Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

THÀNH TỰU VĂN HÓA PHƯƠNG TÂY CỔ TRUNG ĐẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.21 KB, 22 trang )

BÀI THẢO LUẬN NHÓM 4
Đề tài:
NHỮNG THÀNH TỰU CỦA VĂN HÓA PHƯƠNG TÂY CỔ
TRUNG ĐẠI
VÀ ẢNH HƯỞNG ĐỐI VỚI NỀN VĂN HÓA THẾ GIỚI
I. Tổng quan về phương Tây cổ - trung đại.
1. Cơ sở hình thành nền văn minh phương Tây cổ đại
Thuật ngữ phương Tây đã xuất hiện từ sớm trong lịch sử. Vào thời cổ đại, khi
con người còn chưa tìm ra những lục địa mới người Hy Lạp đã gọi khu vực mặt
trời lặn so với họ là phương Tây, các vùng đất còn lại (Châu Á, châu Phi) gọi là
phương Đông. Sự phân loại này mang tính chất tương đối và chỉ là sự quy ước của
con người mà thôi. Văn minh phương Tây cổ đại ngày nay được hiểu chính là hai
nền văn minh lớn : Hi Lạp và La Mã cổ đại.
1.1 Hi Lạp.
*Điều kiện tự nhiên:
Hi Lạp cổ đại nằm ở phái Nam bán đảo Balkans, giống như cái đinh ba của thần
biển từ đất liền vươn ra địa Trung Hải. Thế kỉ IX TCN, người Hi Lạp gọi tên nước
mình là Hellad hay Ellad dựa theo tên tộc người của họ. Qua phiên âm từ Trung
Quốc, ta gọi là Hi Lạp.
Đất đai Hi Lạp cổ đại bao gồm Hi Lạp ngày nay, các đảo trong biển Aegean
tới phía Tây Tiểu Á, và phía Bắc của Bắc Hải, nhưng vùng quan trọng nhất là vùng
lục địa Hi Lạp ở phía Nam Balkans. Lục địa Hi Lạp gồm 3 phần: miền Bắc là vùng
đồng bằng rộng lớn và quan trọng nhất Hi Lạp; miền Trung ngăn cách với phía bắc
bởi đèo Thermopil hiểm trở, nơi đây có 2 đồng bằng lớn là Attique và Beotie trù
1
phú với thành thị Athens nổi tiếng; miền Nam là bán đảo Peloponesus như hình
bàn tay bốn ngón xòe ra Địa Trung Hải – đây là nơi xuất hiện nhà nước thành bang
đầu tiên của Hi Lạp – nhà nước Sparta.
Mặc dù có nhiều đồng bằng rộng lớn nhưng nhìn chung đất đai Hi Lạp không
phì nhiêu lắm, chủ yếu trồng nho, ô liu và phát triển các nghề thủ công, còn lương
thực chính là lúa mì phần lớn được nhập từ Ai Cập.


Địa hình Hi Lạp tương đối trở ngại về giao thông đường bộ nhưng có sự thuận
lợi tuyệt vời với con đường giao thông trên biển, bờ biển có nhiều cảng, vịnh,
thuận lợi cho tàu bè hoạt động. Từ đây, người Hi Lạp dễ dàng tới vùng Tiểu Á,
Bắc Hải để giao thương.
Nằm giữa vùng tiếp giáp giữa 3 châu, Hi Lạp sớm tiếp thu những thành tựu
của nền văn minh phương Đông cổ đại và tạo ra một nền văn minh Hi Lạp cổ đại
độc đáo và rực rỡ, với những thành tựu tuyệt vời đóng góp cho sự phát triển của
văn minh phương Tây nói riêng và văn minh nhân loại nói chung.
*Các thời kì phát triển:
Văn minh Crete – Mycenae (thiên niên kỉ III – thế kỉ XII TCN)
Thời kì Homer (thế kỉ XI – IX TCN)
Thời kì xã hội có giai cấp, nhà nước : các quốc gia thành bang Sparta và
Athens (thế kỉ VII – IV TCN)
Thời kì Macedonia và thời kì Hi Lạp hóa (337 – 30TCN)
1.2 La Mã
*Điều kiện tự nhiên:
Nơi phát sinh quốc gia La Mã cổ đại là bán đảo Ý – một dải đất dài và hẹp
như chiếc hia duỗi thẳng xuống Địa Trung Hải với diện tích lớn gấp 5 lần bán đảo
Hi Lạp. Phía Bắc có dãy núi Apels như một bức tường thành tự nhiên ngăn cách
bán đảo với lục địa châu Âu; ba phía Đông, Tây, Nam đều có biển bao bọc. Dãy
2
núi Apennines như một chiếc xương sống chạy dọc bán đảo từ Tây Bắc xuống
Đông Nam.
Khác với Hi Lạp, điều kiện tự nhiên của La Mã tương đối thuận lợi hơn. Nơi
đây có nhiều đồng bằng rộng lớn, màu mỡ và phì nhiêu: đồng bằng sông Pô (miền
Bắc), đồng bằng sông Tibrơ (miền Trung), các đồng bằng trên đảo Xixin. Ở miền
Nam còn có nhiều đồng cỏ rộng lớn thuận tiện cho việc phát triển nghề nông và
chăn nuôi gia súc. Ở phía Tây và Nam, bờ biển có nhiều cảng, tàu bè ra vào dễ
dàng, thuận lợi cho giao thông và buôn bán.
*Các thời kì phát triển:

Thời kì Vương chính (753 – 510 TCN)
Thời kì Cộng hòa (thế kỉ VI – I TCN)
Thời kì Đế chế (thế kỉ I – V)
 Tóm lại: Văn minh phương Tây cổ đại mà nền tảng là 2 nền văn minh của Hi
Lạp và La Mã đã hình thành và phát triển trên cơ sở điều kiện tự nhiên của những
cư dân gốc du mục. Khác với các quốc gia cổ đại phương Đông, nền văn minh chủ
yếu được hình thành trên những khu vực gần các con sông lớn, thuận lợi cho sự
phát triển nông nghiệp, văn minh phương Tây cổ đại hình thành và phát triển trên
những khu vực điều kiện tự nhiên tương đối khắc nghiệt và phức tạp hơn. Điều
kiện tự nhiên đó tuy khó khăn cho sự phát triển của nông nghiệp, nhưng bù lại nền
văn minh phương Tây có được sự trợ giúp tuyệt vời của biển đảo. Những con
đường giao thương trên biển, hải cảng, tàu bè… không chỉ tạo điều kiện phát triển
trong mối quốc gia mà còn thúc đẩy sự giao lưu, buôn bán giữa các nước, mang
những thành tựu văn hóa, văn minh phương Tây truyền bá khắp nơi trên thế giới.
Sự phát triển về kinh tế, đặc biệt là kinh tế thương nghiệp hàng hải đã tạo ra một
nền kinh tế giàu mạnh cho các quốc gia phương Tây cổ đại, đặc biệt là sự phát
triển cực thịnh của chế độ chiếm nô. Phương thức sản xuất chiếm nô thời bấy giờ
đạt đến mức hoàn chỉnh và cao nhất của nó trong xã hội phương Tây cổ đại. Chính
3
sự phát triển của chế độ chiếm nô đã tạo điều kiện cho sự sáng tạo ra những giá trị
vật chất và tinh thần của nền văn minh phương Tây. Sự giàu mạnh về kinh tế cùng
với những con đường giao thông trên biển là những nguyên nhân quan trọng đã
thúc đẩy quá trình bành trướng của các quốc gia được mệnh danh là đế quốc cổ
đại: Hi Lạp và La Mã.
Như vậy, điều kiện tự nhiên của Hi Lạp và La Mã không chỉ là nền tảng, cơ sở
tạo ra nền văn minh phương Tây cổ đại với nhiều thành tựu rực rỡ mà điều kiện tự
nhiên cũng là một yếu tố cực kỳ quan trọng đã mang nền văn minh phương Tây cổ
đại truyền bá khắp thế giới dù bằng nhiều con đường khác nhau: hòa bình hoặc
chiến tranh.
2. Phương Tây thời kì trung đại (Tây Âu)

