vay vốn Ngân hàng bằng các hình thức cầm cố, thế chấp, thông qua nghiệp
vụ chiết khấu.
Với cách giải quyết vay vốn Ngân hàng: Với vai trò Ngân hàng là "Bà đỡ của
nền kinh tế” sẽ là những trung gian tài chính quan trọng trong việc cung cấp tín
dụng cho kinh tế hộ sản xuất. Khi tín dụng ngân hàng chưa tiếp cận được thì sẽ
nảy sinh cho vay nặng lãi thông qua cho vay bằng tiền, bằng vàng, huê hụi với
lãi suất cao.
Như vậy tín dụng ngân hàng đóng vai trò điều chuyển vốn đã đáp ứng nhu
cầu vốn cho hộ sản xuất đảm bảo quá trình sản xuất liên tục góp phần thúc đẩy sự
phát triển kinh tế, đồng thời góp phần hạn chế việc cho vay nặng lãi trên thị trường
"chợ đen”.
c. TDNH góp phần khôi phục, phát huy các ngành nghề truyền thống, góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp.
Thông qua nghị định 14/CP ngày 2/3/1993 của Chính phủ. Nghị định ban

hành đã mở rộng vốn cho vay vào các mục đích “ Sản xuất nông – lâm – ngư
nghiệp; dịch vụ phục vụ sản xuất nông – lâm – ngư nghiệp; phát triển công nghệ
chế biến nông sản và tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn; tiêu thụ sản phẩm nông -
lâm - ngư nghiệp và sản phẩm tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn." Như vậy cho
vay hộ nông nghiệp không giới hạn ở sản xuất nông nghiệp là trồng trọt và chăn
nuôi mà mở rộng đến mọi lĩnh vực kinh tế ở nông thôn, tạo lập thị trường sản xuất
lưu thông hàng hoá ở nông thôn.
- 19 -
d. TDNH là kênh truyền tải vốn tài trợ của Nhà nước, vốn uỷ thác đầu tư nước
ngoài đối với nông nghiệp, nông thôn.
Thông qua tín dụng ngân hàng nguồn vốn tài trợ của nhà nước, vốn uỷ thác
đầu tư của nước ngoài đã đến được với hộ nông dân thông qua các chương trình
2561 của Ngân hàng Thế giới, quỹ AFD của Pháp, dự án ADB của Ngân hàng
phát triển Châu Á.
2.1.3. Hiệu quả tín dụng đối với hộ sản xuất
2.1.3.1 Quan niệm về hiệu quả tín dụng
Trong nền kinh tế thị trường bất kỳ một loại sản phẩm nào sản xuất ra cũng
phải là sản phẩm mang tính cạnh tranh. Điều này có nghĩa là mọi sản phẩm sản
xuất ra đều phải có chất lượng. Các nhà kinh tế đã nhận xét “chất lượng là sự phù
hợp mục đích của người sản xuất và người sử dụng về một loại hàng hóa nào đó”.
Tín dụng là phạm trù kinh tế mang tính lịch sử, ra đời và tồn tại trong nền kinh
tế sản xuất và trao đổi hàng hóa. Nó là một trong những sản phẩm chính của Ngân
hàng. Đây là hình thức sản phẩm mang hình thái phi vật chất, là dịch vụ đặc biệt.
Sản phẩm này chỉ có khả năng đánh giá được sau khi khách hàng đã sử dụng. Do
vậy có thể quan niệm chất lượng tín dụng Ngân hàng là việc đáp ứng nhu cầu của
khách hàng, đáp ứng nhu cầu phát triển Ngân hàng và mục tiêu phát triển kinh tế
xã hội.
Như vậy, chất lượng tín dụng ngân hàng được thể hiện qua các quan điểm sau:
- Đối với khách hàng: Tín dụng Ngân hàng đưa ra phải phù hợp với yêu cầu
của khách hàng về lãi suất (giá sản phẩm), kỳ hạn, phương thức thanh toán, hình

