MỤC LỤC
Trang phụ bìa: i
Lời cam đoan ii
Lời cảm ơn iii
MỤC LỤC 1
PHẦN MỞ ĐẦU 3
1. Mục đích, ý nghĩa của đề tài 3
2. Lịch sử vấn đề 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 8
4. Phương pháp nghiên cứu 8
5. Đóng góp của luận văn 9
6. Cấu trúc của luận văn 9
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư trong hành trình truyện ngắn đương đại
1. Khái lược truyện ngắn sau 1975 10
1.1. Đặc điểm truyện ngắn 10
1.2. Quan niệm về con người đa chiều 12
2. Diện mạo truyện ngắn Nam bộ 17
2.1. Truyện ngắn Nam bộ - một dòng chảy trầm lặng 17
2.2. Thành tựu của truyện ngắn Nam bộ 19
3. Nguyễn Ngọc Tư - luồng gió mới của truyện ngắn Nam bộ 22
3.1. Sự khẳng định phong cách 22
3.2. Sự thể hiện QNNT về con người 26
Chương 2. Các kiểu con người trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
1. Giới thuyết khái niệm QNNT về con người 33
2. Các kiểu con người 35
2.1. Con người nghệ sĩ bế tắc, tuyệt vọng 35
2.2. Con người cô đơn - lạc lõng 37
2.3. Con người nữ bị cám dỗ 45
2.4. Con người với tình yêu và thù hận, tội ác, trừng phạt 49
1
3. Thông điệp từ truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư 53
Chương 3. Những thủ pháp thể hiện quan niệm nghệ thuật về con người
trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư
1. Thủ pháp xây dựng nhân vật 56
1.1. Mờ hóa và tẩy trắng tên nhân vật 56
1.2. Dòng ý thức nhân vật 58
1.3. Nhân vật gắn bó với ngôn ngữ, không gian và văn hóa đặc trưng
Nam bộ 59
2. Nghệ thuật trần thuật, điểm nhìn trần thuật, giọng điệu trần thuật 65
2.1.Nghệ thuật trần thuật 65
2.2. Điểm nhìn trần thuật 69
2.3. Giọng điệu trần thuật 71
3. Kết cấu truyện 75
PHẦN KẾT LUẬN 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO 82
2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư “đặc sản” Nam bộ
Hiện nay trên văn đàn Việt Nam, trong số những gương mặt tiêu biểu
của truyện ngắn đương đại, Nguyễn Ngọc Tư giữ một vai trò đặc biệt quan
trọng. Tiếng tăm của chị vang xa trên văn đàn Việt Nam và xuyên qua một số
nước ngoài. Người ta xem Ngọc Tư là một hiện tượng lớn của văn học nước
nhà năm 2005 - 2006. GS. TS Trần Hữu Dũng (việt kiều Mỹ) gọi Ngọc Tư là
“đặc sản” vì chị đã tạo ra điểm riêng ấn tượng nhất mà dẫu cuộc thi có cắt
phách họ vẫn nhận ra.
Lâu nay, có nhiều người cho rằng; văn học Nam bộ không thể nào sánh
kịp văn học hai miền Bắc, Trung. Dòng văn học ấy ít về số lượng lẫn chất lượng,
đánh giá như thế tưởng rằng nặng nề nhưng đó là sự thật. Mãi đến những năm đầu
của thế kỷ XXI, Ngọc Tư làm cho độc giả cả nước ngạc nhiên. Chị khẳng định
mình ngay từ tập truyện đầu tay và rất nhiều giải thưởng cao quý thuộc về chị:
Ngọn đèn không tắt giải I - Cuộc vận động sáng tác văn học tuổi hai mươi lần II
năm (2000). Giải B - hội văn học Việt Nam với tập truyện Ngọn đèn không tắt
năm (2001). Nhận tặng thưởng tác giả trẻ - Ủy Ban toàn quốc liên hiệp các hội
VHNT Việt Nam - tập truyện Ngọn đèn không tắt. Được bình chọn một trong
mười gương mặt trẻ tiêu biểu năm (2003) do Trung ương đoàn trao tặng. Truyện
ngắn Cánh đồng bất tận được Hội nhà văn Việt Nam trao giải A (2006).
Riêng Cánh đồng bất tận đã đưa tên tuổi Ngọc Tư leo lên đỉnh cao vinh
quang trong lao động nghệ thuật. Chị trở thành một trong những nhà văn nổi bật
nhất thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, góp phần đưa truyện ngắn đương đại lên một
tầm cao mới. Các nhà nghiên cứu lí luận văn học, phê bình văn học đã ghi nhận;
từ sau hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp, văn học Việt Nam chờ đợi rất lâu mới có
lại một cây bút tài hoa và làm nên dư luận, tên tuổi ấy là Nguyễn Ngọc Tư. Ai
cũng ngạc nhiên hết sức vì ở nơi tận cùng đất mũi Cà Mau, sách báo yếu và thiếu
lại tạo ra một bông hoa lạ, lạ đến mức bị kiểm điểm và đòi trục xuất chị ra khỏi
3
quê hương. Mỗi một truyện ngắn của chị “được ví như một bữa ăn thịnh soạn
nhưng hợp khẩu vị, làm cho mọi người ai cũng thấy vừa miệng, cách bày biện
toàn “đặc sản” Nam bộ với chất liệu tươi tắn, mới mẽ” (15). Ông Huỳnh Công
Tín chân thành nói: khi tôi bắt tay vào làm cuốn Từ điển từ ngữ Nam bộ tôi thấy
rất khó khăn, nhưng khi vớ được truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư nói thật tôi mừng
“như vớ được vàng”.
Mặc dù tuổi đời còn trẻ nhưng chị đã toả sáng rực rỡ trên con đường văn
học, điều này không phải cây bút nào cũng có được. Truyện của chị gây ra hai
luồng dư luận khen chê, song điều quan trọng nhất bạn đọc yêu văn gọi chị “đặc
sản” Nam bộ rất mới nhưng không quá lạ.
1.2. Tầm quan trọng của quan niệm nghệ thuật (QNNT) về con người
QNNT về con người là một vấn đề rất quan trọng của sáng tạo nghệ thuật,
nếu không có QNNT về con người thì sẽ không có tác phẩm nghệ thuật. Vì từ khi
con người xuất hiện trên trái đất cho đến nay, con người luôn được coi vấn đề số
một. Con người luôn trăn trở nghĩ suy, luôn khao khát kiếm tìm con - người mình.
Heidegger cho rằng: “Con người là kẻ duy nhất có khả năng tự vấn bản thân
mình”. Vâng! bản thân con người vốn vô cùng phức tạp, đa sắc, đa màu và đa
diện, nhà văn chỉ chạm đến nó chứ không sờ nắn, nắm bắt được bản thể con người
trọn vẹn. Vì vậy, nhà văn cũng không thể nào khám phá tận cùng cái bí ẩn bên
trong con người. Tập đại sử thi Mahabharata của Ấn Độ giáo có lời như sau: “Này,
ta bảo cho các ngươi biết, bí mật của Mahabharata không có gì quý hơn con
người”. Văn học lấy con người làm điểm tựa để nhìn ra thế giới và nhìn vào chính
mình. Có vô số cách để thăm dò con người, thế nhưng con người vẫn mãi mãi là
một bí mật, vì “con người là tận cùng của cái tận cùng” và “tận cùng biến đổi”.
Nguyễn Ngọc Tư là một nhà văn phức tạp, phức tạp bắt nguồn từ QNNT
về con người được chị phá vỡ nên đã gây ra “hiệu ứng” của hai luồng ý kiến
khen chê dữ dội. Với truyện ngắn Cánh đồng bất tận, chị bị kiểm điểm và bị đòi
trục xuất ra khỏi quê hương. Chúng tôi nhớ lại Những chuyện không muốn viết
(1942) của Nam Cao - bài học ấy nay lại vận vào chị. Nhưng bạn đọc hôm nay
thật công bằng, họ đánh giá chính xác, không a dua, không ăn theo. Vì họ biết:
“Chừng nào chưa có sự đổi mới trong QNNT về con người thì sự tái hiện các hiện
4
tượng đời sống khác nhau, chỉ có ý nghĩa mở rộng về lượng trên cùng một chiều
sâu. Thật khó nói đến sự phát triển của tư duy nghệ thuật mà thiếu sự mở rộng,
đào sâu các giới hạn trong QNNT về con người” (51, tr.196).