2.1 Thời kì phong kiến Tây Âu
Vào thời kì cuối của đế quốc Rôma, chế độ chiếm hữu nô lệ bước vào giai
đoạn khủng hoảng trầm trọng, kinh tế suy sụp, nền văn hóa huy hoàng một thời
cũng dần lụi tàn. Bên cạnh đó, những cuộc viễn chinh của các tộc Giecmanh đã tàn
phá nặng nề những di sản của nền văn minh cổ đại.
Bước vào đầu thời kì trung đại, các quốc gia phong kiến dần hình thành, cùng
với nó là sự ra đời của các thành thị trung đại và nền kinh tế hàng hóa phong kiến.
Tuy nhiên, cũng chính thành thị và nền kinh tế hàng hóa đã ngầm phá hoại dần chế
độ phong kiến.
Một đặc điểm đáng lưu ý của thời kì này là đạo Kitô đã trở thành tôn giáo
phục vụ đắc lực cho cho chế độ phong kiến. Chính sự yếu kém của nền kinh tế và
suy tàn về văn hóa là nền tảng để truyền bá những học thuyết cuồng tín, ma quỷ…
được giáo sĩ, nhà thờ tận dụng triệt để để bảo vệ tối đa quyền lợi cho giai cấp thống
trị. Tòa thánh Rôma lúc này rất có thế lực về chính trị, cùng với giai cấp phong
kiến Tây Âu, trong gần 200 năm đã tiến hành 8 cuộc viễn chinh sang phương
Đông, được gọi là “Những cuộc viễn chinh của quân Thập tự”. Đây được xem như
4
một cuộc chiến tranh xâm lược và bành trướng cả về kinh tế lẫn văn hóa. Cuộc
viễn chinh để lại nhiều hệ quả tốt xấu khác nhau nhưng nhìn chung cũng đã mang
lại những hệ quả tích cực góp phần thúc đẩy kinh tế - văn hóa Tây Âu phát triển
một bước.
Tóm lại, giai đoạn phong kiến Tây Âu từ thế kỉ X – XIII, tuy bị giáo hội Thiên
chúa lũng đoạn về tư tưởng nhưng cũng về văn hóa cũng đã đạt được những thành
tựu nhất định. Đó là một trong những tiền đề quan trọng dẫn đến sự ra đời và phát
triển của văn hóa Phục hưng giai đoạn sau.
2.2 Thời kì văn hóa Phục hưng
Cuối thời trung đại, ở châu Âu xuất hiện một phong trào văn hóa mới, gọi là
phong trào văn hóa Phục hưng. Văn hóa Phục hưng không chỉ là một phong trào
phục hồi văn hóa Hy-La cổ đại một cách đơn thuần mà nó được nảy sinh và phát
triển dựa trên những điều kiện lịch sử mới.

Từ thế kỉ XIV – XVI, những mầm mống của chủ nghĩa tư bản đã bắt đầu xuất
hiện ở các quốc gia Tây Âu ngay trong lòng chế độ phong kiến. Đến thế kỉ XVI,
chủ nghĩa tư bản chính thức ra đời và phát triển ở châu Âu. Sự ra đời của nền sản
xuất tư bản chủ nghĩa đã mang đến cho xã hội loài người nói chung và châu Âu nói
riêng một sự tiến bộ vượt bậc cả về kinh tế lẫn xã hội, thể hiện rõ tính chất của một
chế độ ưu việt hơn chế độ phong kiến với nhiều tác động tích cực làm thay đổi xã
hội. Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế các nước, quan
hệ sản xuất tư bản xâm nhập và chi phối hầu hết các lĩnh vực kinh tế. Về xã hội,
cùng với nền sản xuất mới đã làm xuất hiện hai giai cấp mới đối lập nhau về quyền
lợi kinh tế, chính trị là giai cấp tư sản và vô sản. Trong buổi đầu hình thành, giai
cấp tư sản là giai cấp tiến bộ, đại diện cho một phương thức sản xuất mới, làm thúc
đẩy sự phát triển của xã hội. Trên lĩnh vực văn hóa – tư tưởng, sự ra đời của chủ
nghĩa tư bản và giai cấp tư sản đã tạo ra những biến động lớn. Cùng với sự xuất
hiện của giai cấp tư sản là sự ra đời của một trào lưu tư tưởng mới tiến bộ hơn, đối
5
lập với hệ tư tưởng phong kiến. Cuộc đấu tranh giữa tư sản và phong kiến trong
buổi đầu chính là cuộc đấu tranh hết sức gay gắt và quyết liệt trên lĩnh vực văn
hóa-tư tưởng, tạo ra một phong trào quyết liệt và mạnh mẽ là “Phong trào văn hóa
Phục hưng”. Thực chất đó là trận chiến đầu tiên của hai giai cấp đối lập nhau, một
là giai cấp phong kiến với hệ tư tưởng lạc hậu, lỗi thời với một nền kinh tế yếu
kém với một giai cấp mới đang lên là giai cấp tư sản với sự tiến bộ và ưu việt về
nhiều mặt.
Như vậy, châu Âu thời hậu kì trung đại đã có những biến đổi về mọi mặt. Từ
trong lòng xã hội phong kiến, nền sản xuất tư bản chủ nghĩa tư bản đã ra đời với
những tiến bộ vượt bậc đã thúc đẩy nền kinh tế các nước nhanh chóng phát triển.
Giai cấp tư sản với thế lực kinh tế ngày càng mạnh đang gặp phải những trở lực từ
phong kiến và giáo hội mang nặng tính chất bảo thủ và kiên cố. Chính vì vậy, châu
Âu từ thế kỉ XIV đến thế kỉ XVI sôi động và quyết liệt với cuộc đấu tranh toàn
diện của giai cấp tư sản chống lại chế độ phong kiến trên tất cả các lĩnh vực: kinh
tế, khoa học, văn hóa-nghệ thuật, tư tưởng và tôn giáo với những thành tựu rực rỡ.

