Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Bệnh giang mai (Syphillis) (Kỳ 1) ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.82 KB, 6 trang )

Bệnh giang mai
(Syphillis)
(Kỳ 1)
Giáo trình Bệnh da - Hoa liễu HVQY
1- Tên bệnh: Giang mai. Syphilis, Lues.
Giang mai là một bệnh nhiễm khuẩn, lây truyền chủ yếu qua đường tình
dục nhưng có thể lây qua đường máu, đường mẹ sang con và đường tiếp xúc trực
tiếp với các thương tổn giang mai có loét. Bệnh diễn biến nhiều năm (10, 20, 30)
năm có khi cả đời, có lúc rầm rộ, có những thời kỳ ngấm ngầm không có triệu
chứng gì làm cho người bệnh lầm tưởng là đã khỏi và thể lây truyền cho thế hệ
sau.
Nếu không được điều trị bệnh có thể xâm nhập vào tới cả các phủ tạng đặc
biệt là da, tim mạch, thần kinh trung ương gây nhiều biến chứng rất nặng, có nhiều
hình thái lâm sàng khác nhau nên chẩn đoán cũng rất khó khăn.
Bệnh ảnh hưởng tới sức khoẻ bệnh nhân thậm chí gây tử vong hoặc tàn phế
suốt đời nếu không được điều trị kịp thời. Nó ảnh hưởng sâu sắc sức khoẻ và sự
phát triển nòi giống của dân tộc.
ở Châu Âu người ta cho rằng bệnh lan truyền do Christopho Colombo cùng
44 thuỷ thủ mang bệnh từ Haiti về Tây Ban Nha và sau do bệnh lan thành dịch ở
Châu Âu vào đầu thế kỷ 16.
ở Việt Nam bệnh xuất hiện thời kỳ nào cũng cha xác định rõ. Có thuyết cho
rằng bệnh có từ lúc lính của Gia Long viễn chinh sang Xiêm La (Thái Lan) mang
bệnh về (thế kỷ 18) vì vậy mới có tên là bệnh tiêm la.
Sự thực bệnh giang mai có từ đời thượng cổ vì trong tài liệu của Trung
Quốc, ấn Độ, Hy Lạp ngời ta đã mô tả những thương tổn ở xương nguười giống
hệt căn bệnh giang mai.
Gần đây người ta cho bệnh giang mai là một trong nhóm bệnh xoắn khuẩn
gây nên :
- Bệnh Pian (ghẻ cóc): nguyên nhân do T.Pertenu . Bệnh này gặp ở Tây
Nguyên- Việt Nam và vùng Trung Mỹ nh Mehico
- Bệnh Pinta ( tiếng Bồ Đào Nha Maldel Pinta có nghĩa là vẽ màu, vì bệnh


này để lại các vết màu xanh). Nguyên nhân gây bệnh do T.carateum. Bệnh này
gặp ở Nam Mỹ nh Braxin, Achentina
- Bệnh giang mai gây nên do T.Pallidum . Bệnh này gặp ơe tất cả các nước
trên thế giới.
2. Mầm bệnh:
Bệnh giang mai gây nên do xoắn khuẩn nhạt (Treponema pallidum) do
Schaudinn và Hoffmann phát hiện ra năm 1905. Đây là 1 loại xoắn khuẩn hình lò
xo có 6-10 vòng xoắn, đường kính ngang không quá 0,5µ, dài 6-15µ. Xoắn khuẩn
có thể có 3 loại di động:
- Di động theo trục dọc kiểu vặn đinh ốc.
- Di động qua lại như một quả lắc đồng hồ.
- Di động lợn sóng.
ở môi trường ẩm ớt cả 3 loại di động này có thể tồn tại và kéo dài đến 2
ngày .
Xoắn khuẩn giang mai là 1 loại vi khuẩn yếu, ra ngoài cơ thể nó không
sống quá được vài tiếng đồng hồ, nó chết nhanh chóng ở nơi khô, ở nơi ẩm ớt nó
sống dai dẳng hơn. ở trong nước đá và độ lạnh -20ºC nó vẫn di động được rất lâu.
ở 45ºC nó bị bất động và có thể sống được 30 phút.
Xà phòng có thể giết được xoắn khuẩn sau vài phút.
Xoắn khuẩn vào cơ thể qua chỗ da và niêm mạc bị xây xát thường là do
tiếp xúc trực tiếp do giao hợp,đường sinh dục,đường hậu môn hay đường miệng.
Từ đó xoắn khuẩn đi vào hạch và 1 vài giờ sau nó đi vào máu và lan truyền khắp
cơ thể.
3- Nguồn bệnh và đường lây:
Những năm gần đây bệnh giang mai đã tăng ở nhiều nước. Bệnh tăng rõ rệt
ở các nước nhiệt đới và các nước phát triển.
Hình thái lâm sàng có khác nhau tuỳ theo giống người. Thí dụ: ở người
da đen thường hay có biểu hiện viêm nhiều hạch trong giang mai sớm hoặc hay có
sẩn hình nhẫn, mụn mủ, viêm xương khớp, viêm mống mắt hoặc trong giang mai
muộn thì hay gặp biến chứng tim mạch. Ngược lại giang mai thần kinh, ( tabes)

