Bài giảng Hội chứng thận hư
(Kỳ 4)
TS. Hà Hoàng Kiệm (Bệnh học nội khoa HVQY)
2.2. Chẩn đoán:
Cho đến nay, hầu hết các tác giả đều thống nhất chẩn đoán xác định hội
chứng thận hư dựa vào các yếu tố sau:
+ Phù.
+ Lượng protein trong nước tiểu cao >3,5g/24giờ.
+ Nồng độ protein máu giảm thấp <60g/l; albumin máu giảm <30g/l.
+ Lipit máu tăng.
Trong các yếu tố trên thì 2 yếu tố có giá trị quyết định, đó là lượng
protein trong nước tiểu >3,5g/24giờ và nồng độ protein máu giảm thấp <60g/l,
albumin máu giảm <30g/l. Một số trường hợp ở giai đoạn sớm chỉ thấy lượng
protein trong nước tiểu cao >3,5g/24giờ, trong khi đó nồng độ protein máu
chưa giảm xuống <60g/l. Trường hợp này, các tác giả sử dụng thuật ngữ
“protein niệu trong dãy thận hư”.
2.3. Tiến triển và tiên lượng:
Tiến triển và tiên lượng của hội chứng thận hư liên quan đến thể tổn
thương giải phẫu bệnh:
+ Bệnh thận với tổn thương cầu thận tối thiểu (minimal change disease):
Biểu hiện lâm sàng là hội chứng thận hư. Khoảng 80% bệnh nhân là
người lớn đáp ứng với điều trị bằng uống prednisolon với liều 1mg/kg/ngày.
Trường hợp không đáp ứng với điều trị có thể do chẩn đoán nhầm, thường
nhầm với bệnh cầu thận xơ hoá ổ-đoạn ở giai đoạn đầu. Những bệnh nhân có
đáp ứng với prednisolon có thể giảm liều dần trong 4 tháng rồi ngừng, cần theo
dõi protein niệu trong giai đoạn giảm liều prednisolon. Trường hợp bệnh tái
phát thì dùng lại liều prednisolon ban đầu cũng có hiệu quả. Trường hợp hay
tái phát, hay không thể giảm prednisolon dưới mức liều cao thì có thể phối
hợp với cyclophosphamit (endoxan) với liều 2mg/kg/ngày trong 2 tháng
hoặc chlorambucil 0,2mg/kg/ngày uống trong 2-3tháng.
Bệnh nhân có hội chứng thận hư thay đổi tối thiểu ở người lớn, chỉ có
60% số bệnh nhân đáp ứng hoàn toàn với điều trị corticoit sau 8 tuần, hơn
80% không còn protein niệu sau 16 tuần điều trị và có 94% số bệnh nhân
protein niệu về âm tính sau thời gian điều trị dài hơn. Số bệnh nhân đáp ứng
chậm với điều trị được coi là kháng steroit và không nên điều trị thêm nữa.
+ Xơ hoá cầu thận ổ-đoạn (focal segmantal glomerulosclerosis):
Hội chứng thận hư thường đi kèm với tăng huyết áp và suy thận, bệnh
tiến triển dần dần đi đến suy thận mạn trong 5-10 năm sau khi được chẩn đoán.
Các phương pháp điều trị cho đến nay chưa hoàn toàn hữu hiệu đối với thể
bệnh này, tuy nhiên điều trị bằng prednisolon có thể hạn chế được protein niệu
và làm chậm tiến triển đến suy thận.
+ Bệnh cầu thận màng (membranous nephropathy):
Bệnh còn được gọi là viêm cầu thận lan toả (diffuse glomerrulonephritis)
biểu hiện lâm sàng là hội chứng thận hư. Bệnh có thể là nguyên phát hoặc liên
quan đến các bệnh hệ thống (luput ban đỏ, bệnh ác tính) hoặc do dùng thuốc
(penicillamin, muối vàng). Bệnh có những giai đoạn thuyên giảm tự nhiên
nhưng cũng có lúc trở nên nặng. Khoảng 20% số bệnh nhân này tiến triển đến
suy thận mạn giai đoạn cuối, số còn lại lui bệnh ở nhiều mức
độ khác nhau.
Chưa có cách điều trị tối ưu bệnh cầu thận màng. Điều trị hiện nay
vẫn là dùng prednisolon liều cao 1-1,5mg/kg/ngày trong ít nhất 2 tháng rồi
giảm liều dần, hoặc kết hợp thuốc độc tế bào (chlorambucin) với prednisolon.