Bên cạnh đó, giai đoạn nửa sau thế kỉ XV, người châu Âu đã tiến hành nhiều cuộc
thám hiểm vượt đại dương với mục đích tìm con đường biển sang phương Đông:
Cuộc thám hiểm tìm ra châu Mĩ (1492) của Christopho Columbo, cuộc thám hiểm
đi vòng quanh thế giới của Magienlăng (1519 – 1522)…cùng với những cuộc thám
hiểm là những phát kiến địa lý khai phá những vùng đất mới, mang một nền văn
hóa mới của châu Âu đến các quốc gia, dân tộc trên khắp thế giới.
Giai đoạn văn hóa Phục hưng chính là tiền đề trực tiếp cho văn minh châu Âu
thời kì cận-hiện đại.
II. Những thành tựu của văn hóa phương Tây cổ - trung đại và ảnh hưởng
của nó đối với nền văn hóa thế giới
1. Chữ viết
6
Những thành tựu huy hoàng của văn minh Hi Lạp đã trở thành mẫu mực và
đỉnh cao cuả nhiều thời đại. Đó là kết quả của một nền kinh tế phát triển cao, một
thể chế dân chủ không bị chi phối bởi tôn giáo và sự tiếp thu một cách tinh tế
những thành tựu của văn hóa phương Đông.
Chữ viết của Hi Lạp đã xuất hiện từ thời Crete – Mycenae. Vào những năm
cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, người ta đã tìm thấy hàng nghìn tấm đất sét được
khắc chữ cổ được xác định là của thời kì này.
Sau khi bị người Dorien thống trị, loại chữ trên đã bị mai một. Đến cuối thế kỉ
VII TCN, người Hi Lạp khôi phục lại chữ viết của mình trên cơ sở văn tự của
người Phoenicia. Đến năm 403 TCN, nhà nước Athens đã thống nhất quy định thể
thức viết từ trái sang phải và giảm từ 40 chữ cái xuống còn 27 chữ 9sau này rút lại
còn 24 chữ). Loại chữ này được sử dụng rộng rãi và được coi là thứ chữ đẹp nhất
thế giới bởi sự cân đối, hài hòa, thanh nhã và tiện dụng.
So với hệ thống chữ tượng hình của người phương Đông, hệ thống chữ cái Hi
Lạp đã đạt đến trình độ khái quát hóa rất cao. Với khoảng hơn 20 chữ cái người ta
có thể diễn đạt mọi ý tưởng trừu tượng nhất bằng cách ghép chữ dựa theo âm tiết.
Đây là một trong những cống hiến lớn lao của Hi Lạp vào kho tàng văn hóa chung
của nhân loại. Từ chữ cái Hy Lạp cổ sau này đã hình thành nên chữ cái Latinh và

chữ cái Cyrill (của các ngôn ngữ gốc Slav). Đó là các cơ sở chữ cái mà nhiều dân
tộc trên thế giới ngày nay đang sử dụng.
Tiếng Hy Lạp viết bằng bảng chữ cái Hy Lạp có từ thế kỷ thứ 8 trước Công
nguyên. Bảng chữ cái Hy Lạp bao gồm:
Chữ Hoa:
Α, Β, Γ, Δ, Ε, Ζ, Η, Θ, Ι, Κ, Λ, Μ, Ν, Ξ, Ο, Π, Ρ, Σ, Τ, Υ, Φ, Χ, Ψ, Ω.
Chữ Thường:
α, β, γ, δ, ε, ζ, η, θ, ι, κ, λ, μ, ν, ξ, ο, π, ρ, σ (ς), τ, υ, φ, χ, ψ, ω.
7
Tiếng Hy Lạp được dạy trong các trường và đại học ở nhiều nước từ thời Phục
hưng trở đi. Tiếng Hy Lạp hiện nay có khác nhiều so với tiếng Hy Lạp cổ đại
nhưng vẫn có thể nhận ra nhiều điểm giống nhau. Trên thế giới có khoảng 12
triệu người sử dụng tiếng Hy Lạp (ở Hy Lạp và những quốc gia có người Hy Lạp
sinh sống).
Ở La Mã, chữ viết của người Etrusque xuất hiện vào khoảng thế kỉ VIII – VII
TCN nhưng đến hiện giờ người ta vẫn chưa đọc được loại chữ này. Theo nhiều
nguồn tài liệu, người La Mã chính thức có chữ viết vào thế kỉ VI TCN có nguồn
gốc từ văn tự Hi Lạp. Trên cơ sở chữ viết Hy Lạp cổ, người La Mã đã bổ sung và
hoàn thiện, đặt ra một loại chữ riêng của mình mà ngày nay ta quen gọi là chữ
Latinh.
Với hệ thống chữ viết đơn giản và tiện lợi, tiếng Latinh đã ngày càng trở nên
phổ biến và được sử dụng rộng rãi ở các nước thuộc đế chế La Mã. Chữ Latinh
chính là nguồn gốc của nhiều ngôn ngữ châu Âu hiện đại (Ý, Tây Ban Nha, Bồ
Đào Nha, Pháp…Người La Mã còn để lại hệ thống chữ số mà ngày nay người ta
vẫn thường dùng và quen gọi là chữ số La Mã.
Có thể nói, từ bảng chữ cái Latinh, chúng ta có những ngôn ngữ mà ngày nay
được sử dụng làm ngôn ngữ chung cho cả thế giới, trên tất cả các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, văn hóa-xã hội, khoa học, nghệ thuật…mang mọi nền văn hóa của các
quốc gia dần xích lại gần nhau hơn.
2. Văn học

Văn học Hi Lạp gồm 3 bộ phận gắn bó chặt chẽ với nhau: thần thoại, thơ,
kịch. Theo tiếng Hi Lạp thần thoại có nghĩa là một tập hợp, tổng thể những câu
chuyện dân gian truyền miệng với những nội dung hoang đường, kì ảo gồm những
truyện về sự sáng tạo thế giới, các đấng thần linh, các anh hùng, dũng sĩ Hi Lạp
Điểm nổi bật trong thần thoại Hi Lạp chính là hình ảnh các vị thần. Hệ thống các vị
thần trong thần thoại Hi Lạp đa dạng và phong phú, được miêu tả rất gần với cuộc
8
sống đời thường của con người, khác với các vị thần của phương Đông. Sau này
người La Mã đã tiếp thu các vị thần của Hi Lạp và cải biên đi thành các vị thần của
mình:
- Thần Zeus – thần Jupiter: thần sấm sét tối cao trong 12 vị thần trên đỉnh
Olympus
- Nữ thần Aphrodite – nữ thần Venus: thần tình yêu và sắc đẹp
- Nữ thần Demeter – nữ thần Cerès: nữ thần nông nghiệp