liệt toàn thân lại rất hiếm gặp ở người da đen.
ở Việt Nam trước năm 1945 và trong thời kỳ Pháp tạm chiếm cho đến năm
1954, bệnh giang mai đứng hàng thứ 2 sau lậu. Phần nhiều bệnh nhân tự chữa
hoặc đến thầy thuốc t nhân nên số liệu không chính xác.
Từ 1956-1964 ở Miền Bắc giải phóng, đời sống ổn định, ở các nhóm có
nguy cơ cao được kiểm tra. Đã phát hiện trong những năm đầu là 1000-1500
ca/năm. Tỷ lệ so với dân số là 0,1/1000.
Số lượng giảm dần, cho đến 1963-1964 mỗi năm chỉ phát hiện khoảng 20
ca (tỷ lệ so với dân số lúc đó là 0,01/1000). Bệnh giang mai cũng nh các bệnh
LTQĐTD khác đã giảm 10 lần so với năm 1954.
Từ 1965-1975 là thời kỳ chiến tranh, trật tự và nếp sống bị đảo lộn, tâm lý
sinh hoạt không bình thường, y tế khó khăn, các bệnh hoa liễu tăng lên ở miền Bắc
và đặc biệt đến năm 1975 khi đất nước được thống nhất, số người bị mắc bệnh
giang mai đã lên tới 160.000 ca, tỷ lệ là 5/1000 (so với tổng số dân lúc đó là 45
triệu).
Số gái mãi dâm tăng, ở thành phố Hồ Chí Minh khoảng 30.000 ngời (64%
trong số này có thử nghiệm huyết thanh + ).
Tỷ lệ giang mai bẩm sinh: 1,25%.
Tỷ lệ sản phụ bị giang mai: 4,5%.
Từ 1975 đến 1990, mỗi năm ngành da liễu điều trị cho khoảng 10-20.000
bệnh nhân giang mai.
Số liệu này còn có thể nhiều hơn vì bệnh nhân tự chữa hoặc chữa t không
đến các cơ sở y tế của nhà nớc để có số liệu thống kê chính xác.
Theo điều tra của Bùi Kim Ân 1977. Tỷ lệ mắc bệnh giang mai trên gái
mãi dâm ở khu vực Hà Nội là 18,8% trên các đối tượng có hành vi nguy cơ cao
(nhân viên massage có tỷ lệ tương ứng là 1,8%). Tỷ lệ phản ứng huyết thanh giang
mai dơng tính là 1%, qua điều tra trên 1600 mẫu máu của các đối tượng đến khám
tại phòng khám chuyên khoa da liễu.
Nguồn bệnh: là người mắc bệnh giang mai kể cả giang mai kín, giang mai.
Giai đoạn 3: Ngoài ra không có nguồn nào khác nh từ động vật hoặc côn

trùng.
Đường lây truyền: là đường trực tiếp tiếp xúc giữa người bệnh và người
lành hoặc gián tiếp qua đồ vật. Ta có thể khái quát có 3 đường chính sau:
- Lây truyền qua đường tình dục.
- Lây truyền qua đường máu(tiêm truyền máu hoặc tiêm chích ma tuý mà
bơm tiêm không vô khuẩn).
- Truyền từ mẹ sang con (qua nhau thai từ tháng thứ 4 trở đi).

×