Chị có mặt trong làng văn từ đầu thế kỷ XXI, khoảng thời gian chưa nhiều
song địa vị Nguyễn Ngọc Tư trong nền văn học đương đại đã được xác định và
được khẳng định dứt khoát. Chị có một vị trí không thể thiếu được khi nhắc đến
truyện ngắn đương đại.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Nguyễn Ngọc Tư chưa phải đỉnh cao của văn học, cũng chưa phải đỉnh
cao chính mình. Nhưng chị đã độc sáng với chất lượng tác phẩm. Chị trở thành
một hiện tượng của văn học trong nước, gây dư luân xôn xao trong năm 2005 -
2006, còn trẻ song chị có một vị trí tối quan trọng đối với văn học Nam bộ nói
riêng và văn học Việt Nam nói chung. Chính vì lẽ đó mà hầu hết những tác phẩm
của chị đều gây nhiều chú ý trên văn đàn và được giới phê bình, lí luận quan tâm
tìm hiểu và khám phá. Song nhà văn Nguyễn Ngọc Tư xuất hiện chưa lâu nên
những bài nghiên cứu chủ yếu nằm rãi rác trên các báo, chưa được tập hợp thành
sách. Cho nên, về những bài nghiên cứu nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, chúng tôi
chia thành 2 nhóm dưới đây.
2.1. Những bài nghiên cứu gián tiếp liên quan đến đề tài, gồm có:
Hồ Anh Thái - Tuổi trẻ (22/11/2003), “Văn học hôm nay: trẻ trung đâu
cần mỹ phẩm”. VnExpreess (11/7/03), Nguyễn Ngọc Tư “Tôi thèm được quất vài
roi để lớn lên”. Hiền Hoà - Vnexpreess (21/1/04), “Nguyễn Ngọc Tư tôi không
muốn ngủ quên vì giải thưởng”. Quang Vinh - Tuổi trẻ (9/3/04), “Nguyễn Ngọc
Tư nhà văn của xóm rau bèo”. Trần Hoàng Thiên Kim - Hà Nội mới (10/5/04),
“Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư “Qủa sầu riêng của trời”. Nhã Vân - Người lao động
(2/8/04), “Đem chuyện phòng the ra viết, hổng dám đâu!”. Anh Vân - Evan
(6/05), “Nguyễn Ngọc Tư “tôi viết như cảm xúc của mình”. Thanh Vân - Evan
(27/9/05), “Nguyễn Ngọc Tư thử “xen canh” trên đất của mình”. Từ Nữ - Giáo
dục và thời đại (6/10/05), “Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư “nhiều khi thấy ngạc nhiên
về mình”. Phạm Xuân Nguyên - Tuổi trẻ (03/12/05) “Dữ dội và nhân tình”. Hạ
Anh - Thanh niên (19/01/2006), “Đọc tạp văn Nguyễn Ngọc Tư - Quen mà lạ”.
5
Nguyễn Thị Hồng Hà - Công an nhân dân (3/02/06), “Đằng sau thành công là
gánh nặng”. Ban tuyên giáo Tỉnh uỷ Cà Mau ra hai công văn (số 35 và số 41 -
BC/TG), kiểm điểm nhà văn Nguyễn Ngọc Tư (tác phẩm Cánh đồng bất tận).
Ngoài những bài nghiên cứu này, trên Báo điện tử (Tuổi trẻ Online) tính
từ ngày (7/4/2006) đến ngày (12/4/2006) có 868 ý kiến gửi đến online. Trong đó
có 13 ý kiến phê phán - phản đối dữ dội, còn 855 ý kiến tấm tắc khen (Cánh
đồng bất tận), tiêu biểu những bài viết: Hoàng Anh Thi (văn học ca ngợi cái tốt,
cũng phải phê phán cái xấu), Trần Kim Trắc (Cánh đồng bất tận cái phao của
lòng nhân ái). Phạm Xuân Nguyên (Thư ngắn gửi Nguyễn Ngọc Tư: Bài học
Nam Cao), Nguyễn Hồng Kỳ (Đẹp xấu trong Cánh đồng bất tận, tiếng nói của
độc giả…),Chu Tước (Cánh đồng bất tận quá thành công), Socnau (Kết truyện
“Cánh đồng bất tận ”tàn nhẫn quá), Nguyễn Khắc Phê (Một thế giới nghệ thuật
riêng) v.v Nghiên cứu QNNT về con người không phải là mục đích của những
bài viết này, nhưng khi tìm hiểu về Nguyễn Ngọc Tư, truyện ngắn và tạp văn của
chị, họ đã gián tiếp đề cập đến vấn đề con người. Nhìn chung, các tác giả quan
tâm đến những vấn đề sau: Hình tượng cánh đồng, mô hình tự sự, mô típ mối
tình tay ba (gắn với cải lương),…
Nguyễn Ngọc Tư có mặt chưa lâu trên văn đàn văn học nhưng khi bước chân
vào con đường văn nghiệp thì ngay lập tức có tiếng vang. Văn chị đủ sức lôi cuốn
các nhà lí luận và phê bình văn học bởi phong cách riêng biệt không lẫn vào ai.
2.2. Những bài nghiên cứu trực tiếp liên quan đến đề tài, gồm có:
Trần Hữu Dũng (2004) - www.viet-studies.org/Nguyễn Ngọc Tư, “Nguyễn
Ngọc Tư “đặc sản” Miền Nam”. Dạ Ngân (2004) - Văn nghệ trẻ (15), “Nguyễn
Ngọc Tư - Điềm đạm mà thấu đáo”. Minh Phương (2004) - Nhân dân (ngày 31/5),
“Đọc sách: “Nước chảy mây trôi” - Tập truyện ngắn và kí mới của Nguyễn Ngọc
Tư”. Minh Thi (2004) - Lao động (ngày 11/4), “Nguyễn Ngọc Tư và những bộ
mặt tâm trạng”. Hoàng Thiên Nga (2005) - Văn nghệ (39), “Đọc Nguyễn Ngọc Tư
qua Cánh đồng bất tận”. Thảo Vy (2005) - Tạp chí văn hóa Phật giáo (11), “Nỗi
đau trong cánh đồng bất tận”. Trần Phỏng Diều (2006) - Văn nghệ quân đội (647),
“Thị hiếu thẩm mỹ trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư”. Đặng Anh Đào (2006) -
Văn nghệ (17-18), “Sự sống bất tận”. Nguyễn Văn Tám (2006) - Khoá luận tốt
6
nghiệp, Trường Đại học sư phạm Huế, Đặc điểm truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.
Huỳnh Công Tín (2006) - Văn nghệ sông Cửu Long (15), “Nguyễn Ngọc Tư nhà
văn trẻ Nam bộ”. Bùi Việt Thắng (2006) - Nghiên cứu văn học (7), “Bài học văn
chương từ Cánh đồng bất tận”. Trần Văn Sỹ (2006) - Văn nghệ trẻ (15) “Bức tranh
quê buồn tím ngắn”. Nguyễn Tý (2006) - Công an Tp. Hồ Chí Minh (ngày7/2),
“Ngày đầu năm đọc “Cánh đồng bất tận” với sức hút kỳ lạ”. Đăng Vũ (2006) -
Nhà văn (12), “Cổ tích trên cánh đồng bất tận”. Đoàn Ánh Dương (2007) - Nghiên
cứu văn học (2), “Cánh đồng bất tận nhìn từ mô hình tự sự và ngôn ngữ trần
thuật”. Phạm Thuỳ Dương (2007) - Văn nghệ quân đội (661), “Cảm hứng cảm
thương trong sáng tác Đỗ Bích Thuỷ và Nguyễn Ngọc Tư”.
Với những bài viết trên, phần đa các tác giả - dù ít dù nhiều đều đề cập
đến vấn đề con người ở một số bình diện như: Hình tượng người nghệ sĩ, nông
dân, thế giới vịt và người, số phận con người trên những cánh đồng bất tận,…
Riêng vấn đề QNNT về con người cho đến nay, theo tư liệu chúng tôi có được thì
những bài nghiên cứu trên đều dừng lại khảo sát ở một vài truyện ngắn, một vài
luận điểm nhỏ lẽ chứ chưa nghiên cứu một cách thấu triệt và có tính hệ thống
QNNT về con người. Tuy nhiên, tất cả những bài viết ấy là những gợi mở quý giá
giúp ích cho chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Bản thân chúng tôi nhận thấy rằng, tác giả là một hiện tượng văn học, cái
mới lạ, sự khen chê bao giờ cũng kích thích và gây hứng thú tìm tòi, khám phá.