Thần thoại Hi Lạp là những câu chuyện rất hấp dẫn về các vị thần và các anh
hùng với những tính cách, khát vọng, tình cảm gần gũi với con người. Đằng sau cái
vẻ cổ xưa thần thoại là những vấn đề nhân văn và nhân sinh rất con người được thể
hiện qua hình ảnh các vị thần. Không phải ngẫu nhiên mà cho đến nay vô số chủ đề
thơ kịch, tiểu thuyết của châu Âu lấy đề tài từ những vị thần của Hi Lạp. Những
giá trị nhân văn của văn học Phục hưng có thể được bắt nguồn từ đây.
Thần thoại Hi Lạp là nguồn cảm hứng cho nhiều lĩnh vực nghệ thuật khác của Hi
Lạp: thơ, kịch, kiến trúc, điêu khắc…
Về thơ ca, nổi bật lên là 2 bộ sử thi Iliade và Odixe của Homer, có giá trị cả về
lịch sử lẫn văn học, để lại cho thế giới nhiều điển tích VH cho đến ngày nay: gót
chân Asin, con ngựa thành Troy…Hai bộ sử thi này cũng được nhiều nhà văn, nhà
thơ La Mã lựa chọn đề tài để sáng tác.
Nghệ thuật kịch Hi Lạp ra đời và phát triển rực rỡ với nhiều nhà soạn kịch nổi
tiếng: Etsin, Sôpôclơ…Đây chính là nguồn gốc của kịch châu Âu đương đại. Sau
này chính Shakespear là người đã kế thừa truyền thống và tinh hoa của kịch Hi

Lạp, La Mã cổ đại đưa nghệ thuật kịch lên tuyệt đỉnh.
Nghệ thuật kịch Hi Lạp đã cho ra đời một công trình kiến trúc khá hiện đại và quy
mô: nhà hát Athens.
9
Văn học La Mã về sau chủ yếu tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn học Hi
Lạp. Hai tập sử thi nổi tiếng của Hi Lạp là Iliat va Ôđixe đã trở thành nguồn cảm
hứng cho các nhà thơ, nhà soạn kịch La Mã tiêu biểu như nhà thơ Vieecsgilut với
trường ca Eneit có chủ đề, kết cấu, tình tiết ngôn từ được phỏng theo sử thi Iliat và
Ôđixe. Hay các nhân vật trong Iliat và Ôđixe như tráng sĩ Agamemnong trở thành
nhân vật trong vở Orextex của Etsin.
Thời kì Phục hưng, trên cơ sở kế thừa những thành tựu của văn học Hi Lạp và
La Mã, văn học Tây Âu phát triển rực rỡ, để lại nhiều tác phẩm giá trị cho văn học
thế giới.
Về thơ ca, tiêu biểu là Đantê với “Thần khúc”, mở đầu cho thơ ca thời kì phục
hưng. Ngoài ra còn có Pêtêraca, Bôcaixô…đây đều là những tác giả say mê nghiên
cứu và chịu những ảnh hưởng nhất định từ nền văn học của Hi Lạp và La Mã. Về
tiểu thuyết, Rabơle được xem là học giả vĩ đại nhất của văn học Phục hưng Pháp
với tác phẩm “Cuộc đời đáng chán của người khổng lồ Gácgăngchuya và người
con Păngtagruyen”, trở thành cha đẻ của hai nhân vật khôi hài nhất trong lịch sử
văn chương. Đặc biệt trong nền văn học Phục hưng nổi lên một học giả lừng danh
là nhà văn Xecvantec với tác phẩm Đônkihôtê. Cuốn tiểu thuyết là một bắc tranh
chân thực, rõ ràng về xã hội Tây Ban Nha thế kỉ XVI, đồng thời cũng là tác phẩm
châm biếm toàn bộ xã hội phong kiến. Giá trị và ảnh hưởng của tác phẩm không
cần phải nói gì nhiều, chỉ nghe đến tên thì rất nhiều người biết rất rõ về tác giả và
tác phẩm, đủ cho thấy tầm ảnh hưởng của nó rộng rãi như thế nào.
Về kịch, đại văn hào William Shakespears đã trở thành nhà soạn kịch vĩ đại của
không chỉ của nước Anh mà của cả thế giới với các tác phẩm: Romeo và Juliet,
Hămlet, Macbeth, vua Lear…Những tác phẩm của ông vừa mang tính chất bi kịch
vừa mang tính chất hài kịch nhưng tràn đầy một sức sống huy hoàng, mạnh mẽ.
Tài năng và tầm ảnh hưởng của ảnh hưởng của ông đã được cả thế giới công nhận

“Shakespear không chỉ thuộc về nước Anh mà ông thuộc về mọi thời đại”, các tác
10
phẩm của ông cho đến ngày nay vẫn đang được biểu diễn trên khắp các sân khấu
kịch châu Âu và thế giới. Tài năng của Shakespears được K. Marx và F. Engels
nhắc nhiều trong các tác phẩm của mình.
Tại Việt Nam, sau 1975 ở trường phổ thông và đại học đã bắt đầu giảng dạy
một số tác phẩm của Shakespear
*Vài nét về Shakespears: ông sinh ra và lớn lên ở Staford, trong một gia đình khá
giả, ông được học hành tử tế cho đến năm 18 tuổi phải thôi học vì hoàn cảnh gia
đình và lấy vợ. Cuộc đời Shakespear trải qua nhiều thăng trầm, để có thể viết kịch
và làm trong nhà hát ông đã phải làm rất nhiều nghề: nhắc tuồng, giữ chân ngựa,
sửa bản in…nhưng cuối cùng đã trở thành một nhà viết kịch thiên tài của thế giới.
Nhìn chung, văn học thời kì Phục hưng mang tính nhân văn sâu sắc, một mặt
văn học đóng vai trò phê phán lên án giáo hội và phong kiến, mặt khác nó lại đề
cao những giá trị con người, tính lạc quan, lòng yêu tự do, công bằng, danh dự…
Tuy nhiên nền văn học Phục hưng cũng là một trong những cơ sở cho sự ra đời của
chủ nghĩa cá nhân sau này.
Tóm lại, trải qua một thời dài từ cổ đại đến trung đại, nền văn học phương Tây
đã để lại cho thế giới một kho tàng văn học đồ sộ với một hệ thống các tác phẩm
có giá trị về nhiều mặt, nhiều tác phẩm được xem là khuôn mẫu, chuẩn mực cho
văn học và nghệ thuật của châu Âu và thế giới. Sự đóng góp và ảnh hưởng của
những thành tựu văn học phương Tây cổ trung đại đối với châu Âu và thế giới
không chỉ trong giai đoạn cổ trung đại mà cho đến tận ngày nay, nhiều tác phẩm
vẫn còn nguyên giá trị và không ngừng được khai thác, nghiên cứu, phát triển
nhiều mặt.
3. Nghệ thuật
Trong số những thành tựu rực rỡ của nền văn minh Hi Lạp và La Mã thời kì
cổ trung đại đối với thế giới, người ta đặc biệt ghi nhận sự đóng góp của những
thành tựu về nghệ thuật, bao gồm 3 lĩnh vực: kiến trúc, điêu khắc, hội họa. Văn
11