thức thanh toán, thủ tục đơn giản thuận tiện, tuy nhiên vẫn đảm bảo nguyên tắc tín
dụng ngân hàng.
- Đối với Ngân hàng: Ngân hàng đưa ra các hình thức cho vay phù hợp với
phạm vi, mức độ, giới hạn của bản thân Ngân hàng để luôn đảm bảo tính cạnh
tranh, an toàn, sinh lời theo nguyên tắc hoàn trả đầy đủ và có lợi nhuận.
2.1.3.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng
- 20 -
a. Nhân tố khách quan.
- Mức tăng trưởng của nền kinh tế: nền kinh tế Việt Nam còn phát triển ở
mức thấp, cơ sở hạ tầng còn yếu kém.
- Môi trường pháp lý: còn nhiều vấn đề bất cập, hệ thống pháp luật chưa
đồng bộ, hiệu lực pháp chế thấp, các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô chưa ổn
định. Môi trường pháp lý cho hoạt động Ngân hàng cũng chưa đầy đủ, ảnh hưởng
nhiều đến hoạt động kinh doanh Ngân hàng.
- Sự biến động về chính trị, kinh tế của thế giới
- Điều kiện tự nhiên: thiên tai, bão lụt, hạn hán liên tục xảy ra làm cho các hộ
sản xuất gặp nhiều khó khăn về tài chính, dẫn đến chậm trả nợ hoặc không có khả
năng trả nợ.
b. Nhân tố chủ quan.
- Công tác tổ chức nhân sự của Ngân hàng: Bố trí nhân sự có thể chưa phù
hợp với năng lực và trình độ của từng cán bộ nên chưa phát huy được hết khả năng
của từng người.
- Công tác thẩm định chất lượng chưa cao
- Công tác kiểm tra, giám sát tín dụng: không thực hiện thường xuyên
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Tình hình chung về hoạt động tín dụng nông thôn ở Việt Nam
Ở nước ta sau gần 20 năm đổi mới, Đảng và Nhà nước đã có nhiều quyết sách
quan trọng đối với nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt từ sau nghị quyết 10 năm
1988, nghị quyết 5 ban chấp hành Trung Ương Đảng khóa VII ngày 10/06/1993.
Kể từ khi đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những bước phát triển và đạt được

những thành tựu to lớn, nhất là ngành nông nghiệp. Nhiều vùng của đất nước đã
chuyển dịch nền cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn để ngày càng có nhiều
hàng hóa đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế quốc dân. Làm được điều này , trong
- 21 -
nền kinh tế nông nghiệp không thể không nhờ vào sự đóng góp của
NHNo&PTNT Việt Nam về việc đưa vốn đến tận tay người nông dân thông qua
công tác cho vay.
Hơn 15 năm qua, NHNo&PTNT Việt Nam ( Agribank) đã nỗ lực hết mình,
đóng vai trò chủ đạo trong sự phát triển nông nghiệp, nông thôn vì sự thịnh vượng
của bà con nông dân. Đến nay Agribank đã tiếp cận được 100% tổng số hơn
12.000 đơn vị hành chính xã của cả nước. từ năm 1991 đến nay, đã có hàng chục
triệu lượt hộ sản xuất được vay vốn doanh số gần 500.000 tỷ đồng, dư nợ cho vay
hộ sản xuất đến nay là 113.000 tỷ đồng, với gần 10 triệu hộ. Cho vay vốn hộ sản
xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp có tốc độ tăng trưởng nhanh, đặc biệt từ sau
quyết định 67/1999/QĐ-TTg. Đại diện cho vay cũng như các kênh dẫn vốn tới hộ
sản xuất, doanh nghiệp cũng được mở rộng, phát triển khắp các vùng kinh tế của
đất nước, trở thành tín dụng chủ yếu của các chi nhánh thuộc khu vực nông thôn.
Thông qua các tổ chức chính trị xã hộ ở cơ sở, đến nay, đã có hơn 110.000 tổ cho
vay vốn do các tổ viên hội nông dân thành lập. Hoạt động tín dụng của Agribank
thực sự gắn với làng, bản, xóm, thôn gần gủi với bà con nông dân. Vốn cho vay đã
tạo thêm nghề mới, khôi phục các làng nghề truyền thống, góp phần chuyển dịch
cơ cấu nông nghiệp, nông thôn theo hướng phát triển sản xuất hàng hóa, công
nghiệp dịch vụ. Đặc biệt Agribank đã đáp ứng với khối lượng lớn cho các hộ gia
đình làm kinh tế trang trại với số tiền trên 10.000 tỷ đồng; cho xây dựng cơ sở hạ
tầng nông thôn ( điện, thủy lợi, nhà ở) tới hàng ngàn tỷ đồng. góp phần thực hiện
một bước CNH-HĐH nông nghiệp, nông thôn
2.2.2 Kinh nghiệm một số nước trên thế giới trong hoạt động tín dụng nông
thôn.
Vốn là yếu tố đầu vào quan trọng giúp người nghèo vượt ra khỏi đói nghèo
bằng cách nuôi sống các hoạt động tạo thu nhập. Trong nhiều thập niên vừa qua,