Biết rằng, một tác phẩm nghệ thuật có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Vì vậy, khi
chọn đề tài này, chúng tôi cố gắng lĩnh hội các quan điểm, ý tưởng từ các bài viết
của các tác giả đã đề cập, đồng thời mạnh dạn đưa ra những ý kiến, những cảm
nhận riêng để có một cách nhìn hệ thống QNNT về con người trong truyện ngắn
Nguyễn Ngọc Tư, nhằm góp thêm một cách nhìn mới về những giá trị trong
truyện ngắn của chị.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là Quan niệm nghệ thuật về con
người trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
7
Chúng tôi tập trung khảo sát 7 tập truyện sau: Ngọn đèn không tắt (2000),
Ông ngoại (2001), Biển người mênh mông (2003), Giao thừa (2003), Nước chảy
mây trôi (2004), Truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư (2005), Cánh đồng bất tận
(2005), và một số truyện ngắn in trên các báo. Qúa trình nghiên cứu người viết
còn tham khảo hai tập tạp văn của chính tác giả. Ngoài ra người viết còn khảo sát
thêm một số truyện ngắn khác để so sánh, đối chiếu.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng chủ yếu các phương pháp sau:
4.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Sử dụng phương pháp này là chúng tôi vận dụng thi pháp học để giải mã
văn bản ngôn từ nhằm chỉ ra QNNT về con người được thể hiện trong truyện
ngắn Nguyễn Ngọc Tư như thế nào.
4.2. Phương pháp so sánh đồng đại và lịch đại
So sánh đồng đại để làm nổi bật nét tương đồng khác biệt, đồng thời so
sánh lịch đại để thấy được sự tiếp nối và đổi mới QNNT về con người trong
truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư với các nhà văn khác.
4.3. Phương pháp thống kê, phân loại
Với phương pháp này, chúng tôi chỉ ra được các loại con người khác nhau
trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư.
4.4. Ngoài những phương pháp trên luận văn còn sử dụng một số phương pháp
liên ngành khác như: văn hóa, phân tâm học…để khám phá một cách thấu triệt
nhất vấn đề con người của tác giả.
8
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
5.1. Về mặt lý luận, luận văn là một công trình nghiên cứu có hệ thống
QNNT về con người trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Từ đó, nó cho thấy tầm
quan trọng của QNNT về con người - con người đóng vai trò trung tâm, không
thể vắng mặt trong tác phẩm nghệ thuật. Đồng thời, thông qua việc nghiên cứu
QNNT về con người, ta sẽ hiểu rõ ý đồ mà nhà văn gửi gắm vào trong tác phẩm
và thông qua tác phẩm ta biết được tư tưởng nhà văn.
5.2. Về mặt thực tiễn, Luận văn góp phần vào việc tìm hiểu, nghiên cứu
sâu hơn truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư. Nó là tài liệu tham khảo cần thiết phục vụ
cho việc giảng dạy chuyên đề văn học đương đại Việt Nam trong các trường
trung học, cao đẳng và đại học. Ngoài ra, công trình chúng tôi còn có thể là một
định hướng, một gợi mở đối với việc tìm hiểu và nghiên cứu QNNT về con người
trong sáng tác của một tác giả cụ thể hoặc của nhiều tác giả viết truyện ngắn
trong dòng văn học đương đại Việt Nam.
6. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn được cấu trúc
thành ba chương sau đây:
Chương 1: TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ TRONG HÀNH TRÌNH
TRUYỆN NGẮN ĐƯƠNG ĐẠI
Chương 2: CÁC KIỂU CON NGƯỜI TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN
NGỌC TƯ
Chương 3: NHỮNG THỦ PHÁP THỂ HIỆN QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ
CON NGƯỜI TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ
9
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
TRUYỆN NGẮN NGUYỄN NGỌC TƯ
TRONG HÀNH TRÌNH TRUYỆN NGẮN ĐƯƠNG ĐẠI
1. KHÁI LƯỢC TRUYỆN NGẮN SAU 1975
1.1. Đặc điểm truyện ngắn
“Yếu tố quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là những chi tiết cô đúc, có
dung lượng lớn và lối hành văn mang nhiều ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều
sâu chưa nói hết. Truyện ngắn là thể loại gần gũi với đời sống hằng ngày, súc
tích, dễ đọc, lại thường gắn liền với hoạt động báo chí, do đó có tác dụng, ảnh
hưởng kịp thời trong đời sống. Nhiều nhà văn lớn trên thế giới và nước ta đã đạt
tới đỉnh cao của sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật chủ yếu bằng những truyện ngắn
xuất sắc của mình” [23, tr.134].
Mặc dù thuật ngữ truyện ngắn ra đời muộn (khoảng cuối thế kỷ XIX)
nhưng bản thân truyện ngắn đã xuất hiện và tồn tại ngay từ buổi bình minh của
nhân loại, khi con người biết sáng tác văn chương. Trải qua hàng ngàn năm, với
bao biến cố thăng trầm của thể loại, ngày nay truyện ngắn đã chiếm lĩnh được vị
trí quan trọng trên văn đàn trong kỉ nguyên Hiện đại, Hậu hiện đại, khi con người
bị dồn ép về mặt thời gian hơn bao giờ hết. Con người không có đủ thời gian cho
những bộ tiểu thuyết đồ sộ như : Tây du kí, Tam quốc diễn nghĩa, Thuỷ Hử,
Hồng Lâu Mộng, Những người khốn khổ, Chiến tranh và hòa bình, Sông
đông êm đềm…Truyện ngắn đã hàm chứa cái thú vị của những điều sâu sắc
trong một hình thức nhỏ, gọn, xinh xinh và đầy truyền cảm, truyền dẫn cực
nhanh những thông tin, nhanh cũng là một thế mạnh để truyện ngắn chinh phục
độc giả đương đại.
Raymond Carver - một trong những bậc thầy truyện ngắn thế giới ghi
nhận: ngày nay “tác phẩm hay nhất, tác phẩm hấp dẫn và thỏa mãn nhất về nhiều
mặt, thậm chí có lẽ tác phẩm có cơ hội lớn nhất để trường tồn, chính là tác phẩm
10
được viết dưới dạng truyện ngắn” [7, tr.3]. Truyện ngắn gắn chặt với báo chí.
Đây là một lợi thế lớn, bởi hiện tại báo chí kể cả báo điện tử đang bùng nổ với
tốc độ chống mặt. Người đọc quen và thích đọc truyện ngắn trong vài chục phút
hoặc trong một vài giờ. Hơn nữa, sau nhiều năm chiếm lĩnh văn đàn, thơ, kịch,
tiểu thuyết dường như vắt kiệt về khả năng hồi sinh và đổi mới thể loại. Trong
khi đó truyện ngắn còn là mảnh đất tương đối trống, điều này tạo điều kiện hết
sức thuận lợi để các cây bút trẻ khẳng định tài năng.
Lịch sử phát triển của nền văn học hiện đại và đương đại Việt Nam gắn
liền với truyện ngắn. Thế kỷ XX truyện ngắn Việt Nam phát triển liên tục và
vượt trội lên trên tất cả các thể loại, bắt đầu từ những năm hai mươi với sự đóng
góp của Nguyễn Bá Học, Phạm Huy Tốn, Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Công Hoan,
Thạch Lam, Nam Cao, Kim Lân, Tô Hoài, Bùi Hiển, Vũ Bằng…Từ sau cánh
mạng tháng Tám truyện ngắn có chửng lại nhưng vẫn chảy liên tục với tên tuổi:
Trần Đăng, Vũ Tú Nam, Nguyên Ngọc, Nguyễn Khải, Nguyễn Quang Sáng, Vũ
Thị Thường, Lê Minh, Nguyễn Minh Châu…Chiến tranh kết thúc, truyện ngắn
vượt lên tỏ rõ sự ưu việt của mình trong sự khám phá nghệ thuật đời sống. Nhất
là 1986 trở đi, truyện ngắn gần như đã độc chiếm toàn bộ văn đàn, hằng ngày
trên các báo và các tạp chí có trên dưới hai mươi truyện ngắn được in. Thực tế ấy
đã kích thích mạnh đến việc sáng tác, phê bình - lý luận về truyện ngắn những
năm gần đây. Nhiều cuộc thi sáng tác truyện ngắn được khởi xướng. Nhiều cuộc
hội thảo đã được mở ra và nhiều ý kiến có khi trái ngược nhau cũng đã được
trình bày. Điều này chứng tỏ, truyện ngắn đang là thể loại được các nhà văn quan
tâm, nỗ lực cách tân bậc nhất. Nguyễn Huy Thiệp đã từng tạo nên một cơn lốc
xoáy văn học. Gần đây không khí văn chương được nóng lên bởi tên tuổi Đỗ
Hoàng Diệu - Bóng đè, Nguyễn Ngọc Tư - Cánh đồng bất tận. Mỗi nhà văn một
bút pháp riêng tạo nên “hiệu ứng” truyện ngắn hay và được gắn với các tên gọi
“bội thu”, “thăng hoa”, “được mùa”, “lên ngôi”, điều đó chứng tỏ truyện ngắn đã
được đổi mới.
11
1.2. Quan niệm về con người đa chiều
Sau 1975, đất nước chuyển đổi trên nhiều phương diện trong đó có đời
sống văn hoá, tư tưởng. Chiến tranh kết thúc, văn học cựa mình thay đổi, nhất
sau Nghị quyết của Đại hội VI của Đảng và tiếp theo nghị quyết 05 của Bộ chính
trị, cuộc gặp của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh với đại diện giới văn nghệ sĩ vào
cuối năm 1987, tất cả những điều đó đã thổi một luồng gió mới ào ạt vào đời
sống văn học nước nhà.