minh Hi-La được xem là nền tảng, là cơ sở của văn minh Tây Âu – châu Âu cận
hiện đại, có thể nói nếu không có những thành tựu của văn minh Hi-La thì không
thể có văn minh Tây Âu trung đại và châu Âu ngày nay. Trên nền tảng của nghệ
thuật Hi-La, nghệ thuật Phục hưng đã kế thừa và phát triển một cách rực rỡ, để lại
những giá trị và thành tựu đặc sắc, đưa nghệ thuật Tây Âu mang tầm giá trị thời
đại.
3.1 Kiến trúc
Mặc dù kế thừa những thành tựu nghệ thuật của Ai Cập và Lưỡng Hà nhưng
ngwời Hi Lạp đã sáng tạo và phát triển một cách mạnh mẽ phong cách nghệ thuật
riêng biệt của mình, tạo ra những giá trị nghệ thuật đạt mức điêu luyện. Trong lĩnh
vực kiến trúc, người Hi Lạp đã tạo ra những công trình kiến trúc bất hủ với thời
gian.
Công trình kiến trúc đẹp nhất của Hi Lạp là đền Parthenon. Đây được xem là
kiệt tác về kiến trúc và là biểu tượng của kiến trúc Hi Lạp cổ. Người xây dựng nên
công trình này là là kiến trúc sư Ictinus dưới sự hướng dẫn của nhà điêu khắc thiên
tài Phidias.
Tọa lạc trên đỉnh đồi Acropolis, từ đây người ta có thể quan sát toàn bộ khu vực
Athens. Đền Parthernon dài 70 m, rộng 314 m, cao 14 m được xây dựng để thờ nữ
thần Athena, vị thần bảo hộ của Athens. Toàn bộ đền được xây bằng đá trắng, xung
quanh là dãy cột đã cẩm thạch hình tròn được chạm khắc tinh vi. Công trình thể
hiện tài năng của một bậc thầy xuất chúng về kiến trúc và điêu khắc. Kiệt tác này
được giữ nguyên vẹn suốt 2000 năm, đến 1697 mới bị chiến tranh tàn phá.
Trong nghệ thuật kiến trúc của Hi Lạp, người ta dễ dàng nhận thấy nổi bật lên
lối kiến trúc cột. Kiến trúc cột là cách người Hi Lạp tìm kiếm vẻ đẹp lý tưởng
trong nghệ thuật kiến trúc. Những thức cột Hy Lạp đã mang đến cho kiến trúc một
hình thức, một sức sống, chịu đựng được thử thách của thời gian, biểu trưng cho vẻ
đẹp trong sáng, khỏe mạnh và tinh tế của kiến trúc cổ điển. Có 3 loại thức cột cơ
12
bản trong kiến trúc Hy Lạp: cột Doric, cột Ionic và cột Corinth. Thức cột Hy
Lạp được xem như biểu tượng của kiến trúc cổ điển.

Công trình tiêu biểu: quần thể Aropolis ở Athens, trong đó có đền Pathernon.
*Ngôi đền Delphi, sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc Hi Lạp và vùng tiểu Á được
xây dựng vào thế kỉ V TCN để thờ thần Apolo – thần mặt trời (nay thuộc thành
phố Ephesus – Thổ Nhĩ Kì).
Mãi đến thời đế chế, nghệ thuật La Mã mới có điều kiện phát triển mang tính
chất riêng biệt và phản ánh đúng bản sắc nghệ thuật dân tộc. Mặc dù chịu ảnh
hưởng nhất định của nghệ thuật Hi Lạp nhưng người La Mã cũng đã tạo ra những
công trình mang đậm bản sắc riêng của mình với số lượng và quy mô vượt trội.
Kiến trúc La Mã mang tính chất thực dụng, bề thế và đồ sộ. Khi thiết kế những
công trình kiến trúc, người La Mã chú ý đến tính năng sử dụng của nó hơn là sự
hài hòa, cân đối giữa công trình với môi trường xung quanh. Những đường nét uốn
lượn thay bằng những nét sổ thẳng hình học, vóc dáng các công trình đơn điệu,
nặng nề nhưng vững chắc.
Ba công trình tiêu biểu cho nghệ thuật và nếp sống của người La Mã là đấu
trường Colosseum, nhà tắm Caracalla và đền thờ Pantheon.
Kiến trúc của đấu trường Colosseum biểu hiện cho sự hùng cường và vĩ đại của
đế chế La Mã triều đại Flavius. Công trình được xây dựng trong suốt 8 năm, chu vi
524m, bao gồm nhiều tầng với vật liệu chủ yếu là đá cẩm thạch. Theo tính toán
hiện nay, đấu trường chứa được khoảng 45.000 đến 50.000 người. do sự hủy hoại
cuả thiên nhiên và con người, công trình hiện nay chỉ còn khoảng một phần ba.
Caracalla là một công trình nhà tắm công cộng được hoàn thành dưới thời hoàng
đế Alexander năm 235 với tổng diện tích lên đến 14.000 hecta. Đây không chỉ đơn
thuần là nơi giải trí mà còn là một công trình văn hóa với các thư viện và phòng
đọc sách, được trang bị các khu thi đấu thể thao, nghỉ dưỡng, nhà hàng ăn, phòng
13
trưng bày nghệ thuật…Đây là một sự tiến bộ không chỉ về nghệ thuật mà còn là sự
văn minh trong đời sống văn hóa của người La Mã.
Đền Pantheon được xây dựng dưới thời hoàng đế Agustus. Công trình bị hủy hoại
sau hai trận hỏa hoạn và được xây dựng lại vào thời hoàng đế Hadrian (117-138)
sau đó được chuyển thành nhà thờ Công giáo.

