Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.62 KB, 5 trang )
SUY THẬN MẠN TÍNH
(Kỳ 1)
I. ĐỊNH NGHĨA
1. Suy thận:
Suy thận mạn là giảm mức lọc cầu thận (MLCT) dưới mức bình thường.
Suy thận được gọi là mạn tính khi mức lọc cầu thận giảm thường xuyên, cố định,
có liên quan đến sự giảm số lượng nephron chức năng.
Suy thận mạn là một hội chứng lâm sàng và sinh hóa tiến triển mạn tính
qua nhiều năm tháng, hậu quả của sự xơ hóa các nephron chức năng gây giảm sút
từ từ mức lọc cầu thận dẫn đến tình trạng tăng nitơ phi protein máu như urê,
creatinin máu, acid uric
Đặc trưng của suy thận mạn là:
- Có tiền sử bệnh thận tiết niệu kéo dài.
- Mức lọc cầu thận giảm dần.
- Nitơ phi protein máu tăng dần.
- Kết thúc trong hội chứng urê máu cao.
2. Mức lọc cầu thận (MLCT):
Là lượng nước tiểu đầu trong 1 phút (glomerular filtration rate - GPR), là
chỉ số cần và đủ để đánh giá mức độ suy thận mạn.
Trong thực hành lâm sàng MLCT được đo bằng độ thải sạch creatinin
nội sinh (clearance creatinin). Bình thường MLCT trung bình bằng 120 ml/phút
hoặc 2 ml/giây. Creatinin máu trung bình là 1 mg/dl (0,8-1,2 mg/dl) tức là 88
µmol/l (70-130 µmol/l). Khi MLCT giảm xuống dưới 60 ml/phút, creatinin máu
tăng 1,5 mg/dl hoặc 130 µmol/l trở lên, suy thận rõ. Nitơ phi protein máu bao gồm
urê, creatinin, acid uric …, trong đó urê chiếm 80% và được coi là đại diện của
nhóm. Trong lâm sàng có thể sử dụng urê máu để đánh giá mức độ và tiên lượng
nặng nhẹ của suy thận. Để đánh giá tiên lượng và có biện pháp điều trị thích hợp
cho từng thời kỳ, các nhà thận học chia suy thận thành 4 giai đoạn hoặc 4 độ tương
ứng với sự giảm MLCT và tăng creatinin máu.
Giá trị ước đoàn dựa vào creatinin máu. Chỉ định điều trị và chế độ ăn