Bên cạnh tiểu thuyết, thơ, kí, kịch…truyện ngắn trở thành một thể loại rực
rỡ của văn học Việt Nam sau 1975. Nó được xem là một “cú hích” mạnh mẽ và
khả quan, tạo nên một phản ứng dây chuyền, có tác dụng “kích nổ” sự phát triển
truyện ngắn với rất nhiều gương mặt tiêu biểu như: Vũ Thị Thường, Nguyễn Minh
Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Hồ Anh Thái, Y Ban, Võ Thị Hảo,
Trần Thuỳ Mai, Dạ Ngân, Tạ Duy Anh, Nguyễn Thị Ấm, Lê Minh Khuê, Thái Bá
Tân, Phạm Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Xuân Hà, Nguyễn Thế
Hùng, Phùng Văn Khai, Đỗ Bích Thủy, Đỗ Hoàng Diệu, Bích Ngân, Nguyễn
Ngọc Thuần, Nguyễn Thị Diệp Mai, Trầm Nguyên Ý Anh, Nguyễn Vĩnh Nguyên,
Nguyễn Ngọc Tư…Ngòi bút của các nhà văn thay đổi trên nhiều phương diện,
trong đó đặc biệt chú ý nhất là thay đổi QNNT về con người, đây là một bước
chuyển quan trọng cho truyện ngắn. Ứng với mỗi giai đoạn văn học có một cách
QNNT về con người khác nhau. Văn học chống Pháp và chống Mỹ gắn với cảm
hứng ngợi ca, con người xã thân vì quê hương đất nước, ý nghĩa cuộc đời gắn bó
với cộng đồng, con người sống với cái “Ta” to lớn, không hoặc ít đối diện với cái
“Tôi” nhỏ bé của chính mình, không gian cộng đồng chiếm ưu việt hơn hết cả. Sau
1975, con người bắt đầu có ý thức nhìn ngắm lại chính mình. Văn học không còn
hô hào, nói về cái lớn lao mà đào sâu vào cái “Tôi”, cái lẫn khuất bên trong được
khui mở. Bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau, các nhà văn đã hướng vào thế giới
nội cảm, khám phá chiều sâu tâm linh, thấy được ở mỗi cá nhân những cung bậc
tình cảm. Chính vì vậy, truyện ngắn đã nhanh nhạy trong cách tiếp cận và phản
ánh cuộc sống con người dưới cái nhìn đa chiều kích. Milan Kundra nói rằng; “con
người là hiền minh của lưỡng lự”, con người qủa là đa dạng, phong phú. Vì thế,
nhà văn thể hiện QNNT về con người ở nhiều chiều kích khác nhau. Nhà văn
chuyển hướng cách nhìn nhận, cách cảm và cách đánh giá con người đựơc coi tự
làm mới mình về mặt nhận thức, tư duy bản thể con người. Con người luôn phải tự
12
đấu tranh, tự dò dẫm trong muôn ngàn ngả rẽ của xã hội Hiện đại, Hậu hiện đại.
Nhà văn là người đau đời nhất, vì thiên chức của nhà văn làm cho con người trở
nên người hơn, bởi trong mỗi con người bao giờ cũng tồn tại hai mặt: đẹp - xấu,
thiện - ác, cao cả - thấp hèn, yêu - ghét, vui - buồn, trong sáng - tối tăm, hạnh phúc
- khổ đau, tự nhiên - xã hội. Ở đó, con người đứng trên ranh giới nhỏ nhoi nếu
không khéo sẽ bị nghiêng về phía con người tự nhiên, ngược lại con người sẽ
hướng về phía con người xã hội. Đò ơi của Nguyễn Quang Lập, Biển cứu rỗi của
Võ Thị Hảo, Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư…
Nguyễn Minh Châu, nhà văn quân đội, người từ trong cuộc chiến đi ra,
một trong những tác giả tiên phong thay đổi QNNT về con người. Ông không còn
nhìn con người một chiều mà nhìn con người trong nhiều mối quan hệ bộn bề
phức tạp. Con người tự thú, con người thức tỉnh, con người sám hối, con người
bản năng tính dục. Con người luôn khát khao vươn tới cái chân - thiện - mỹ, tiêu
biểu: Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Phiên chợ Giát, Dấu chân
người lính, Khách ở quê ra…
Nhắc tới văn học đương đại không quên nhắc đến tên tuổi Nguyễn Huy
Thiệp, một cây bút độc đáo, một hiện tượng văn học đã làm “vang bóng một
thời”, đến nay ông vẫn được bình chọn là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất.
Với giọng văn sắc lạnh, gai góc, xương xẩu đến tàn nhẫn đã đào bới xới tung lên
những mảng tối, những góc khuất của mỗi thời, của cuộc đời và của xã hội.
Nguyễn Huy Thiệp trăn trở nhiều về đời tư và thế sự, tình yêu và thù hận, sự
sống và cái chết, nhưng bao giờ cũng để ngõ kết thúc. Chính vì vậy nhân vật
trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp luôn luôn sống trong ốc đảo cô đơn, đau
khổ đến tột cùng, đến bất tận, đó là cách thể hiện độc đáo con người trong truyện
ngắn Nguyễn Huy Thiệp.
Ngoài việc đổi mới nội dung nhà văn còn làm mới hình thức nghệ thuật
bằng cách chuyển từ ngôn ngữ một giọng sang ngôn ngữ đối thoại, nhiều giọng,
có sự tác động, hòa trộn giữa ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ người kể, ngôn ngữ
nhân vật. Đặc biệt do dung lượng nên ngôn ngữ truyện ngắn khác hơn ngôn ngữ
tiểu thuyết ở chổ; ngôn ngữ truyện ngắn cô động, hàm súc, dồn nén, kiệm lời làm
nên đặc trưng phong cách truyện ngắn hôm nay. Thêm vào đó, truyện ngắn
đương đại tạo ra sức hấp dẫn, tính bất ngờ, ấn tượng đều do đi lạch kiểu kết thúc
13
có hậu, tạo ra các kiểu kết thúc mới: loại truyện có bắt đầu mà không có kết thúc:
Mê lộ của Phạm Thị Hoài. Loại truyện kết thúc có nhiều đoạn kết: Vàng lửa của
Nguyễn Huy Thiệp, Nhân sứ của Hòa Vang, Dịch quỷ sứ của Tạ Duy Anh,
Nguyệt cầm của Nguyễn Thị Ấm. Loại truyện kết thúc để ngõ: Mùa hoa cải bên
sông của Nguyễn Quang Thiều, Hiu hiu gió bấc, Biển người mênh mông,…của
Nguyễn Ngọc Tư, Vàng Lửa, Con gái thủy thần… của Nguyễn Huy Thiệp,
Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu. Loại truyện kết thúc đối nghịch:
Trương Chi, Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp, Bảo lạc mùa của Ngô Tự
Lập.v.v
Nguyễn Huy Thiệp phát biểu: “Trong truyện cổ người ta kể rằng khi hát
xong câu hát cuối cùng…Trương Chi đã nhảy xuống sông tự trẫm;…Tôi - người
viết truyện này - căm ghét sâu sắc cái kết thúc truyền thống ấy. Qủa thực cái kết ấy
là tuyệt diệu và cảm động, trí tuệ dân gian đã nhọc lòng làm hết sức mình. Còn tôi,
tôi có cách kết thúc khác. Đây chính là bí mật của riêng tôi” (Trương Chi).
Làm nên sự phong phú đa dạng trong QNNT về con người, văn học sau
1975 phải kể đến đội ngũ sáng tác đông đảo nữ giới. Sự đóng góp của các cây bút
nữ vô cùng to lớn, làm cao thêm văn học nước nhà cả về chất lẫn lượng.