Đặc điểm nổi bật của kiến trúc La Mã chính là kĩ thuật vòm cuốn, có thể thấy
được qua những công trình kiến trúc tiêu biểu.
Đấu trường Colosseum của La Mã và đền Parthenon của Hi Lạp là 2 trong số 7 kì
quan của thế giới cổ đại.
Những thành tựu của kiến trúc Hi-La cổ đại đã được thế giới thừa nhận và ứng
dụng cho những công trình kiến trúc hiện đại.
Kiến trúc thời Phục hưng mang đậm nét tôn giáo, đặc biệt là đạo Thiên chúa, nổi
bật lên với 2 phong cách kiến trúc tiêu biểu là kiến trúc Gôtich và Roman. Cả hai
phong cách kiến trúc này đều là sự kế thừa và phát triển từ nghệ thuật kiến trúc của
Hi Lạp và La Mã cổ đại. Nghệ thuật kiến trúc thời Phục hưng thể hiện sự giàu có,
lộng lẫy cao sang quý phái.
Những thánh đường Kitô giáo có kiến trúc chủ yếu mang phong cách Roman, Gô
tích và Cổ điển Hy Lạp-La Mã. Khi đạo Kitô phát triển mạnh mẽ, những phong
cách kiến trúc này đã được mang đến khắp nơi trên thế giới.
 Tóm lại, kiến trúc châu Âu ngày nay được phát triển trên nền tảng của kiến trúc
thời cổ trung đại của Hi-La và Tây Âu. Mức độ ảnh hưởng và phát triển không chỉ
ở trong phạm vi châu Âu mà đã lan rộng toàn thế giới. Chúng ta có thể dễ dàng
nhận ra phong cách kiến trúc châu Âu ở rất nhiều công trình kiến trúc lớn, nhỏ ở
rất hầu hết quốc gia trên thế giới hiện nay.
3.2 Hội họa và điêu khắc
Cùng với nghệ thuật kiến trúc với những công trình đã trở thành kiệt tác của
nhân loại, nghệ thuật điêu khắc Hi Lạp cũng được xem là những giá trị có một
14
không hai trong nền nghệ thuật thế giới. Hai nhà điêu khắc vĩ đại nhất của Hi Lạp
là Praxitele và Scopas ở thế kỉ IV TCN. Tượng thần Hermes và thần Aphrodite
(thần vệ nữ - Venus), được xem là những mẫu mực của nghệ thuật điêu khắc cổ
đại, thể hiện vẻ đẹp hoàn hảo của nam và nữ. Cho đến ngày nay, với một nền nghệ
thuật hiện đại, chưa có nơi nào mà nghệ thuật điêu khắc vượt qua trình độ nghệ
thuật của người Hi Lạp cổ đại. Bức tượng thần Zeus ở Olympia, một trong 7 kì
quan của thế giới cổ đại cũng được tạo ra bởi nhà điêu khắc của Hi Lạp là Phidias.

Ngoài ra, tượng nữ thần Athena và tác phẩm lực sĩ ném đĩa cũng được xem là
những tác phẩm tuyệt vời thể hiện trình độ bậc thầy của nghệ thuật điêu khắc Hi
Lạp cổ đại.
Về hội họa người Hi Lạp cũng có nhiều thành tựu rỡ nhưng rất tiếc các phẩm
hiện nay không còn được lưu giữ. Theo nghiên cứu, những họa sĩ Hi Lạp là người
đã phát minh ra phép phối cảnh theo tỉ lệ xa gần của các nhân vật trong tranh.
Ngày nay người ta chỉ còn lưu giữ một số tác phẩm do người La Mã phỏng theo
họa mà ra.
Đỉnh cao của hội họa phương Tây chính là hội họa thời Phục hưng. Bước sang
thế kỉ XVI, nghệ thuật Phục hưng phát triển đến đỉnh cao với các tên tuổi của
Leonardo da Vinci, Michelangelo, Raphael…Đặc điểm nổi bật của hội họa thời
Phục hưng chính là sự biểu hiện tinh tế đời sống nội tâm, chiều sâu cá tính của
nhân vật. Điều này được thể hiện rất rõ qua nhiều tác phẩm nổi tiếng của các họa sĩ
thời kì này.
Leonardo da Vinci (1452-1519) là một thiên tài của nước Ý trên lĩnh vực nghệ
thuật. Ông không những là một hoạ sĩ thiên tài mà còn là một con người thông thái
trên nhiều lĩnh vực. Ông đã để lại những bức hoạ nổi tiếng như Bữa tiệc cuối cùng,
Nàng La Joconde , Đức mẹ đồng trinh trong hang đá… Ông nghiên cứu rất kĩ và
sâu sắc về tâm lý, giải phẩu; xác định cá quy luật phối cảnh, ánh sáng… Từ thế kỉ
XV, ông đã đưa ra ý tưởng sử dụng cánh quạt đẩy nước cho thuyền thay mái chèo;
15
vẽ ra nguyên tắc hoạt động của máy bay trực thăng, dù thoát hiểm nhưng những
kĩ thuật hồi đó không cho phép ông thực hiện những ý tưởng của mình.
Michelangelo (1475-1564) cũng là một người Ý, sống cùng thời với Leonardo
da Vinci. Ông là một danh hoạ, một nhà điêu khắc nổi tiếng, đồng thời còn là một
kiến trúc sư, một thi sĩ. Ông là người đã đưa điêu khắc Phục hưng đến tuyệt đỉnh.
Tác phẩm điêu khắc nổi tiếng nhất của ông là bức tượng David. Tượng được tạc
trên đá cẩm thạch cao 5.3m, thể hiện một chàng thanh niên đang độ đôi mươi với
cơ bắp khoẻ mạnh, vầng trán thông minh, ánh mắt tự tin, sẵn sàng đương đầu với
mọi khó khăn thử thách. Mượn hình tượng David, Michelangelo thể hiện sức sống

đang lên của một lớp người đại diện cho một thời đại mới, thời đại cần những con
người khổng lồ và đã sản sinh ra những con người khổng lồ. Ông là kiến trúc sư
đầu tiên thiết kế thánh đường Xanh Pie (nhà thờ thánh Peter ở La Mã), sau khi ông
mất nhiều chi tiết đã bị thay đổi nhưng nguyên mẫu vẫn là thiết kế của ông.
Về hội họa ông cũng đã để lại nhiều tác phẩm tiêu biểu: Sáng tạo thế giới,
Cuộc phán xét cuối cùng…Trong đó tác phẩm lớn nhất là bức họa Sáng tạo thế
giới với 343 nhân vật được ông vẽ trong 4 suốt 4 năm. Tác phẩm này được trang trí
trên trần nhà thờ Sistine ở Vatican.
Raphael Sanzio (1483-1520) cũng là một họa sĩ thiên tài người Ý. Tác phẩm
của ông thường thể hiện quang cảnh vui tươi, êm dịu, cuộc sống sung túc; hình ảnh
những người phụ nữ đẹp, hiền hậu; trẻ em ngây thơ… Tác phẩm nổi tiếng nhất của
ông là Người làm vườn xinh đẹp; ngoài ra còn có các bức tranh về Thánh mẫu…
Tóm lại, nghệ thuật Phục hưng chính là sự hồi sinh hay sự khôi phục lại những
giá trị của nghệ thuật Hi-La cổ đại. Phong trào văn hóa Phục hưng là một bước tiến
vĩ đại trong lịch sử văn minh Tây Âu. Phong trào đã cống hiến cho nền văn minh
nhân loại “những con người khổng lồ” với những tác phẩm bất hủ tồn tại cùng thời
gian, góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn hóa thế giới.
4. Giáo dục
16
Tại Hi Lạp, trong giai đoạn phát triển rực rỡ của nhà nước Athens và Spart,
giáo dục đã được chú trọng. Trong khi thành bang Spart chủ yếu chú trọng đến
giáo dục quân sự thì Athens xây dựng một nền giáo dục theo hướng tự do dân chủ.
Tại La Mã, dưới thời kì đế chế, giáo dục phát triển với những nội dung, đề tài
giáo dục liên quan nhiều đến chính trị, chiến tranh, chủ yếu để đào tạo những ra
những thủ lĩnh quân sự, những nhà lãnh đạo, quản lý chính quyền.
Trong thời kì cổ đại, giáo dục Hi Lạp và La Mã tuy còn sơ khai nhưng được
xem là cực kì tiến bộ. Họ đào tạo ra những con người họ cần cho đất nước theo
những phương pháp chủ động, tích cực. Những môn học được giảng dạy ở thời kì
này bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau: chính trị, quân sự, văn hóa, lịch sử, xã hội,
ngữ pháp, hùng biện, logic…với phương pháp học đòi hỏi sự tư duy và lý luận sâu