chiến lược phát triển của các nước đang phát triển dành nhiều ưu tiên cho các
chương trình xóa đói giảm nghèo, đặc biệt là ở khu vực nông thôn. Một trong nội
dung chính là cung cấp dịch vụ tài chính có chi phí phù hợp với khả năng của
- 22 -
người dân nông thôn để phát triển sản xuất, tăng thu nhập, và nhờ đó vượt ra khỏi
vòng đói nghèo.
• Ở Băngladesh:
Ở Bangladesh chỉ có Grameem Bank là tổ chức tín dụng duy nhất làm dịch
vụ ngân hàng ở nông thôn. Hoạt động của Grameen bank được quốc hội
Bangladesh thông qua thành một bộ luật riêng. Giấy phép hoạt động do ngân hàng
nhà nước cấp theo quy chế riêng, không áp dụng qui chế của các ngân hàng
thương mại ở Bangladesh.
Về mạng lưới hoạt động: Grammeen Bank có trụ sở chính đặt tại thủ đô
Đatka và các văn phòng đại diện, các chi nhánh tại các Bang, vùng, mỗi chi nhánh
phục vụ từ 12 đến 22 làng với số nhân viên toàn hệ thống là 13.000 người.
Về vốn: vốn điều lệ có 150 taka (khoảng 3,75 triệu USD) trong đó vốn góp
cổ phần của nhà nước là 18 triệu taka, phần còn lại là vốn cổ phần của các cổ
đông và phát hành trái phiếu.
Người vay vốn tự nguyện tập hợp thành nhóm 5 người và tư quyết định cho
2 người vay trước, sau khi 2 người này trả dứt nợ mới đến 2 người tiếp theo,
trưởng nhóm vay cuối cùng khi các thành viên của nhóm đã trả xong nợ. Các
nhóm hoạt động trong khuôn khổ một trung tâm, mỗi trung tâm tố đa 10 nhóm.
Hàng tuần trưởng trung tâm chủ trì cuộc họp để phổ biến việc thực hiện các vấn
đề xã hội: xóa mù chữ, kế hoạt hóa gia đình , vệ sinh môi trường…Nhân viên
Grameen Bank sẽ tiến hành các giao dịch cho vay, thu nợ và huy động tiết kiệm
tại các cuộc họp này. Việc cho vay không đòi hỏi phải có tài sản thế chấp và trả
góp nên rất phù hợp với các hộ nghèo ở vùng nông thôn Bangladesh.
• Ở Thái Lan
Ngân hàng nông nghiệp và hợp tác xã Td (BAAC- Bank for Agriculture And
Agriculture Cooperatives) là NHTM quốc doanh, do chính phủ bổ nhiệm hội đồng