Nhìn lại văn học viết Việt Nam, thời trung đại không có cây bút nữ nào
viết truyện ngắn, đếm trên đầu ngón tay chỉ có mấy nhà thơ như: Đoàn Thị Điểm,
Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan. Sang đầu thế kỷ XX, giới văn nữ sĩ vẫn
vắng bóng trên văn đàn, cắt nghĩa cho hiện tượng này là do dưới chế độ phong
kiến hà khắc, người phụ nữ không được học hành, thi cử, bốn chữ vàng: “công,
dung, ngôn, hạnh” đã bó buộc đời người phụ nữ với bổn phận làm vợ, làm mẹ,
tuyệt nhiên không tham gia vào công việc xã hội. Vì vậy, hiếm có điều kiện giao
lưu gặp gỡ và tham gia trong lĩnh vực văn học nghệ thuật. Nho giáo là “trọng
nam khinh nữ” nên họ quan niệm rằng; phụ nữ học làm cái gì? học biết chữ để
thêm lý sự với chồng và lười nhác mà thôi. Giai đoạn 1930 - 1945 nhà thơ nữ
cũng chỉ có đôi người: Anh Thơ, Mộng Tuyết, Vân Đài, Hằng Phương. Lĩnh vực
truyện ngắn chỉ có Bức tranh quê - Anh Thơ, được giải thưởng thơ của Tự lực
văn đoàn, tiểu thuyết Răng đen cũng đã được xuất bản nhưng chỉ để lại dấu ấn
mờ nhạt, người ta biết Anh Thơ với lĩnh vực thơ là chính. Cách mạng tháng Tám
14
thành công, lịch sử dân tộc lật sang trang mới. Giai đoạn 1945 - 1975, trong xu
thế chung của thời đại, phụ nữ được giải phóng hoàn toàn và là lực lượng không
thể thiếu trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mỹ. Họ là hậu phương vững
chắc, nếu không có chị em không thể có chiến thắng. Họ vượt lên chính mình
nhằm thể hiện mình chẳng thua anh kém chú, hoàn thành xuất sắc trọng trách
“đảm việc nước giỏi việc nhà”. Đôi ngũ bút lực nữ có mặt kịp thời trên văn đàn,
vừa làm công tác tư tưởng và vừa sáng tác văn chương. Mộng Sơn với thực tế
cuộc sống cùng với những chuyến đi xa đã mở mang tầm nhìn cuộc sống, do vậy,
chị cho ra đời nhiều phóng sự có giá trị và nhiều truyện ngắn thú vị. Lê Minh -
nhà văn nữ cho đến hôm nay đã là tác giả của rất nhiều thể loại trong đó đóng
góp đáng kể nhất ở lĩnh vực truyện ngắn. Từ những năm sáu mươi Vũ Thị
Thường đã trở thành cây bút tiêu biểu viết về đề tài nông thôn miền Bắc, hoà
bình trên đất Bắc đã đem lại nguồn cảm hứng sáng tác dồi dào, đến nay chị vẫn
thể hiện mình còn sung sức, viết khoẻ và viết hay. Từ đó những cây bút nữ vượt
lên số phận để đến với văn học ngày một đông đảo hơn: Bích Thuận, Thanh
Hương, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Nguyễn Thị Như Trang, Dương Thị Xuân Qúy,…
Trong dàn hợp xướng nhiều âm sắc với các thế hệ nhà văn sáng tác truyện
ngắn, bên cạnh đội ngũ đông đảo của các cây bút nữ đã được bạn đọc biết đến
trước 1975. Sau 1975, chính xác thời kỳ đổi mới, người ta gọi riêng cho lĩnh vực
truyện ngắn “âm thịnh dương suy” (75% người viết truyện ngắn là nữ) (theo
thống kê của ông Bùi Việt Thắng), đây như là sự bù trừ cho lỗ hỏng trước đó.
Biết đến họ với rất nhiều gương mặt tiêu biểu: Phạm Thị Hoài, Y Ban, Võ Thị
Hảo, Nguyễn Thị Ấm, Dạ Ngân, Trần Thùy Mai, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị
Vàng Anh, Đỗ Bích Thủy, Võ Thị Xuân Hà, Trầm Nguyên Ý Anh, Nguyễn Thị
Diệp Mai, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Ngọc Tư… Nhiều tác phẩm của các nhà văn
nữ đã có giải thưởng cao trong các cuộc thi truyện ngắn. Đạt danh hiệu “thủ
khoa” và “á khoa” trong lĩnh vực văn học như: Hậu thiên đường của Nguyễn
Thị Thu Huệ, Bức thư gửi mẹ Âu Cơ của Y Ban, Người sót lại rừng cười của
Võ Thị Hảo, Thị trấn hoa quỳ vàng của Trần Thùy Mai, Gia đình bé mọn của
Dạ Ngân, Bóng đè của Đỗ Hoàng Diệu, Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc
Tư…Sự phá cách về phương diện nội dung và hình thức nghệ thuật của các cây
15
bút nữ đã tạo nên sắc màu mới cho truyện ngắn, trước hết được thể hiện ở sự
phong phú đa dạng về phong cách và cách thể hiện độc đáo về con người. Ở đó
vừa có cái chung của thời đại vừa có cái riêng, cái cá biệt của mỗi tác giả trong
cảm thụ cuộc sống, tạo ra lối đi riêng trên con đường sáng tạo nghệ thuật. Và sự
xuất hiện đông đảo các cây bút nữ đã cho chúng ta thấy ở họ sự cống hiến hết
mình trong sự nghiệp sáng tác văn chương. Nếu như châu Phi với sự trổi dậy của
ý thức nữ quyền, từ những năm 80 trở đi, một thế hệ thứ hai các cây bút nữ châu
Phi đã xuất hiện tạo ra một hiện tượng xâm lấn, đôi khi có tính lật lại trật tự
trong văn đàn. Thì ở Pháp thập kỷ 90 chứng kiến giới văn chương nữ đã bước
những bước cuối cùng để sát vai với nam giới. Còn tại Việt Nam thời kỳ đổi mới
các cây bút nữ lấn át nam giới.
Đội ngũ nhà văn nữ viết như vắt kiệt sức mình để dâng hiến cái đẹp cho
đời. Song chưa có sự nhấn thân quên mình cho nghề nghiệp, âu cũng là do yếu tố
khách quan và chủ quan mang lại. Vì vậy, chưa có nhiều tác phẩm xuất sắc, danh
hiệu viết truyện ngắn xuất sắc nhất từ sau 1975 đến nay được trao tặng cho
Nguyễn Huy Thiệp chứ không phải một cây bút nữ nào đó. Nhưng chúng ta phải
thừa nhận rằng, sự đóng góp của đội ngũ viết truyện ngắn nói chung, các nhà văn
nữ nói riêng, đặc biệt sự xuất hiện của Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàng Diệu… đã
góp phần làm sống dậy nền văn hóa đọc nước nhà, điều mà chúng ta tưởng
chừng bị teo tóp, vì sau hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp, văn học Việt Nam chờ
đợi rất lâu mới có lại một đỉnh núi cao, tạo dư luân xôn xao trên văn đàn Việt
Nam. Đó là những nỗ lực đóng góp đáng ghi nhận trong sự làm mới QNNT về
con người của thế hệ viết văn trẻ.
Nếu cho rằng cách tân trong văn học là vận dụng sáng tạo từ truyền thống
thì việc tái xuất đề tài cũ nhưng cách nhìn con người mới được các nhà văn trăn
trở lần tìm. Xét đến cùng, để tìm ra lối đi mới trong nghệ thuật thì tất cả các nội
dung và hình thức nghệ thuật cần thiết được huy động sử dụng, các thủ pháp đều
bình đẳng và có công hiệu như nhau. Biết thế, nhưng QNNT về con người vẫn
phải tiên phong đi đầu nếu không mọi cố gắng đều bị thất bại.