sắc. Đây là nền tảng quan trọng cho một nền giáo dục Tây Âu đương đại.
Đến trước thế kỉ X, giáo dục Tây Âu chịu ảnh hưởng nặng nề của giáo hội và
kinh thánh. Đầu thế kỉ XI, cùng với sự phát triển về kinh tế, xã hội, sự đòi hỏi của
con người về tri thức ngày càng cao nhiều trường đại học đã ra đời ở nhiều nước
khi giáo dục giáo hội không còn đủ điều kiện để đáp ứng. Trường đại học ra đời
sớm nhất là Đại học Bôlôna ở Italia. Sang thế kỉ XII, XIII, rất nhiều trường đại học
khác đã lần lượt xuất hiện: Đại học Pari, đại học Oóclêăng (Pháp); đại học Oxford,
đại học Cambridge (Anh); đại học Xalamanca ở Tây Ban Nha…Đến cuối thế kỉ
XIV ở châu Âu đã có tất cả hơn 40 trường đại học.
Ngôn ngữ được giảng dạy ở các trường đại học là tiếng Latinh. Phương pháp học
tập là nghe giảng, ghi chép và thảo luận, trong đó thảo luận giữ vai trò rất quan
trọng. Khi tốt nghiệp sinh viên phải làm và bảo vệ luận văn.
Như vậy, ngay từ thời cổ đại, những con người năng động, tích cực của phương
Tây đã tạo ra một nền giáo dục hết sức tiến bộ cả về phương pháp lẫn nội dung
giảng dạy. Sự vượt trội về tư duy và phương pháp giáo dục ngay buổi đầu đã tạo
một nền tảng khá vững chắc cho sự phát triển của giáo dục Tây Âu sau này. Những
17
nội dung và phương pháp giáo dục thời cổ đại hầu như được tiếp nhận và áp dụng
trong các thời kì sau. Điều này rất dễ lý giải cho sự tiến bộ vượt bậc và hiệu của
nền giáo dục phương Tây hiện nay. Hầu hết những trường đại học thời trung đại
hiện nay đều trở thành những trường đại học danh tiếng của thế giới, nơi đào tạo
những con người với bộ óc tuyệt vời cho mọi quốc gia. Mọi quốc gia có nền giáo
dục tiên tiến hiện nay đều tiếp nhận nền giáo dục tiên tiến của phương Tây.
5. Tổ chức nhà nước và luật pháp
Khi nói đến văn minh phương Đông người ta nhắc nhiều đến những thành tựu
văn hóa thiên về lĩnh vực tinh thần còn khi nói đến văn minh phương Tây người ta
hay nói đến những thành tựu văn minh thiên về giá trị vật chất cho nhân loại. Một
trong số những thành tựu đó là tổ chức nhà nước và luật pháp.
Trong hàng chục quốc gia thành thị của Hi Lạp thì Athens có hình thức nhà
nước dân chủ điển hình nhất và giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của Hi

Lạp cổ đại. Ra đời trên cơ sở tan rã của xã hội thị tộc, nhà nước dân chủ chủ nô
Athens dân chủ hóa và hoàn thiện qua những cải cách: cải cách Solon, cải cách
Cleisthenes. Tổ chức bộ máy nhà nước gồm các cơ quan như: Đại hội nhân dân,
Hội đồng nhân dân (hội đồng 500), Tòa án nhân dân, Hội đồng cấp chính (hội
đồng trưởng lão )…được sửa đổi và bổ sung qua từng thời kì khác nhau nhằm tăng
cường và hoàn thiện thể chế dân chủ. Đỉnh cao của thể chế nhà nước Athens là
dưới thời Pericles.
Nếu như trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật người La Mã được xem như
một học trò của người Hi Lạp thì về mặt luật pháp, người La Mã được xem là bậc
thầy. Cùng với những thành tựu khác, luật pháp của người La Mã cũng đã có
những đóng góp nhất định vào nền văn minh chung của nhân loại.
Khi nhà nước La Mã thành lập đã cho ban hành bộ luật thành văn đầu tiên Luật 12
bảng trên cơ sở kế thừa và tham khảo luật Solon của người Hi Lạp. Nội dung bộ
luật khá rộng rãi và tiến bộ, nó chống lại sự xét xử độc đoán của quý tộc, bảo vệ
18
quyền lợi và danh dự cho mọi công dân, đề ra những nguyên tắc về tố tụng, vấn đề
thừa kế tài sản… Mặc dù còn nhiều hạn chế khi xét về bản chất vẫn là bảo hệ
quyền lợi cho giai cấp quý tộc, tuy nhiên tại thời điểm đó, bộ luật là một sự tiến bộ
đối với xã hội đương thời.
Tóm lại, những hạn chế về thời đại là không tránh khỏi nhưng thiết chế nhà
nước dân chủ và những bộ luật được ban hành của Hi Lạp và La Mã là biểu hiện
của sự văn minh về mặt chính trị và xã hội. Sau này, trong thời kì trung đại, để
chống lại phong kiến, giai cấp tư sản không chỉ khôi phục lại những của nền văn
hóa Hi-La mà còn dựa trên những thành tựu về nhà nước và luật pháp của Hi-La cổ
đại để thiết lập nên thể chế chính trị và nền dân chủ của giai cấp tư sản. Các hình
thức nhà nước quân chủ và chế độ cộng hòa qua các giai đoạn lịch sử sau này
chính là sự kế thừa và phát triển từ thể chế chính trị của Hi Lạp và La Mã. Những
thuật ngữ chính trị quen dùng ngày nay như: chính trị, dân chủ, quân chủ, cộng
hòa…đều có nguồn gốc từ tiếng Hi Lạp.
6. Thể thao

