Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Nhìn lại tư tưởng Keynes doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.98 KB, 7 trang )

Nhìn lại tư tưởng Keynes
Vào thập niên 1930, nhà kinh tế học người Anh John Maynard
Keynes đã mở đầu cuộc cách mạng về tư duy kinh tế bằng nhận
định: Thị trường tự do không hoàn hảo. Và chính bởi sự không
hoàn hảo này mà vai trò của nhà nước là phải can thiệp và khắc
phục theo một cách nào đó.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua đã làm sống lại tư
tưởng Keynes - đặc biệt là quan niệm cho rằng chính phủ nên chi
tiêu mạnh tay nhằm thoát khỏi khủng hoảng. Nhưng trước cuộc
khủng hoảng nợ tồi tệ đang diễn ra ở châu Âu, đã đến lúc chúng
ta cần hiểu tư tưởng Keynes đã sai chỗ nào? Hay liệu lãnh đạo
các nước châu Âu đã hiểu sai lời dạy của ông? Và khi hệ thống
tài chính toàn cầu ngày càng phức hợp như hiện nay, liệu tư
tưởng của Keynes đã lỗi thời?
Các lãnh đạo kinh tế cũng đang đặt lại vấn đề - thậm chí trong
một số trường hợp còn tỏ ra hoài nghi - về triết lý của Keynes vốn
cho rằng trong bối cảnh kinh tế suy thoái, chi tiêu càng nhiều thì
càng tốt.
Trong một cuộc họp diễn ra ở Hàn Quốc hồi đầu thán trước,
nhóm 20 bộ trưởng tài chính và thống đốc ngân hàng trung ương
nhận thức rõ tình trạng đáng báo động của hệ thống tài chính
công ở một số quốc gia và quyết định không thể tiếp tục duy trì
chính sách kích thích tài chính cho đến khi kinh tế phục hồi. Đây
là một bước ngoặc thực sự khi mà mới hai tháng trước thôi, các
nhà lãnh đạo G20 còn ủng hộ việc duy trì chính sách tài khóa mở
rộng cho đến khi các nền kinh tế khởi sắc hơn.
Những chính phủ lạm phát
Tuy nhiên, chi tiêu công quá đà là một giải pháp không bền vững
khi hệ thống tài chính của nhiều nước châu Âu như Bồ Đào Nha,
Ý, Ai-len, Hy Lạp, Tây Ban Nha - và nhiều khả năng có thêm
Hungary - đang lung lay. Dù châu Âu vừa đưa ra gói cứu trợ gần


1 nghìn tỷ USD để cứu Hy Lạp nhưng các nhà đầu tư trên toàn
thế giới có quyền lo lắng không biết khu vực này có vượt qua
cuộc khủng hoảng nợ và tránh được kết cục phá sản hay không.
Không phải chỉ có châu Âu mới hoảng sợ khi nhìn vào hệ thống
tài chính công của mình. Theo số liệu công bố hồi đầu tháng, các
khoản chi tiêu công ồ ạt của chính phủ Mỹ đã đẩy số nợ mà nước
này phải gánh lên đến 13 nghìn tỷ USD, tức khoảng 90% GDP.
Dù đã chi 787 tỷ USD nhằm kích thích kinh tế nhưng tỷ lệ thất
nghiệp ở Mỹ vẫn loay hoay quanh mức 10%.
Chính những điều này đã nêu bật hạn chế của một trong những
quan điểm cốt lõi của Keynes - chi tiêu của chính phủ nhằm kích
thích kinh tế sẽ mang lại hiệu quả. Nhưng như chúng ta đã thấy,
không phải lúc nào một chính phủ chi tiêu nhiều hơn cũng thu
được nhiều thuế hơn cho ngân sách.
"Bạn không thể giải quyết vấn đề chỉ bằng cách chi tiêu nhiều
hơn và ôm lấy các khoản nợ xấu", dẫn lời Hunter Lewis, tác giả
quyển sách Where Keynes Went Wrong: And Why World
Governments Keep Creating Inflation, Bubbles, and Busts (tạm
dịch: Sai lầm của Keynes: Và vì sao chính phủ các nước lại tiếp
tục sinh ra lạm phát, bong bóng và vỡ nợ).
Từ lâu, Keynes là nguồn gốc gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế
học và nhiều học giả khác. Trường phái kinh tế học Keynes được
xem là hình mẫu từ thời Đại Suy Thoái, Đệ Nhị Thế Chiến và
trong suốt quá trình mở rộng kinh tế thời hậu chiến. Ảnh hưởng
của trường phái này suy giảm phần nào trong thập niên 1970, khi
tỷ lệ lạm phát lẫn thất nghiệp ở mức cao ngất ngưỡng. Tuy nhiên,
sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007, nhiều nhà lãnh đạo
trên thế giới vẫn xem trường phái kinh tế Keynes là nền tảng cho
các chương trình kích thích kinh tế của mình.
Chi tiêu để kích thích việc làm