2. DIỆN MẠO TRUYỆN NGẮN NAM BỘ
2.1. Truyện ngắn Nam bộ - một dòng chảy trầm lặng
16
Nam bộ được gọi vùng đất mới của tổ quốc ta, hình thành muộn, lưu dân
người Việt mở cõi từ cuối thế kỷ XVII đến nay đã trên 300 năm. Quá trình khai
hoang, mở cõi đã hình thành trên vùng đất này những nét văn hoá cộng cư đặc
sắc của bốn dân tộc: Kinh, Hoa, Khmer và Chăm. Thế nhưng thực tình không
hiểu sao, khi chữ Quốc ngữ vào nước ta thì người Nam bộ có phong cách, nếp
sống, lời ăn tiếng nói, suy nghĩ lại có đặc thù riêng biệt; thể hiện ở sự thoáng đạt,
sởi lởi, nghĩa khí, hào hiệp, thẳng thắn…đậm hơn những vùng khác kể cả trong
chiến đấu cũng được phô bày một nét rất riêng nhưng về phương diện văn học
nghệ thuật lại không có gì nổi bật. Mặc dù từ khi có chữ Quốc ngữ, Nam bộ
chính là vùng đất thai nghén và sinh thành nền văn xuôi Việt Nam như: Trương
Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Trọng Quản, Hoằng Mưu,…
Cũng như lịch sử vùng đất này, văn học nghệ thuật hội tụ ở ngôi nhà
chung tại đồng bằng sông Cửu Long. Với sự góp mặt của 13 tỉnh thành: An
Giang, Kiên Giang, Hậu Giang, Tiền Giang, Bạc Liêu, Bến Tre, Cà Mau, Cần
Thơ, Đồng Tháp, Long An, Sóc Trăng, Trà Vinh, Vĩnh Long. Hội văn học nghệ
thuật Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) đã cho ra mắt bạn đọc trong cả nước;
2460 tác phẩm với khoảng 715 tác giả. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, văn
học Nam bộ có những cây bút tiêu biểu: Sơn Nam, Hoàng Văn Bổn, Trần Kim
Trắc, Phạm Tuân,… người ta nhìn thấy thành tựu ấy qua một giải thưởng khá
quy mô lúc đó, giải thưởng Văn nghệ Cửu Long Nam bộ năm 1952. Sang chống
Mỹ dòng văn học Nam bộ bình lặng chảy cùng văn học cả nước trong không khí
hào hùng “tất cả cho tiền tuyến”. Tuy nhiên, đứng trên bình diện khách quan mà
xét, văn học Nam bộ nghèo nàn hơn so với hai miền Bắc, Trung. Điều dễ nhận
thấy nhất, lực lượng sáng tác mỏng, bị dàn trải trên một địa hình rộng lớn, thiếu
được chăm nom, đầu tư thoả đáng, hơn nữa hạn chế về mặt thông tin, đất rộng,
người đông mà chỉ có 29 thành viên nằm trong Hội nhà văn Việt Nam. Hiện văn
học ĐBSCL đang đứng trước thực trạng mang tính thời sự. Ngày 10/9/2004, Hội
nhà văn tổ chức Bàn tròn văn xuôi Đồng bằng sông Cửu Long nhằm tìm ra
phương hướng để thúc đẩy văn học nghệ thuật phát triển, đẩy văn học miền này
bắt nhịp được với văn học hai miềm kia. Tại đây, nhiều ý kiến được đưa ra bàn
luận, nhà văn Nguyễn Thị Diệp Mai đã bộc lộ chân thật về con đường văn
17
chương: say mê cuồng nhiệt khi nhập hồn vào trang viết cùng trạng thái tâm lý
hụt hẩng khi “đẻ” xong một “đứa con tinh thần”. Say mê, háo hức là vậy nhưng
cái gánh nặng áo cơm xưa như trái đất đã làm cho giới viết văn trẻ cảm thấy viết
là “viết chơi theo kiểu tài tử” vì “chưa thể sống bằng nghề viết văn”. Vũ Hồng
phát biểu về đội ngũ viết văn trẻ như sau: số lượng ngày càng phát triển, mỗi cây
bút đều tạo được dấu ấn phong cách riêng, có sự nối tiếp giữa các thế hệ, mà điển
hình gần đây nhất có Nguyễn Thị Diệp Mai, Nguyễn Ngọc Tư,…Một trong
những hạn chế của các cây bút trẻ là tính chuyên nghiệp chưa cao. Ở đây, hội
nghị bàn tròn lưu ý nhất là sự đóng băng trong việc miêu tả tâm lý, xây dựng tính
cách nhân vật. Theo ông Võ Tấn Cường, tính cách con người Nam bộ trong thời
Hiện đại, Hậu hiện đại đa diện và rất phức tạp, chứ không chỉ đơn giản là phóng
khoáng, hào hiệp, giàu tình nghĩa như cái nhìn bất di bất dịch bấy lâu. Nhiều nhà
văn chưa đào sâu vào miền bí ẩn tâm linh của con người với những xung đột
giữa cái thiện và cái ác giữa cái cao cả và cái thấp hèn, dẫn đến hệ quả, nhiều
truyện ngắn miêu tả hiện thực sống sượng theo kiểu bút ký, thiếu sự chiêm
nghiệm và thăng hoa về cảm xúc, phong cách thể hiện, chưa xây dựng được
những nhân vật có tính cách, tầm vóc ngang tầm hay cao hơn nguyên mẫu. Trên
cơ sở đánh giá lại, ông Võ Tấn Cường đưa ra kết luận chung: văn học ĐBSCL
chưa có được những đỉnh núi cao mà chỉ có những miền nhấp nhô nối tiếp
những vùng đất văn học của các bậc tiền bối.
Do cách nhìn thiển cận này làm ảnh hưởng nhiều đến sáng tác của nhà
văn, dẫn đến độc giả trong cả nước ít biết và xa lạ với những đứa con tinh thần
nơi tận cùng của tổ quốc. Khách quan mà xét, lực lượng sáng tác văn học Nam
bộ nói chung, truyện ngắn nói riêng, tác phẩm ít lại sơ sài, còn nhiều mặt hạn
chế, truyện ngắn chưa đáp ứng kịp với sự phát triển ồ ạt về kinh tế, văn hoá và xã
hội diễn ra trên đất lục tỉnh. Mặt khác, đội ngũ phê bình, lý luận văn học trống
vắng kéo dài từ hàng chục năm nay. Họ là những người tiên phong “tiếp thị” văn
học ra thị trường, nhưng sao văn học Nam bộ ít tự giới thiệu mình cho bạn đọc cả
nước biết. Nam bộ cũng cần quan tâm đến vấn đề này, biết rằng công việc “tiếp
thị” trong văn chương khác trong kinh tế, không thể “lăng - xê” cho oách để bán
lấy tiền. Vì vậy, công tác nghiên cứu, phê bình, lý luận và cả giới thiệu, dịch
18
thuật về văn chương được xem công việc cần kíp và vô cùng quan trọng, vì muốn
hội nhập “văn học cần phải mạo hiểm” (chữ dùng của nhà văn Sơn Nam). Vì thế,
truyện ngắn Nam bộ đang trải qua bước chuyển mình đầy trăn trở trước hiện thực
xô bồ của đời sống. Một dòng chảy trầm lặng cần được khơi thông để đưa văn
học Nam bộ lên tầm cao mới, sánh vai cùng văn học nước nhà và vươn mình ra
nước bạn.
Nhìn chung, lĩnh vực truyện ngắn có khởi sắc và phát triển liên tục, hết
sức tự nhiên, có đóng góp tích cực vào việc hình thành một mảng văn học vùng
miền mang màu sắc Nam bộ, đồng thời, hòa quyện và bổ sung vào dòng văn học
chung cả nước. Thế nhưng chưa có tác giả nào tạo ra sự đột biến, phải đợi đến
Nguyễn Ngọc Tư văn học Nam bộ mới thực sự có “đỉnh núi cao”, tạo ra “cú
hích” mạnh cho truyện ngắn hôm nay.
2.2. Thành tựu của truyện ngắn Nam bộ
Văn học Nam bộ nói chung và truyện ngắn nói riêng trong những năm qua
đã thu đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Mặc dù đội ngũ sáng tác mỏng
nhưng cây bút nào có được vài ba truyện ngắn đăng trên các tạp chí thì ngay lập
tức để lại dấu ấn phong cách riêng. Theo tôi điểm này cực kỳ thú vị, vì khi đọc
truyện của các tác giả giữa muôn ngàn loài hoa ấy, chúng ta nhận ra họ ngay do
chất giọng Nam bộ không lẫn vào ai. Ngôn ngữ, văn hóa Nam bộ rất riêng, rất
độc đáo và thú vị, nó có giá trị bổ sung cho văn học cả nước, nổi lên: Trương
Vĩnh Ký, Hồ Biểu Chánh, Sơn Nam, Nguyễn Quang Sáng…đến Bình Nguyên
Lộc, Ngô Khắc Tài, Dạ Ngân, Hồ Tĩnh Tâm, gần đây có Trầm Nguyên Ý Anh,
Nguyễn Thị Diệp Mai, Lâm Thị Thanh Hà, My Lăng, Phan Thanh Lệ Hằng, Đỗ
Tuyết Mai, Nguyễn Ngọc Thuần, Nguyễn Ngọc Tư…Sự góp mặt đông đảo của
đội ngũ nhà văn trẻ đã tạo nên một diện mạo mới sôi nổi và quyết liệt trên dòng
chảy bình lặng của nền văn học Nam bộ. Các cây bút thể hiện mình ở nhiều
phong cách độc đáo khác nhau, tạo nên bộ mặt mới cho văn học, nổi bật với ba
thành tựu sau:
Thành tựu thứ nhất, các nhà văn viết về cái kỳ vĩ, lạ lùng. Cái kỳ vĩ, lạ
lùng trong văn chương làm nên sức hấp dẫn, kích thích tính tò mò ở độc giả. Khi
đọc truyện của: Sơn Nam, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng….Sau 1975, Dạ
19
Ngân, Nguyễn Thị Diệp Mai, Đỗ Tuyết Mai, Trầm Nguyên Ý Anh, Nguyễn
Ngọc Tư, họ đã xây dựng được những bức tranh Nam bộ vô cùng phong phú và
“đặc sản”. Sông nước, kênh, rạch chằng chịt, xuồng, bè tấp nập, rừng ngập mặn,
rừng nguyên sinh, rừng sình lầy, những cánh đồng bát ngát, chợ nổi trên sông,
người và muôn thú cộng sinh như nương tựa bạn bầu, hiện lên một không gian
“vĩ mô” có một không hai. Đọc truyện chúng ta cảm nhận rằng, thiên nhiên như
một đối tượng, một hình tượng, một nhân vật thực sự chứ không đơn thuần làm
bối cảnh hoặc nguyên cớ để phát triển tính cách nhân vật.