Thể thao Olympia của Hy Lạp cổ đại thể hiện tinh thần thượng võ và tín
ngưỡng của các thành phố Hy Lạp. Hình thức thể thao này được ra đời từ năm 776
TCN và kéo dài tới năm 393. Được tổ chức mỗi 4 năm tại Olympia, Hy Lạp, số
môn tham gia thi đấu chính thức có lúc lên đến 292 bộ môn khác nhau.
Lịch sử xa xưa về các cuộc thi đấu Olympia của người Hy Lạp cổ đại bị phai mờ
theo thời gian, tuy vậy nó vẫn sống lâu dài trong các câu chuyện truyền thuyết và
thần thoại Hy Lạp.
Thế vận hội Olympic ngày nay chính là sự bắt nguồn từ thể thao của Hi Lạp.
Cũng 4 năm tổ chức một lần tại các thành phố lớn, thế vận hội Olympic đã trở
thành thành sân chơi thể thao của cả thế giới với nhiều nội dung thi đấu phong phú
và đa dạng. Olympic hiện nay là đỉnh cao của thể thao nhân loại. Năm 2004
19
Olympic được tổ chức tại Athens – Hi Lạp, lần đầu tiên được trở về với nơi mà
hoạt động thể thao này đã ra đời từ thời cổ đại.
6. Tôn giáo
Thời cổ đại, người Hy Lạp theo đa thần giáo. Về sau khi tiếp xúc với nền văn
hóa Hy Lạp, người La Mã đã tiếp thu toàn bộ hệ thống thần thoại Hy Lạp và đổi
tên gọi các vị thần Hy Lạp theo kiểu La Mã.
Đến cuối thế kỉ thứ II - đầu thế kỉ thứ I – TCN, đạo Kitô ra đời ở La Mã. Trong
buổi đầu, đạo Kitô là tôn giáo của những người nghèo khổ, của những người chịu
nhiều áp bức trong xã hội. đạo tuyên truyền những tư tưởng bình đẳng, bác ái của
con người trước Chúa, lòng tin nơi thiên đàng và lên án chế độ thống trị hà khắc
của chính quyền lúc bấy giờ. Đạo có nhiều ảnh hưởng đến các tầng lớp trong xã
hội và vượt ra khỏi phạm vi La Mã.
Hiện nay, đạo Kitô là một trong những tôn giáo lớn của thế giới, tầm ảnh hưởng
lan rộng hầu khắp các quốc gia.
Thời kì trung đại, cùng với những cuộc cải cách tôn giáo đã cho ra đời tôn
giáo mới trên cơ sở sự điều chỉnh và tách ra từ giáo hội Kitô: đạo Tin lành, Công
giáo, Thiên chúa giáo Đây đều là những tôn giáo lớn và có tầm ảnh hưởng đến thế
giới.

Tôn giáo phương Tây thời kì cổ trung đại qua các thời kì phát triển đã tác động
nhiều mặt đến nền văn hóa-nghệ thuật thế giới: kiến trúc, hội họa, đieu khắc… và
đời sống của con người. Hiện nay mức độ ảnh hưởng của các tôn giáo đã mang tầm
thế giới. Sự ảnh hưởng của các tôn giáo hiện nay đối với thế giới là sự tác động đa
chiều, nhiều mặt và phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau.
III. Kết luận
Những thành tựu rực rỡ của văn minh Hi-La cổ đại được ghi vào lịch sử nhân
loại như những ánh hào quang rực rỡ nhất. Cùng với những giá trị của văn minh
20
thời kì trung đại mà điển hình là phong trào văn hóa Phục hưng, văn minh phương
Tây thời kì cổ trung đại đã đặt một nền tảng khá vững chắc cho văn minh châu Âu
nói riêng và mang đến cho nền văn hóa thế giới nói chung những thành tựu bất hủ
mọi thời đại. Giá trị và tầm ảnh hưởng của văn minh phương Tây cổ trung đại
được khẳng định và thừa nhận xét cho cùng chính là những giá trị có tầm ảnh
hưởng đến thời đại ngày nay.
Khẳng định những giá trị và đóng góp của văn minh Hi-La cổ đại, Engels viết:
“Dại dột là những ai không thấy hết giá trị của thời cổ đại Hi Lạp đối với chủ
nghĩa xã hội vừa chiến thắng trong sự nghiệp xây dựng lại đời sống nhân loại” và
“Không có chế độ nô lệ thì không có quốc gia Hi Lạp, không có nghệ thuật và
khoa học Hi Lạp; không có chế độ nô lệ thì không có quốc gia La Mã. Mà không
có cơ sở của văn minh Hy Lạp và Đế quốc La Mã thì cũng không có châu Âu hiện
đại”. Nói như vậy để thấy được giá trị và tầm ảnh hưởng của văn minh phương
Tây thời kì cổ trung đại đối với nền văn hóa thế giới lớn như thế nào.
21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Đức An (chủ biên) (2001), Lịch sử thế giới cổ đại, NXB Giáo Dục.
2. Đặng Đức An (chủ biên) (2002), Những mẫu chuyện lịch sử thế giới, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
3. Mortime Chambers (2004), Lịch sử văn minh phương Tây, NXB Văn hóa –
Thông tin, Hà Nội.

4. Chu Hữu Chí (chủ biên) (2004) Almahach 5000 năm nền văn minh thế giới,
NXB Văn hóa –Thông tin, Hà Nội.
5. Ngô Vinh Chính (1994), Đại cương lịch sử văn hóa thế giới, , NXB Văn hóa –
Thông tin, Hà Nội.
6. Will Durant (2006), Nguồn gốc văn minh, NXB Văn hóa - Thông tin, HN
7. Lê Phụng Hoàng (chủ biên) (2003), Lịch sử văn minh thế giới, NXB Giáo Dục.
8. Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Kim Lai (2007), Văn hóa học, NXB Giáo Dục.
9. Lương Ninh (1976), Lịch sử thế giới trung đại, NXB Giáo dục, Hà Nội.
10.Lương Ninh (1998), Lịch sử văn hóa thế giới cổ đại, NXB Giáo dục, HN.
11.Lương Ninh (2002), Lịch sử thế giới cổ đại, NXB Giáo dục, Hà Nội.
12.Lương Ninh (chủ biên) (1997), Lịch sử văn minh nhân loại, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
13.Vũ Dương Ninh ( chủ biên, 2002), Lịch sử văn minh thế giới, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
14.Hồ Sĩ Quý (1999), Tìm về văn hóa văn minh, NXB Chính trị quốc gia.
15.Chiêm Tế (1971), Lịch sử thế giới cổ đại, tập 1-2, NXB Giáo Dục, HN.
22

×