Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Báo cáo thực địa vườn quốc gia Ba Bể pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 30 trang )

Báo cáo thực địa vườn
quốc gia Ba Bể
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………… ……………2
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN CHUNG 3
1. 1. Lịch sử hình thành……………………………………………………………… 4
1.2. Điều kiện tự nhiên…………………………………………………………………4
1.2.1 Vị trí địa lý……………………………………………………………………….4
1.2.2. Địa hình………………………………………………………………………….5
1.2.3. Khí hậu………………………………………………………………………….5
1.2.4. Thủy văn…………………………………………………………………………6
1.3. Tình hình kinh tế- xã hội………………………………………………………… 6
1.4. Giới thiệu chung về các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình hình thành đất………… 7
1.4.1. Khái niệm về đất……………………………………………………………… 7
1.4.2. Quá trình phong hóa đá…………………………………………………………8
1.4.3. Quá trình hình thành đất……………………………………………………… 9
1.4.4. Các yếu tố hình thành đất…………………………………………………… 10
CHƯƠNG 2. PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU………………….11
2.1. Phạm vi nghiên cứu………………………………………………………………11
2.2. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………………………11
2.2.1. Phương pháp khảo sát thực địa…………………………………………………11
2.2.2. Phương pháp thu thập tài liệu………………………………………………… 11
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN …………………….12
3.1. Các hoạt động địa chất VQG Ba Bể…………………………………………… 12
3.1.1. Đặc điểm địa chất khu vực…………………………………………………… 12
3.1.2. Các hoạt động địa chất của VQG Ba Bể……………………………………….15
3.1.2.1. Quá trình nội sinh…………………………………………………………….15
3.1.2.2. Quá trình ngoại sinh………………………………………………………….17
3.1.2.2.1. Quá trình Phong hóa………………………………………………………. 17
3.1.2.2.2. Hoạt động trọng lực……………………………………………………… 17


3.1.2.2.3. Hoạt động của dòng chảy……………………………………………… …17
3.1.2.3. Qúa trình Kast……………………………………………………………… 18
3.1.2.3.1. Quá trình hình thành đá vôi ở Ba Bể ………………………………
……18
2
3.1.2.3.2. Các dạng địa hình cảnh quan Karst……………………………………… 19
3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành đất VQG Ba …………… 20
3.2.1. Ảnh hưởng của đá mẹ đến sự hình thành đất VQG Ba Bể…………………… 20
3.2.2. Ảnh hưởng của địa hình đến sự hình thành đất VQG Ba Bể…………………. 21
3.2.3. Ảnh hưởng của khí hậu đến sự hình thành đất VQG Ba Bể……………………
22
3.2.4. Ảnh hưởng của sinh vật đến sự hình thành đất VQG Ba Bể………………… 23
3.2.5. Ảnh hưởng của thời gian đến sự hình thành đất VQG Ba Bể …………………24
3.2.6. Ảnh hưởng của con người đến sự hình thành đất VQG Ba Bể …… …………25
KẾT LUẬN………………………………………………………………………… 28
TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………………29
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT:
VQG : Vườn quốc gia.
TB-ĐN: Tây Bắc-Đông Nam.
ĐB-TN: Đông Bắc- Tây Nam.
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1: Bản đồ hành chính tỉnh Bắc Cạn.
Hình 3.1: Động Puông
Hình 3.2 : đảo Bà Góa.
Hình 3.3: sơ đồ phân bố các diện đá vôi chủ yếu ở Việt Nam
Hình 3.4: Karren.
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1. Các kỳ quan địa chất trong VQG Ba Bể.
Bảng 3.2. Các loại đất chính VQG Ba Bể.
3