Thành tựu thứ hai, truyện đậm dấu ấn địa văn hoá (không đâu rõ bằng
văn học Nam bộ), được bàn đến rất nhiều trong các tác phẩm. Đọc: Ông cá hô
của Lê Văn Thảo rất đặc trưng cho tính cách con người Nam bộ: nghĩa hiệp,
trọng tình, phóng khoáng…nhưng nếu không có những dòng kể về nghề săn cá
hô - một nghề chỉ có ở vùng Cửu Long giang, với những trang viết về phong tục
đua thuyền ngày rằm tháng bảy trên sông…thì thiên truyện đã giảm đi phần hồn
Nam bộ rõ rệt và tính cách nhân vật không được khắc hoạ đủ mức nữa. Nhà
không có đàn ông của Dạ Ngân, một truyện ngắn đầy đặn tập tục văn hoá. Chị
viết về tục dựng vợ gã chồng, một tập tục bình thường có ở khắp mọi miền đất
nước và trên toàn thế giới, cái không bình thường ở đây lại xảy ra trong một gia
đình toàn phụ nữ. Họ không phải những phụ nữ xấu, cái chuyện muốn lấy chồng
được bàn cãi rất nhiều trong ngôi nhà toàn quá lứa lỡ thì. Thế nhưng sức hấp dẫn
không phải dừng ở văn hoá vùng miền mà nó cộng cư lan tỏa ở cách khám phá
tâm trạng con người, ở chiều sâu tư tưởng, triết lý nhân sinh. Cô đơn, con người
cần phải nương tựa vào nhau để sống, nhưng rồi lại làm cho nhau đau khổ, cô
đơn hơn. Con người không ý thức được sự khốn cùng ấy nên con người sa vào
hết bi kịch này lại đến bi kịch khác. Viết về tục lệ - thế sự đời tư mà khui mở ra
cái trớ trêu bất bình thường. Nhà không có đàn ông nói lên sự khập khiểng, gia
đình thiếu đi một giới bao giờ cũng có sự lạch pha trong cuộc sống.
Thành tựu thứ ba, ngôn ngữ nổi lên trong tác phẩm là một bộ phận rất dễ
nhận thấy bởi tính đa diện, đa sắc, đa động và rất trẻ của vùng đất Phương Nam.
Tác giả nắm lấy như một lợi thế nghệ thuật làm nên phong cách riêng.
20
Nhà văn, người trăn trở và đau đời nhất, vì thân phận của nhà văn là thân
phận bút mực, số kiếp nhà văn là số kiếp câu chữ. Cùng với sự phát triển kinh tế
chống mặt buộc nhà văn thay đổi QNNT về con người để bắt nhịp với cuộc sống.
Vì vậy, nhà văn không chỉ viết về cái nghĩa khí, hào hiệp mà lẫn cả trong mỗi
con người có tốt - xấu, có khát vọng cao cả - dục vọng thấp hèn…Cánh đồng bất
tận của Nguyễn Ngọc Tư, mọi cái đều đi đến tận cùng, yêu thương, thù hận, tội
ác và trừng phạt đều diễn ra đến tận cùng oan nghiệt.
Văn học Nam bộ chảy theo dòng chung văn học cả nước, sau 1975, văn
học bắt đầu cách tân và thu đạt nhiều thành tựu đáng kể về nội dung và hình thức
biểu hiện. Năm 1999, NXB Trẻ cho ra hai tập truyện ngắn miền Tây, giới thiệu
trên 50 tác giả khá quen thuộc. Hội nhà văn ĐBSCL cho ra mắt tuyển tập 18 nhà
văn ĐBSCL và nhiều tuyển tập truyện ngắn khác lần lượt ra đời. Điều này cho
thấy truyện ngắn Nam bộ đang có sự chuyển mình rõ nét, đội ngũ những cây bút
truyện ngắn được bổ sung ngày một đông đảo hơn, truyện ngắn phần nào đã đáp
ứng được tâm lý thị hiếu của người đọc nhờ sự chuyển tải nhanh, nhạy những
vấn đề bức xúc của đời sống xã hội. Đạt được điều này là do thế hệ đội ngũ nhà
văn trẻ kế thừa những thành tựu ở lớp đàn anh đi trước, cùng với kế thừa có cách
tân phát triển. Nhà văn thay đổi QNNT về con người, dẫn đến cách thể hiện con
người trong tác phẩm đa chiều, đa diện và nhiều cung bậc, con người không còn
nhất phiến, đơn trị mà đa trị, phân mảnh. Vì vậy, đòi hỏi các cây bút tìm tòi cho
mình một lối đi riêng, từ cách chọn đề tài, xây dựng cốt truyện, quan niệm con
người, cho đến sáng tạo ngôn từ. Bước đi của truyện ngắn hôm nay không còn
như trước nữa, người viết truyện cô động, tinh tế, mang bản sắc và giọng điệu
riêng của tác giả. Nhà văn xoáy sâu vào tâm trạng nhân vật giúp cho người đọc
thấy thích thú như: Giọt đắng của Bích Ngân. Xóm mồ côi của Nguyễn Lập
Em, Cánh đồng bất tận được Nguyễn Ngọc Tư v.v
Trong Bàn tròn văn xuôi ĐBSCL, Hồ Tĩnh Tâm đã nêu bật cá tính và bản
lĩnh văn xuôi Nam bộ từ cái nhìn địa văn hóa, ứng với mỗi vùng có nét văn hóa
đặc sắc riêng. Các cây bút Nam Bộ đã vận dụng nhuần nhuyễn khẩu ngữ, phương
ngữ, hát cải lương…trong sáng tác đã tạo nên dấu ấn địa văn hoá và nâng ngôn
ngữ lên một tầm cao mới, ngôn ngữ nghệ thuật.
21
Truyện ngắn Nam bộ đã có bước chuyển mình quan trọng, có được những
thành tựu đáng kể, song là vùng đất mới nằm tận cùng tổ quốc, hiện văn học
ĐBSCL đang cần sự quan tâm của các nhà phê bình, lý luận nhằm “khoách đại”
văn học ra khỏi vùng, để bạn đọc trong cả nước biết đến nhiều hơn hương sắc
văn học Nam bộ.
3. NGUYỄN NGỌC TƯ - LUỒNG GIÓ MỚI CỦA TRUYỆN NGẮN
NAM BỘ
3.1. Sự khẳng định phong cách
“Phong cách là một phạm trù thẩm mĩ, chỉ sự thống nhất tương đối ổn
định của hệ thống hình tượng, của các phương tiện biểu hiện nghệ thuật, nói lên
cái nhìn độc đáo trong sáng tác của một nhà văn, trong tác phẩm riêng lẻ. Không
phải bất cứ nhà văn nào cũng có phong cách. Chỉ những nhà văn có tài năng, có
bản lĩnh mới có được phong cách độc đáo” [23, tr.212]. Nguyễn Ngọc Tư có
duyên nợ với truyện ngắn, chị phô niềm đam mê ở thể loại này. Vì vậy, chị có
được thành công rực rỡ, được bạn đọc đón nhận một cách nòng nhiệt nhất, ưu ái
nhất, cùng với sức viết thần tốc cộng với thái độ nghiêm túc trong nghề nghiệp,
chị đã cho ra đời bảy tập truyện ngắn đắc địa và hai tập tạp văn. Giai đoạn này,
ĐBSCL xuất hiện một số cây bút nữ tiêu biểu, đặc biệt bộ ba rất được yêu thích:
Trầm Nguyên Ý Anh, Nguyễn Thị Diệp Mai, Nguyễn Ngọc Tư.
22
Truyện ngắn Trầm Nguyên Ý Anh, khai thác thân phận con người nhỏ bé
trong xã hội Hậu hiện đại, chị thành công khi khắc hoạ cái đói, cái nghèo, đói
nghèo đeo đuổi thì nhân cách dễ bị tụt dốc. Nhưng khi con người vướng vào
vòng danh lợi, sự tụt dốc cũng dễ dàng xảy ra. Cuộc đấu tranh chống lại sự tụt
dốc của nhân cách và đạo đức là cuộc đấu tranh lâu dài, đầy khổ ải và nhọc nhằn.
