Ung thư Amiđan khẩu cái
(Kỳ 2)
2.2. Chẩn đoán.
2.2.1. Chẩn đoán xác định.
Chủ yếu dựa vào kết quả vi thể, trong trường hợp sinh thiết gặp khó khăn
do loét hoại tử chảy máu của tổ chức Amiđan ta cũng có thể dựa vào kết quả của
sinh thiết hạch.
Khi chẩn đoán cũng cần đánh giá độ lan rộng của khối u vì vậy ngoài khám
trực tiếp ra ta cần sờ vào tổ chức Amiđan và vùng lân cận cũng như việc đánh giá
các hạch bị di căn.
Có thể nói có khoảng 20% người bệnh khi đến khám lần đầu chỉ vì nổi hạch
cổ và khoảng 75% bệnh nhân khi đến khám do ung thư Amiđan thì đã có hạch cổ
sờ thấy dễ dàng.
2.2.2. Chẩn đoán phân biệt: Nói chung vì người bệnh thường đến giai đoạn
muộn nên chẩn đoán không khó khăn lắm, trừ trường hợp ở giai đoạn sớm và nhất
là với các thể thâm nhiễm, không loét, thường phải phân biệt với các bệnh sau đây:
- Với một khối u loét thâm nhiễm: tuy nhiên ít gặp nhưng cần tránh
nhầm lẫn với một thể lao loét sùi nhưng thương tổn lao nói chung ít khi trú u ở
Amiđan và ít thâm nhiễm xuống phía sâu, thường hay gặp ở bệnh nhân bị lao phổi
đang tiến triển. Cần chú ý đến một giang mai (hoặc là một hạ cam Amiđan thể ăn
mòn hoặc một gôm loét giang mai thời kỳ 3). Chẩn đoán phân biệt ngoài kết quả
vi thể cần dựa vào phản ứng huyết thanh và các xét nghiệm về lao.
- Với thương tổn loét ở Amiđan: Hay gặp là viêm họng Vincent như-
ng bệnh này diễn biến cấp tính và có một số đặc điểm như loét không đều, đáy loét
bẩn có mủ máu hoặc lớp giả mạc bao phủ, bờ loét không rắn và thường kèm theo
có hạch viêm ở cổ diễn biến nhanh, chế độ nghỉ ngơi và vệ sinh vùng răng miệng
tốt. Nhưng cũng cần chú ý viêm họng Vincent phát triển trên một thương tổn ung
thư Amiđan ở những người lớn tuổi mà Le Maitre đã đề cập đến.
- Với trường hợp một Amiđan thể thâm nhiễm làm cho Amiđan to ra
cần chú ý phân biệt sự phát triển của bản thân tổ chức Amiđan và trường hợp
Amiđan bị khối u vùng lân cận đẩy lồi ra như khối u bên họng, u tuyến mang tai,
hạch cổ to đẩy lồi Amiđan hoặc do các u của vùng vòm, mặt sau màn hầu, ngã
ba họng thanh quản
Các u hỗn hợp và u trụ (cylindromes) của vùng màn hầu ở giai đoạn cuối có
thể bị loét và lan đến Amiđan, nhưng các tổ chức u này tiến triển chậm, quá trình
diễn biến tương đối dài hay bị tái phát nên dễ chẩn đoán. Trong thực tế, quan trọng
nhất trong chẩn đoán phân biệt là đánh giá chính xác về tổ chức học của thương
tổn. Việc đánh giá vị trí nguyên phát của u là ở Amiđan hay màn hầu trong giai
đoạn muộn rất khó và cũng không có ý nghĩa gì lớn đối với phác đồ điều trị. Riêng
những trường hợp bắt đầu biểu hiện bằng nổi hạch cổ thì cần chẩn đoán phân biệt
với các viêm hạch cổ mạn tính như: lao, ung thư máu, lympho ác tính, Hodgkin và
Non Hdogkin.
2.3. Tiến triển.
Nếu không được điều trị thì người bệnh chỉ kéo dài sự sống trong vòng 12-
16 tháng do khối u và hạch phát triển kèm theo bị viêm bội nhiễm gây chảy máu
và suy kiệt dần.
Khối u Amiđan to dần làm cho người bệnh không ăn uống được, đau đớn
và khít hàm càng làm cho bệnh trầm trọng thêm.
Khối hạch to dần chèn ép các thần kinh và thâm nhiễm và các mạch máu
lớn vùng cổ dẫn đến liệt thần kinh hoặc chảy máu ồ ạt.
Bội nhiễm, ăn sâu vào đường thở và di căn vào các cơ quan, tạng phủ là
giai đoạn cuối cùng dẫn đến tử vong.
Vì bệnh nhân đến ở giai đoạn muộn nên nếu có được điều trị thì tỉ lệ tái
phát cũng khá cao, ảnh hưởng xấu đến kết quả điều trị.