quản trị, Bộ trưởng bộ tài chính là chủ tịch
- 23 -
Về Vốn: Chính phủ cấp 100% vốn tự có, các NHTM khác phải dành 20% số
dư tiền gửi để cho vay nông nghiệp ( gửi vào BAAC hoặc cho vay khu vực nông
nghiệp). Vốn huy động của BAAC rất cao chiếm 90% tổng nguồn vốn. Ngoài ra
BAAC còn được hưởng các khoản vay ưu đãi đặt biệt do Chính phủ ký hiệp định
với nước ngoài , do các tổ chức ngân hàng, tài chính quốc tế như WB (World
bank), ADB (Asian Development Bank), OECF (ovesea Economic Corporation
Fund) cấp vốn lãi xuất thấp.
Trong tổng dư nợ của BAAC có 30% cho vay trung hạn và 70% cho vay
ngắn hạn, gồm 87% cho vay trực tiếp hộ nông dân và 13% cho vay qua nhóm hộ
nông dân và hợp tác xã.
Hoạt động tín dụng của BAAC gồm: hỗ trợ phát triển nông nghiệp, nông
thôn, thực hiện và kiểm soát TD thuộc nguồn vốn Chính phủ cấp cho nông
nghiệp, cho vay hoạt động sản xuất, tiêu thụ nông sản và các hoạt động liên quan
đến nông nghiệp.
• Ở Malaisia
Ngân hàng nông nghiệp Malaysia (BPM) là NHTM quốc doanh được Chính
phủ cấp vốn tự có 100% và cho vay ưu đãi để tạo nguồn vốn hoạt động. BPM là
công cụ của Nhà nước để góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội vùng
nông thôn trong quá trình sản xuất nông nghiệp.
Để khuyến khích và góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp, các
NHTM phải gửi 20,5% số dư tiền gửi và huy động tiết kiệm cho đầu tư nông
nghiệp của BPM vào NHTM Malaysia.
BPM được hưởng ưu tiên các khoảng ưu đãi đặc biệt do Chính phủ ký hiệp
định với nước ngoài, được hưởng thuế lợi tức.
BPM chú trọng cho vay trung hạn và dài hạn theo dự án và chương trình tín
dụng đặc biệt BPM cho vay trực tiếp hộ nông dân và qua hợp tác xã TD; cho vay
hộ nông dân nghèo không tính lãi.
- 24 -

 Một số nhận xét rút ra từ hoạt động tín dụng hộ sản xuất của các
nước trên:
Các nước này đều có hệ thống ngân hàng phục vụ cho nông nghiệp và điều
dành một khoảng vốn nhất định để trợ cấp và cho vay ưu đãi hộ nghèo ở vùng
nông thôn. Một ngân hàng được chỉ định để Ngân hàng này thành lập quỹ cho vay
hộ SXNN.
Quy chế cho vay nói chung có những điểm giống nhau :
+ Có tiêu chuẩn rõ ràng đối với đối tượng vay vốn
+ Không yêu cầu thế chấp tài sản, điều áp dụng cả hai hình thức cho vay trực
tiếp và gián tiếp (Qua hợp tác xã tín dụng). Thành lập các tổ, nhóm liên đới , liên
doanh chịu trách nhiệm , Ngân hàng cho vay nhóm trên cơ sở có thế chấp tài sản.
Về gửi tiền tiết kiệm của người vay: Trong khi BPM Malaysia không đặt ra
yêu cầu này thì Grameen Bank xem đây như là điều kiện bắt buộc để ngân hàng
xét cho vay.
Trên đây là một số kinh nghiệm cần thiết cho việc vận dụng vào thực tế hoạt
động tín dụng hộ nông dân ở Việt Nam
2.2.3 Sự ảnh hưởng của hội nhập kinh tế quốc tế đến hoạt động của các
NHTM ở Việt Nam
Hội nhập quốc tế là xu hướng tất yếu của nền kinh tế thế giới, là điều kiện
tiền đề cần thiết để phát triển kinh tế quốc gia đi vào quỹ đạo chung của thế giới
thông qua việc tạn dụng được dòng chảy vốn khổng lồ cùng với công nghệ tiên
tiến.
Cuối năm 2006, Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO). Ngân hàng là một trong những lĩnh vực đi đầu trong
cam kết mở cửa thị trường dịch vụ, bởi vậy NHTM cũng phải hoàn thiện các hình
thức để đáp ứng với thông lệ quốc tế. Hệ thống ngân hàng Việt Nam tham gia hội
nhập kinh tế trong bối cảnh trình độ phát triển kinh tế và công nghệ của nước ta
còn thấp. Vấn đề quan trọng đặt ra là phải chuẩn bị một lộ trình hội nhập hợp lý.
- 25 -

×