MỞ ĐẦU
VQG Ba Bể là một di sản thiên nhiên quý giá và đẹp. đó là một phức hệ hồ,
sông, núi đa vôi từ dốc vừa đến dốc đứng, xen giữa núi đá vôi có nhiều núi đất tạo nên
cảnh quan đa dạng và phong phú.
Đến với Bắc Kạn chúng ta không khỏi ngỡ ngàng trước cảnh thiên nhiên tuyệt mỹ này,
nổi bật lên là Hồ Ba Bể nằm trong hệ tự nhiên của VQG Ba Bể, đã từng được người
xưa gọi là ”Thiên hạ đệ nhất hồ”. Bao bọc quanh hồ là các vách đá vôi dựng đứng,
nhiều cánh rừng nguyên sinh và những dòng sông, suối chảy ngầm. sự kết hợp hài hòa
giữa “Non” và “Nước” đã tạo ra khung cảnh hữu tình cho VQG Ba Bể, là cơ sở cho
phát triển hoạt động du lịch sinh thái.
Trọng tâm du lịch của VQG Ba Bể là hồ cacxtơ Ba Bể được mạnh danh như
“Biển ở trên núi”. Nằm ở độ cao 150m so với mực nước biển nhưng ở đây Ba Bể bốn
mùa nước đầy. Hồ có cấu tạo khá đặc biệt, thắt ở giữa và phình ra ở hai đầu. Ba Bể
gồm 3 hồ lớn thông nhau là: Pé Lèng, Pé Lù, Pé Lầm, từ đó mà thành tên. Hồ nhận
nước từ hai nguồn chính là sông Tà Han và sông Chợ Lèng. Hồ còn có chức năng phân
lũ cho sông Năng, như một hồ chứa của sông Năng: về mùa khô nước từ hồ đổ ra sông
Năng nhưng về mùa mưa khi có lũ lớn thì nước sông Năng lại chảy vào hồ. Chính vì
có sự thông với các dòng sông mà nước hồ Ba Bể luôn luôn vận động khiến cho nước
hồ rất sạch và trong xanh.
Không chỉ vậy, đi thuyền dọc quanh hồ còn có rất nhiều cảnh quan kì thú như
động Puông, Ao Tiên…
Để hiểu được sự hình thành các cảnh quan đó, qua chuyến đi thực địa với sự giúp
đỡ của các thày cô giáo, nhóm em đã thực hiện bài báo cáo tìm hiểu về:”Các hoạt động
địa chất của VQG Ba Bể. các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành đất VQG Ba
Bể”.
4
CHƯƠNG I. TỔNG QUAN CHUNG
1. 1. Lịch sử hình thành
Ngày 10/01/1977, Khu rừng cấm Ba Bể được thành lập.
Ngày13/03/1977, Ba Bể được công nhận là danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử.

Ngày 10/11/1992, VQG Ba Bể chính thức được thành lập.
Tháng 3/1995, đươc hội nghị quốc tế về hồ nước ngọt tại Mỹ xếp vào danh sách 20
hồ nước ngọt tự nhiên đẹp nhất thế giới cần được bảo vệ và phát triển.
Cuối năm 2004, VQG Ba Bể được công nhận là di sản Asean, đặc biệt trong đó có
hồ Ba Bể - một trong những hồ nước ngọt tự nhiên lớn nhất Việt Nam, đã được công
nhận là di tích lịch sử văn hóa quốc gia năm 1996.
1.2. Điều kiện tự nhiên
1.2.1 Vị trí địa lý
VQG Ba Bể cách Hà Nội 250m về
phía bắc Việt Nam, thuộc địa bàn huyện
Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn, bao gồm diện tích
đất xã Nam Mẫu, một phần xã Khang
Ninh, một phần xã Cao Thượng, một
phần xã Cao Trĩ.
Phía Bắc giáp xã Cao Thượng
Phía Đông giáp xã Khang Linh, Cao Trí.
Phía Nam giáp xã Quảng Khê.
Hình 1.1: Bản đồ hành chính tỉnh Bắc Cạn.
Phía Tây giáp xã Nam cường, Xuân lạc (huyện chợ Đồn- bắc Cạn), xã Đà Vĩ (huyện
Na Hang- Tuyên Quang).
Tổng diện tích tự nhiên 7.610 ha, trong đó:
Khu bảo vệ nghiêm ngặt: 3226,2 ha
5
Khu phục hồi sinh thái: 4083,6 ha
Khu hành chính, dịch vụ: 300,2 ha
Vùng đệm: 42100 ha
1.2.2. Địa hình
VQG Ba Bể là một phức hệ hồ, sông, suối, núi đá vôi từ dốc vừa đến dốc đứng,
xen giữa núi đá vôi có nhiều núi đất tạo nên một cảnh quan đa dạng và phong phú. Độ
cao từ 150-1098m so với mực nước biển.