Chính mình đấu tranh với mình để mình rời thật xa phần con và đến thật gần
phần người nhằm bảo dưỡng cái thiện. Chị dùng ngòi bút để chia sẽ nỗi nhọc
nhằn với người “cùng khổ”, nhưng triệt tiêu đói nghèo cần sự nỗ lực của toàn xã
hội cùng chung tay góp sức. Ngay nhan đề tác phẩm độc giả cũng hình dung
được việc “chạy ăn từng bữa mướt mồ hôi” như: Nghiệp đời còn đó, Nghiệp đời,
Người chuyên viết điếu văn…Miếng ăn đã trở thành nỗi ám ảnh trong văn học
1930-1945, thể hiện ở sáng tác của Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, Kim Lân…
Ngày nay miếng ăn không còn điêu đứng như trước, nhưng mỗi thời mỗi khác,
hôm nay, ăn không chỉ no mà còn ăn ngon và mặc đẹp. Con người muốn có, có
nữa, càng nhiều vật chất càng tốt, khái niệm “vô sản” làm họ đớn đau quằn qoại,
cùng với nó, yếu tố bản năng tình dục không bờ bến dẫn đến con người tha hóa
nhân cách. Con bất hiếu với cha mẹ, mẹ tàn nhẫn, vô trách nhiệm với con cái,
anh em hằn hộc, ghen ghét nhau, kiểu sống “chồng chung vợ chạ” trong mỗi gia
đình. Họ từ một dòng máu sinh ra nhưng không có tí chút tình cảm dành cho
nhau thì làm sao biết “lá lành đùm lá rách”, “thương người như thể thương thân”
ở: Đứa con hoang, Nước mắt đàn ông, Kiếp nhân sinh, Một chuyến đò…Song,
Ý Anh tin tưởng vào con người, nên vẫn có những con người lầm đường lạc lối
phục thiện. Mọi cố gắng nhằm để thắp nên một “ngọn đèn không tắt” trong bầu
trời đen tối của phần khuất hiện thực cuộc sống, ngọn đèn chiếu sáng lạc quan,
tin tưởng vào tương lai. Cái đẹp sẽ chiến thắng cái ác, cái xấu, sau cơn mưa trời
lại sáng, đó là triết lý sâu sắc của nhà văn.
Tên tuổi Nguyễn Thi Diệp Mai không còn xa lạ với bạn đọc yêu văn
chương. Cũng chỉ quanh quẩn với đề tài tình yêu nhưng chị viết rất lạ, tình yêu
có khổ đau, có hạnh phúc, song tình yêu ấy là tình yêu của những người “no đủ”,
tình yêu với nhịp sống hối hả của xã hội Hậu hiện đại, mang đậm chất “đô thị”.
Họ thành đạt trong sự nghiệp, khi “no đủ” con người có điều kiện nhìn rõ đời tư,
23
chợt nhận ra một nữa của mình không phải người đàn bà (đàn ông) mình đang
sống. Họ không vượt qua cám dỗ đành sống kiểu “ông ăn chả bà ăn nem”, rồi
lương tâm cắn rứt về những tội lỗi. Qúa trình đấu tranh với chính mình nhân vật
Hạ trong Chuyến xe cuối cùng, Thi trong Nơi cuối đường đã rủ bỏ và chôn chặt
trong tim để trở về với mái ấm gia đình. Bên cạnh đó, cũng có nhân vật tung hê
tất cả để đi theo tiếng gọi của con tim như Bích trong Nước mắt chảy một bên.
Hay trong tuổi xế chiều họ tìm thấy lại nhau trong Ba đoạn đời. Cũng có những
con người mụ mị đến điên rồ trong tình yêu đã ra tay giết chết người chồng từng
một thời tay ôm, má kề để được tự do thoải mái theo trai như tác phẩm Người
cóc. Qua chủ đề, Diệp Mai khát khao đi tìm những giá trị nhân bản bị khuất lặn
giữa cuộc đời.
Nguyễn Ngọc Tư nổi bật lên trong năm 2005 - 2006, được xem là năm có
biến thiên, chấn động trong văn học, đặc biệt thể loại truyện ngắn. Truyện của
chị đã mang đến một “hơi gió mát” (chữ dùng của nhà văn Nguyên Ngọc) cho
văn xuôi đương đại. Xu hướng các nhà văn đi sâu khai thác mảng hiện thực đang
bày ra trước mắt, một hiện thực đang được rung chuông báo động, ở đó đầy
những va chạm, bụi bặm và ngột ngạt của cuộc sống đời thường. Chị dùng ngòi
bút viết về những con người chân lấm tay bùn, những mối tình buồn hết biết
trong: Cuối mùa nhan sắc, Hiu hiu gió bấc, Mối tình năm cũ, Thương quá rau
răm…Thế nhưng, đến Cánh đồng bất tận, nhân vật không còn cái vẻ hiền hiền,
cam chịu mà, nhân vật nổi loạn.
Nguyễn Quang Sáng nhận xét: “Cổ có phong cách riêng. Mà phong cách
đó, bắt nguồn từ vốn sống độc đáo, do chính cổ tìm được. Tôi ngẫm ra, Tư có cái
cốt của người viết văn, nhưng lại theo cái nghề làm báo. Nghề bắt cổ phải lăn
lộn, đi nhiều, thấy nhiều. Tất cả những hiểu biết đó biến thành vốn sống, trộn với
tài năng riêng, mới cho ra tác phẩm ấn tượng. Tui đọc Tư nhiều và kỹ. Làm văn
chương mà có cá tính không phải dễ tìm. Chất Nam bộ trong văn cổ đậm đặc, từ
hình dáng thân thể con người, cách sống, tính cách cho tới ngôn từ. Thoại trong
văn Tư không hề bị lai, rặt Nam bộ mà người ta đọc vẫn hiểu và cảm thấu trọn
vẹn. Cái lớn nhất mà Tư làm được ở chỗ cổ có công nâng ngôn ngữ bình dân của
người miền Tây thành ngôn ngữ văn học” (Đắc Quý, phỏng vấn - Báo Sinh viên
24
Việt Nam - Tết Đinh hợi 2007). So với Ý Anh, Diệp Mai thì Ngọc Tư Nam bộ
hơn cả, chị viết rất tự nhiên thoải mái, không câu nệ. Vì vậy, người đọc choáng
váng một cách thích thú với nồng độ phương ngữ. Phương ngữ đó tích tụ của một
thính giác tinh nhạy, chị nghe âm thanh trong trẻo xung quanh và chuyển âm
thanh đó vào trong tác phẩm của mình một cách tự nhiên.
Nguyễn Ngọc Tư trẻ về tuổi đời lẫn tuổi nghề nhưng chị chinh phục được
độc giả bởi phong cách đặc sệt Nam bộ vừa quen mà rất lạ. Cái mới trong truyện
chính là cái cũ, cái quen thuộc, cái lạ ở tài khui mở những sinh hoạt, những
phong tục và những con người sống thân thuộc bên hông nhà mình. Chị đưa ra
một tấm gương sáng, để chúng ta nhìn thấy những sinh hoạt hàng ngày. Lạ thay,
qua tấm gương lại nhìn thấy sự cộng hưởng văn chương và cuộc đời, ở đó ta
khám phá mọi ngõ ngách tâm hồn của chính cuộc đời ta. Đặc biệt khi Cánh
đồng bất tận ra đời, ngay lập tức chị rực sáng, rộ lên mọi lời khen chê. Khen chê
nó như một thuộc tính của mỗi con người, chẳng một ai sống mà không nhận
được lời khen chê dẫu là trực tiếp hay gián tiếp, chỉ có điều với chị độc giả đã
đúng. Từ nông thôn đến thành thị, từ trí thức đến dân cày, từ già đến trẻ… tất cả
đều mua sách vì họ “bắt được sóng” (chữ dùng của Hữu Thỉnh) từ trái tim và tài
năng của chị. Chị lao tâm khổ tứ trên con đường nhà văn - nhà báo không ngừng
nghĩ. Vì vậy, tác phẩm đều đặn ra đời được các nhà chuyên môn đánh giá cao, ăn
khách đối với nhà xuất bản, lọt vào tầm ngắm các nhà đạo diễn điện ảnh. Bao
nhiêu đó cũng đủ để Ngọc Tư vượt qua các gương mặt văn học lão làng và trở
thành gương mặt sáng giá và triển vọng nhất trong đội ngũ các nhà văn đương
đại (đứng sau Nguyễn Huy Thiệp).
Nguyễn Tý đã có lý khi cho rằng; truyện ngắn Ngọc Tư thể hiện nỗi đau
đời mà dẫu vô tình hoặc cố ý khi xây dựng nhân vật Tư tạo nên một phong cách
không lẫn vào ai. Chị trăn trở rất nhiều về con đường văn nghiệp, cái “khó nhất
là vượt qua sự nhàm chán lặp lại chính mình, leo qua những cái đỉnh do mình
dựng nên, thoát ra khỏi cái vòng tròn do mình vẽ. Và khó nữa là làm sao thu xếp
với bản thân” (Báo Sinh viên Việt Nam - Tết Đinh hợi 2007). Vì chị biết, con
đường văn chương “nhọc nhằn khủng khiếp, qua đoạn hoa hồng là đoạn đầy gai.
Nhưng tôi vẫn bước về phía trước, tôi tin phía ấy lại có hoa hồng”.
25