Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Ung thư các xoang mặt (Kỳ 6) doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.42 KB, 5 trang )

Ung thư các xoang mặt
(Kỳ 6)
1. 5. Ung thư xoang trán: Loại ung thư này hiếm gặp, thường
thứ phát từ xoang sàng thâm nhiễm lên, chủ yếu là người lớn và cả hai giới
đều mắc bệnh như nhau, về tổ chức học loại ung thư biểu mô chiếm khoảng
hơn 80%, còn sacoma thì rất hiếm.
2. 5.1. Triệu chứng lâm sàng: Ở giai đoạn đầu, các triệu chứng
giống như một viêm xoang trán mạn tính hoặc viêm xoang trán có mủ.
Phần lớn bệnh nhân khi đến khám thường ở giai đoạn muộn, nên các triệu
chứng rầm rộ hơn như đau đầu dữ dội, hoặc u đã phá vỡ thành trước xoang
trán làm cho vùng rễ mũi và vùng da ở góc trong lông mày bị đẩy phồng.
3. 5.2. Chẩn đoán: Dựa vào các triệu chứng khám lâm sàng,
bệnh tiến triển nhanh chóng, dễ phá vỡ các thành xương để thâm nhiễm vào
các vùng lân cận, trên phim X - quang thấy rõ các thành xương bị phá huỷ.
4. Chẩn đoán phân biệt:
5. - Ở giai đoạn đầu, cần phân biệt với một viêm xoang
mạn tính, với u xoang trán. Các bệnh này có lịch sử bệnh và tiến triển bệnh
lâu năm, các triệu chứng không rầm rộ, trên phim X- quang có hình ảnh mờ
đều không có hiện tượng phá huỷ xương.
6. - Ở giai đoạn rầm rộ cần phân biệt với u nhày xoang
trán, có tiền sử kéo dài hàng năm, có khi 8-10 năm, thể trạng toàn thân
không ảnh hưởng gì, khám lâm sàng và X- quang có các dấu hiệu đặc trưng
của u nhày (u mềm, ấn vào có cảm giác như vỏ quả bóng bàn, chọc dò bằng
kim to hút ra được dịch nhày, trên phim X- quang thành xương bị ăn mòn
chứ không bị phá huỷ nham nhở ).
7. 5.3. Điều trị và tiên lượng: Chủ yếu là phẫu thuật phối hợp
tia xạ, nhưng phần lớn bệnh nhân đến khám ở giai đoạn muộn nên khả năng
điều trị rất hạn chế và bệnh nhân thường chết do viêm màng não hoặc thâm
nhiễm vào não.
8. 6. Ung thư xoang bướm: Cũng rất hiếm gặp, thường là ung
thư biểu mô, rất ít sacoma.


9. 6.1. Triệu chứng: Ở giai đoạn đầu các triệu chứng rất kín đáo
và nghèo nàn, đến giai đoạn rõ rệt thì triệu chứng rất giống như một viêm
xoang bướm có mủ, nhưng diễn biến nhanh và nặng hơn, bệnh nhân đau
đầu liên tục và sau đó u lan rộng gây nên các triệu chứng nặng như: viêm
thị thần kinh dẫn đến mù, viêm màng não, viêm tắc tĩnh mạch xoang hang
và các hội chứng thần kinh khác. Ngoài ra thể trạng toàn thân suy sụp và th-
ường kèm theo bội nhiễm.
10. - Soi mũi sau hoặc qua ống soi vòi Eutasche
(salpingoscopie) có thể thấy rõ tổ chức sùi ở lỗ xoang bướm.
11. - Trên phim Hirtz và sọ nghiêng thấy được bóng mờ của
khối u và hiện tượng phá huỷ xương.
12. 6.2. Chẩn đoán: Trong thực tế bệnh nhân đến khám ở giai
đoạn muộn nên chẩn đoán không phức tạp lắm, nhất là bệnh cảnh ở giai
đoạn cuối, ung thư đã lan rộng ra các vùng lan cận.
13. 6.3. Điều trị: Cho đến nay phương pháp điều trị ung thư vùng
xoang bướm (nguyên phát hay thứ phát) còn gặp nhiều khó khăn và kết quả
rất hạn chế vì vị trí giải phẫu của khối u cũng như giai đoạn muộn của bệnh
nhân khi đến khám, phần lớn chết do biến chứng não.
14. 7. Các loại sacoma vùng xoang mặt: Các xoang mặt có
nhiều loại sacoma khác nhau, chẩn đoán hoàn toàn phải dựa vào kết quả
của tố chức học.Trên thực tế, loại sacoma này cũng hiếm gặp, theo thống kê
của nhiều tác giả thì rất khác nhau, chiếm tỷ lệ trong các ung thư xoang mặt
từ 7-15%. Thường gặp là sacoma xơ (fibrosarcomes), sacoma sụn
(chondrosarcomes), sacoma xương, sacoma cơ vân (rhabdomyosarcomes),
sacoma mạch (angiosarcome)
15. 7.1. Triệu chứng: Tuỳ theo vị trí thâm nhiễm của u mà các
triệu chứng lâm sàng khác nhau (như ung thư xoang sàng, ung thư xoang
hàm, xoang bướm, xoang trán, vùng hạ tầng cấu trúc ). Đặc biệt sacoma
khác với loại ung thư biểu mô là bệnh tiến triển rất nhanh, hay gặp ở trẻ em
và người già (trước 15 tuổi và sau 65 tuổi) nhưng cũng có thể gặp ở bất cứ

độ tuổi nào.
16. 7.2. Chẩn đoán: Chủ yếu là dựa vào các triệu chứng lâm sàng
nhất là các diễn biến bệnh nhanh chóng, dựa vào kết quả sinh thiết và phim
X- quang.
17. 7.3. Tiến triển bệnh: Nếu không được chẩn đoán và điều trị
kịp thời thì bệnh phát triển rất nhanh tại chỗ và sớm có di căn xa (hay gặp
là phổi và xương).
18. 7.4. Điều trị: Sacoma nói chung là nhạy cảm với tia xạ và hoá
chất vì vậy điều trị chủ yếu là phối hợp tia xạ với hoá chất. Phương pháp
phối hợp lệ thuộc vào giai đoạn bệnh cũng như sở trường của thày thuốc
lâm sàng, có thể tia trước hoặc điều trị hoá chất trước, hoặc phối hợp xen
kẽ hóa chất-tia xạ-hoá chất.
19. 7.5. Kết quả điều trị: Nói chung bệnh sẽ thuyên giảm rất
nhanh, kết quả trước mắt rất đáng khích lệ nhưng tỉ lệ tái phát tại chỗ hoặc
di căn cũng hay gặp, nhất là trong vòng 2 năm đầu sau khi điều trị vì vậy
bệnh nhân cần được theo dõi thường xuyên để kịp thời xử lí nếu bị tái phát.
Một số chủ trương dùng hoá liệu pháp định kỳ tiêm hoặc uống với liều lư-
ợng củng cố. Đây cũng là những ý kiến đang còn tranh luận.


×