Giáo sư kinh tế chính trị Allan Meltzer của Đại học Carnegie
Mellon cho rằng học thuyết của kinh tế gia đáng kính, Keynes,
thường bị hiểu sai. Đơn cử một trường hợp, Keynes không phải
là người hô hào cổ xúy hình thức nợ cấu trúc dài hạn. Ông cho
rằng chỉ nên duy trì nợ chính phủ trong ngắn hạn và xem nó như
một phương pháp kích thích kinh tế. Hơn nữa, hiện nay nhiều
chính phủ đã mắc sai lầm trong việc áp dụng học thuyết kinh tế
Keynes khi tập trung chi tiêu cho tiêu dùng thay vì đầu tư, hoạt
động có thể khuyến khích tăng trưởng việc làm ổn định.
Phân tích trường hợp của châu Âu. Từ thập niên 1980, khu vực
này tăng trưởng chậm hơn Mỹ. Tỷ lệ thất nghiệp ở Châu Âu dao
động từ 8% đến 10% trong khi con số này ở Mỹ vào khoảng 4%.
Trong bài trả lời phỏng vấn với tạp chí Fortune vào tháng Hai về
việc chính phủ Obama đã hiểu sai Keynes như thế nào, Meltzer
nhận xét: "Họ không tạo ra nhiều việc làm - vì sao ư? Vì họ không
chi tiêu đúng chỗ". Ngoài chức năng kích thích tiêu dùng, các
khoản chi tiêu công ở châu Âu còn được ưu tiên cho giáo dục,
chăm sóc sức khỏe và các hoạt động khác hữu ích hơn.
Không thể phủ nhận tài năng của Keynes và ông luôn được xem
là một huyền thoại. Với nhiều nhà kinh tế và hoạch định chính
sách đáng kính, những triết lý ông đưa ra về cách thức vận hành
của nền kinh tế là hoàn toàn chuẩn xác. Nhưng xét trên nhiều
phương diện, khi tính phức hợp của hệ thống tài chính toàn cầu
ngày càng gia tăng, liệu những lời giải mà Keynes đưa ra cách
nay nhiều thập kỷ có còn đúng nữa hay không là điều đáng để
chúng ta suy ngẫm.
Tác động từ kỳ vọng của con người về tương lai, kể cả quy mô
nợ, có ảnh hưởng ngày càng to lớn đối với thị trường, là điều mà
Keynes chưa tính đến. Và khi thị trường trở nên phức hợp hơn
thì người ta càng khó dự đoán nó hơn.

"Keynes quá thông thái và ông không thể mắc sai lầm được - vấn
đề nằm ở chỗ chúng ta đang sống trong một môi trường khác",
dẫn lời nhận xét của Nassim Taleb, tác giả quyển The Black
Swan (Thiên Nga đen), quyển sách bàn về những tác động của
các biến cố tưởng chừng như không thể xảy ra. Taleb nhấn mạnh
rằng với tỷ lệ nợ cao và nguy hiểm như ở nhiều nước châu Âu và
Mỹ, việc dự báo chính xác dựa vào các công cụ như tỷ lệ thất
nghiệp sẽ có ý nghĩa quyết định hơn bao giờ hết.
Nhưng các dự báo thường sai, và chính vì thế, khó có thể tiếp tục
theo đuổi trường phái kinh tế học Keynes trong nền kinh tế hiện
đại ngày nay.

×