2.4. Điều trị: Những năm gần đây đối với ung thư Amiđan khẩu cái thì điều
trị chủ yếu bằng tia xạ kể cả hạch cổ, vì nói chung loại ung thư này đều nhạy cảm
với tia xạ. Phẫu thuật chỉ để giải quyết những trường hợp đã tia rồi nhưng u
Amiđan hoặc hạch còn sót lại. Ngoài ra, những trường hợp bị nghi ngờ ung thư
Amiđan nhưng đã sinh thiết nhiều lần vẫn âm tính thì phẫu thuật nhằm hai mục
đích: cắt rộng tổ chức Amiđan và gửi toàn bộ bệnh phẩm làm sinh thiết để tìm tổ
chức ung thư.
2.4.1. Phương pháp điều trị tia xạ với khối u Amiđan: Thường dùng tia
qua da (transcutane). Tuỳ theo các nguồn năng lượng khác nhau (coban xa
telecobalt), betatron (gia tốc thẳng accelerateur lineaire) và mục đích của việc điều
trị, thường tia vào khối u nguyên phát và cả vùng hạch cổ
Liều lượng tia: Đối với khối u thường tia từ 10Gy-12Gy/1 tuần (trung bình
mỗi ngày 2 Gy). Tổng liều khoảng 70-75Gy trong 7-8 tuần đối với u Amiđan và
hạch. Khi lượng tia đã đạt 45Gy thì thu hẹp diện tích tia trường ở phía sau để tránh
và bảo quản đoạn tuỷ sống ở đó không vượt quá 45Gy trong 4 tuần rưỡi. Đối với
hạch cổ dưới thi tia dự phòng khoảng 45 Gy tong 4 tuần rưỡi .
Phương pháp cắm kim phóng xạ: Có thể áp dụng đối với các u còn bé
hoặc u còn sót lại sau tia. Có thể dùng kim Radium hoặc Iridium 192, loại này có -
ưu điểm là mềm mại, liều lượng tính chính xác được sau khi kiểm tra, lượng tia
thường dùng 70-80 Gy trong 7- 8 ngày. Có thể cùng kết hợp với tia Co qua da
vàcó thể dùng một lượng tia cao ở vùng amiđan 80-90Gy.
2.4.2. Phương pháp phẫu thuật: Hiện nay nhiều tác giả chủ trương chỉ
định phẫu thuật trong trường hợp u còn sót lại sau tia hoặc tái phát sau tia mà
không còn khả năng tia nữa. Có nhiều phương pháp phẫu thuật bằng cách qua đư-
ờng miệng tự nhiên hoặc đi đường ngoài qua xương hàm. Khác với phẫu thuật cắt
Amiđan thông thường và vùng bóc tách dễ chạm đến tổ chức ung thư, do đó phải
cắt rộng còn gọi là cắt Amiđan ngoài vỏ bao (extra-capsulaire). Di chứng phẫu
thuật ít và tỉ lệ tử vong sau mổ cũng ít gặp.
2.4.3. Điều trị bằng hoá chất: Những năm gần đây một số tác giả đã tiến
hành điều trị bằng hoá chất có kết hợp với tia phóng xạ hoặc phẫu thuật. Có nhiều
ý kiến khác nhau về phương pháp phối hợp và các hoá chất, ở Việt Nam vấn đề
này chưa được sử dụng nên khó có kết luận và đánh giá. Các loại hoá chất thường
dùng là Bleomycine, Methotrexate, 5FU có thể dùng trước, sau tia và xen kẽ là
tuỳ chỉ định của thầy thuốc trên bệnh nhân cụ thể.
2.4.4. Điều trị đối với hạch cổ di căn:
- Chủ yếu là tia qua da đồng thời với u Amiđan, còn cắm kim Ir192
chỉ dùng đối với hạch tái phát sau tia. Điều trị bằng phẫu thuật trong trường hợp
khối hạch còn bé, di động và thờng tiến hành là nạo vét hạch cổ toàn bộ bao gồm
cắt bỏ các nhóm hạch dưới cằm hàm, tĩnh mạch cảnh trong, các dãy hạch máng
cảnh, dãy cột sống và cổ ngang. Nếu hạch cổ cả 2 bên thì tiến hành 2 thì cách nhau
15-20 ngày nhưng một bên phải giữ lại tĩnh mạch cảnh trong.
- Nạo vét hạch cổ có thể tiến hành trong 2 điều kiện khác nhau, hoặc
trên một bệnh nhân đã có hạch sờ được (thì cần thiết phải nạo vét) hoặc trên một
bệnh nhân chưa sờ thấy hạch (thì nạo vét theo nguyên tắc). Trong trường hợp này
ta thường nạo vét hạch bảo tồn tức là cắt bỏ hạch và tổ chức liên kết vùng cổ
nhưng giữ lại cơ ức đòn chũm, tĩnh mạch cảnh trong và dây thần kinh cột sống
(spinat). Còn cắt bỏ hạch đơn thuần chỉ tiến hành trong một số trường hợp hạch
còn sót lại hoặc hạch tái phát sau tia phóng xạ.