Toàn bộ khu vực VQG Ba Bể là núi đá vôi hiểm trở, một phần nhỏ là các thung lũng
núi đất xen kẽ nhỏ và hẹp.
VQG Ba Bể nằm trên độ cao từ khoảng 150 đến 1089m so với mặt nước biển. Về
cấu trúc địa chất, chiếm ưu thế là đá vôi với nhiều đỉnh cao lởm chởm, độ phân cắt
lớn, nhiều sườn đồi dốc bao quanh các thung lũng, sông suối. Địa hình núi đá vôi có
nhiều hang động, lớn nhất là động Puông dài 300m, có sông Năng chảy qua, tạo nên
cảnh quan thiên nhiên đầy vẻ ngoạn mục .
VQG Ba Bể có diện tích là 7610ha,trong đó diện tích rừng chiếm 85%, gồm 3
phân khu chức năng, với các hệ sinh thái và cảnh quan thiên nhiên rất đa dang. Trung
tâm vườn là Hồ Ba Bể, mặt hồ rộng gần 500ha, chiều dài 8km, nằm trên độ cao 150m
và có độ sâu 35m. Nối với hồ là hệ thống sông suối bao quanh cùng các khu rừng
thường xanh phủ kín hệ núi đá vôi trùng điệp, tạo nên nét đẹp kỳ vĩ cho khung cảnh
thiên nhiên trong vùng.
1.2.3. Khí hậu
VQG Ba Bể nằm trong tiểu vùng khí hậu vùng Đông Bắc Việt Nam, được che
chắn bao bọc bởi các dãy núi cao Phja Bjoóc và Phja Dạ.
Cùng với sự che chắn của các dãy núi cao và sự bốc hơi nước diễn ra quanh năm đã
khiến cho khí hậu của VQG Ba Bể luôn mát mẻ và ấm. Đặc trưng khí hậu của vùng là
nhiệt đới ẩm gió mùa, nó có sự phân hóa khí hậu so với vùng khác là do có sự phân dị
mạnh mẽ về mặt địa hình hướng núi. Một năm ở vùng có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa từ
tháng 6 – tháng 10 và mùa khô từ tháng 11 – tháng 1.
Lượng mưa trung bình năm của khu vưc: 1378 mm.
Độ ẩm trung bình năm: 83,3%
6
Nhiệt độ trung bình năm: 22
0
C.
Nhiệt độ cao nhất là 39
0
C. Nhưng vào các tháng mùa đông nhiệt độ ở đây rất

thấp có thể xuống tới 6
0
C, đặc biệt có thời điểm -0,6
0
C.
1.2.4. Thủy văn
VQG Ba Bể có nguồn tài nguyên nước khá dồi dào, với ảnh hưởng của 3 dòng
chảy thường xuyên vào hồ Ba bể là sông chợ Leng ở phía Tây Nam, suối Pó Lù, Tả
Han từ phía Tây, chảy ngầm trong núi đá vôi, đổ ra cửa động Nả Phòng và chảy vào
hồ Ba Bể. Nước hồ chảy ra sông năng, con sông có nguồn gốc từ dãy Phia Bioc, chảy
qua động Puông, thác Đầu Đẳng và đổ vào sông Gâm (ở Na Hang- Tuyên Quang).
Hồ Ba Bể là hồ nước ngọt tự nhiên có diện tích 500ha, tốc độ dòng chảy là 0,5m/s.
nước hồ trong xanh quanh năm. Hồ có chức năng phân lũ cho sông Năng, sông Gâm.
Về mùa lũ, mực nước có thể dao đọng lên xuống từ 2,5-3m so với mức bình thường.
hồ có độ sâu trung bình từ 20-25m, nơi sâu nhất là 35m, nơi nông nhất từ 5-10m. Đáy
hồ không bằng phẳng mà có nhiều núi ngầm hang động.
1.3. Tình hình kinh tế- xã hội
VQG Ba Bể có rất đông dân cư sinh sống tại 10 thôn bản với khoảng 3.000 người
thuộc các dân tộc Tày, Dao Mông và Kinh, trong đó khoảng 58% là người Tày. Hàng
nghìn năm qua, cư dân người Tày đã định cư tại nơi này và trở thành tộc người chiếm
đa số ở Ba Bể. Người Nùng, người Dao đến cư ngụ khoảng 100 năm về trước (chiếm
28% tổng số dân). Trong khi đó người Kinh và người Mông chỉ mới di cư đến. Do tập
quán canh tác, thói quen sống dựa vào rừng nên người dân ở đây vẫn còn lén lút vào
rừng khai thác gỗ, săn bắt động vật rừng, lấn chiếm đất rừng để làm nương rẫy, đánh
bắt cá bằng công cụ có tính hủy diệt như băng thuốc nổ, chất độc, xung điện, đánh bắt
cá trong mùa sinh sản, xả dầu máy trong mùa sinh sản, xả dầu máy trực tiếp xuống
hồ…làm giảm tính đa dạng sinh học của vườn.
Hiện nay chỉ có một con đường liên xã từ chợ Rã đến trung tâm VQG Ba Bể
được rải nhựa. Trên địa bàn hai xã Khanh Linh, Nam Mẫu, hệ thống giao thông chủ
yếu bằng đường bộ và đường thủy.

