Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.95 KB, 5 trang )
SUY THẬN MẠN TÍNH
(Kỳ 2)
II. CHẨN ĐOÁN
Suy thận mạn được phát hiện qua khám định kỳ để theo dõi bệnh lý thận
tiết niệu mạn tính, hay khi tìm kiếm nguyên nhân thiếu máu, tăng huyết áp, tai
biến mạch não xảy ra.
1. Chẩn đoán xác định: Có hai bước:
1.1. Chẩn đoán có suy thận: Dựa vào sự suy giảm MLCT (hệ số thanh thải
creatinin nội sinh) và tăng creatinin máu > 110 µmol/l.
1.2. Chẩn đoán tính chất mạn tính: Dựa vào một số biểu hiện sau:
- Lâm sàng: Có tiền sử bệnh thận cũ, nay có da và niêm mạc nhợt, có xuất
huyết dưới da, có tăng huyết áp.
- Xét nghiệm: giảm calci máu rõ rệt, thiếu máu bình sắc, đôi khi triệu chứng
thiếu máu bị lu mờ (bệnh thận đa nang).
- X quang: giảm kích thước thận đều cả 2 thận. UIV rất nguy hiểm trong
trường hợp này, chỉ có ý nghĩa khi nghi ngờ có bệnh lý tiết niệu.
- Siêu âm: thấy giảm kích thước thận trong viêm cầu thận mạn hoặc nhu mô
thận mỏng, giãn đài bể thận trong ứ nước thận do sỏi.
Ở một số trường hợp khác thấy kích thước thận không giảm mà ngược lại
tăng lên (thận đa nang, bột thận, thận ứ nước, đái tháo đường và tắc tĩnh mạch
thận).
2. Chẩn đoán phân biệt: Cần phân biệt với đợt cấp của suy thận mạn.
3. Chẩn đoán nguyên nhân:
Sau khi chẩn đoán xác định suy thận mạn, cần chẩn đoán nguyên nhân.
Chẩn đoán nguyên nhân dựa vào hỏi kỹ tiền sử, tiến triển bệnh, soi đáy mắt, xét
nghiệm sinh hóa, huyết học, X quang, siêu âm tùy thuộc vào diễn biến lâm sàng.
Nhiều trường hợp chẩn đoán nguyên nhân rất dễ dàng vì bệnh lý điển hình, xét
nghiệm chính xác, thuyết phục như viêm cầu thận mạn tính, viêm ống kẽ thận mạn
tính, bệnh thận có nguồn gốc mạch máu, bệnh thận di truyền. Tuy nhiên có một số
trường hợp không tìm được nguyên nhân.