Bệnh nhân bị bệnh cầu thận màng được điều trị bằng prednisolon trong 8
tuần là thích hợp; những trường hợp đáp ứng kém có thể cần điều trị 6
tháng với methyl-prednisolon và chlorambucin để bảo vệ chức năng thận trong
thời gian dài.
Biến chứng nghẽn tắc tĩnh mạch thận gặp với tỉ lệ cao trong thể bệnh này.
Khi có giảm mức lọc cầu thận đột ngột, cần nghĩ đến nghẽn tắc tĩnh mạch thận
và phải xác định chẩn đoán bằng siêu âm Doppler mạch hoặc cộng hưởng từ
hạt nhân, khi cần có thể chụp hệ tĩnh mạch.
+ Viêm cầu thận màng tăng sinh (mesangial proliferative
glomerulonephritis):
Ngoài hội chứng thận hư, bệnh còn có thể biểu hiện bằng viêm cầu thận
cấp, đái ra máu không có triệu chứng lâm sàng hoặc đái ra protein. Biểu hiện
lâm sàng trên kết hợp với bổ thể huyết thanh thấp đủ để cho phép chẩn đoán bệnh.
Viêm cầu thận màng tăng sinh tiến triển từ từ đến suy thận. Hiện nay, điều
trị thể bệnh này bao gồm prednisolon phối hợp với aspirin liều 325mg, uống
3 lần/ngày; cộng với dipyridamol 75mg, uống 3 lần/ngày, có thể làm chậm quá
trình tiến triển đến suy thận ở bệnh nhân viêm cầu thận màng tăng sinh típ 1
(lắng đọng phức hợp miễn dịch dưới nội mô).
2.4. Các biến chứng của hội chứng thận hư:
Biến chứng của hội chứng thận hư là hậu quả của các rối loạn sinh hoá
do mất nhiều protein qua nước tiểu. Có thể gặp các biến chứng sau:
+ Suy dinh dưỡng: thường gặp ở trẻ em và cả ở người lớn nếu không
cung cấp đủ protein để bù vào lượng protein bị mất qua nước tiểu.
+ Suy giảm chức năng thận do rối loạn nước và điện giải, giảm thể tích
máu do phù có thể dẫn đến suy thận chức năng.
+ Nhiễm khuẩn: nguy cơ nhiễm khuẩn tăng do giảm IgM, IgG, giảm bổ
thể trong huyết tương do mất qua nước tiểu. Có thể gặp viêm mô tế bào, zona,
nhiễm khuẩn tiết niệu, viêm phúc mạc tiên phát, nhiễm khuẩn huyết do phế cầu
và các loại vi khuẩn khác.
+ Giảm canxi máu: canxi máu giảm do giảm protein máu và do giảm hấp
thu canxi từ ruột có thể gây ra cơn tetani.
+ Nghẽn tắc mạch: có thể gặp viêm tắc tĩnh mạch, nhất là tĩnh mạch
thận. Biến chứng này đã được biết từ lâu, nhưng mãi cho tới gần đây, người ta
mới phát hiện tỉ lệ nghẽn tắc tĩnh mạch thận khá cao, từ 5-60% số bệnh nhân có
hội chứng thận hư (tuỳ theo tác giả). Triệu chứng của viêm tắc tĩnh mạch thận
thường kín đáo, phát hiện được thường dựa vào mức lọc cầu thận và chức năng
thận suy giảm đột ngột, siêu âm Doppler tĩnh mạch thận hoặc chụp tĩnh mạch
thận có cản quang thấy có cục nghẽn. ở nam giới, nếu nghẽn tắc tĩnh mạch thận
trái, có thể thấy giãn tĩnh mạch bìu.
Biến chứng nghẽn tắc mạch có thể do rối loạn đông máu ở bệnh nhân
có hội chứng thận hư gây nên. Rối loạn đông máu ở bệnh nhân có hội chứng
thận hư có đặc điểm là giảm anti thrombin III (ATIII) trong máu do bị tăng
đào thải qua nước tiểu, giảm nồng độ và/hoặc giảm hoạt tính của protein C, protein
S trong máu. Tăng fibrinogen máu do tăng tổng hợp ở gan. Giảm quá trình phân
giải fibribin và có lẽ còn có vai trò quan trọng của tăng α2 antiplasmin. Tăng
ngưng tập tiểu cầu.