Giao thông, đường ô tô chính ( đường 258) đi từ huyện lỵ vào xuyên qua trung
tâm Vườn.Hệ thống đường thủy tập trung quanh khu vực hồ, phương tiện chủ yếu là
thuyền độc mộc và xuồng máy. Hệ thống đường bộ liên thôn thường là các đường
7
mòn, đường đất do người dân tự làm. Đặc biệt là các xã vùng cao, đường đi lại khó
khăn hơn, hầu hết là đường mòn qua núi, đồi hoặc băng rừng, lội suối.
Tình trạng mù chữ vẫn còn tồn tại ở khá nhiều bản, nhất là những thôn vùng
cao,vùng xa. Kết quả điều tra tháng 8/2000 về trình độ học vấn tại các hộ gia đình: còn
11,8% không đi học, số người có trình độ cấp 3 chỉ có 4,4% còn trình độ cao đẳng
không đáng kể 0,1%.
Do chia cắt địa hình phức tạp, ngôn ngữ giao tiếp lại chủ yếu bằng tiếng dân tộc
nên sự giao lưu về mọi mặt giữa các bản làng bị hạn chể. Họ ít có điều hiện để tiếp xúc
với khoa học kỹ thuật, với các hoạt động văn hóa tinh thần như phim, múa hát …
mang tính chất cộng đồng. Do đó trình độ dân trí còn thấp.
1.4. Giới thiệu chung về các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình hình thành đất.
1.4.1. Khái niệm về đất.
Theo Docutraiep (1879) : “Đất là một vật thể thiên nhiên cấu tạo độc lập, lâu
đời do kết quả của quá trình hoạt động tổng hợp của 5 yếu tố hình thành đất gồm: đá,
thực vật, động vật, khí hậu, địa hình và thời gian”.
Đất được hình thành và tiến hóa chậm hành thế kỉ do sự phong hóa đá và sự phân hủy
xác thực vật dưới ảnh hưởng của của các yếu tố môt trường. Một số đất được hình
thành do bồi lắng phù sa sông biển hay do gió. Đất có bản chất khác cơ bản với đá là
có độ phì nhiêu, tạo sản phảm cây trồng.
Đất có cấu trúc hình thái rất đặc trưng, xem xét một phẫu diện đất có thể thấy sự
phân tầng cấu trúc từ trên xuống dưới như sau:
• Tầng thảm mục và rễ cỏ được phân huỷ ở mức độ khác nhau.
• Tầng mùn thường có mầu thẫm hơn, tập trung các chất hữu cơ và dinh dưỡng
của đất.
• Tầng rửa trôi do một phần vật chất bị rửa trôi xuống tầng dưới.
• Tầng tích tụ chứa các chất hoà tan và hạt sét bị rửa trôi từ tầng trên.

• Tầng đá mẹ bị biến đổi ít nhiều nhưng vẫn giữ được cấu tạo của đá.
• Tầng đá gốc chưa bị phong hoá hoặc biến đổi.
Thành phần khoáng của đất bao gồm ba loại chính là khoáng vô cơ, khoáng hữu
cơ và chất hữu cơ. Khoáng vô cơ là các mảnh khoáng vật hoặc đá vỡ vụn đã và đang
bị phân huỷ thành các khoáng vật thứ sinh. Chất hữu cơ là xác chết của động thực vật
đã và đang bị phân huỷ bởi quần thể vi sinh vật trong đất. Khoáng hữu cơ chủ yếu là
8
muối humat do chất hữu cơ sau khi phân huỷ tạo thành. Ngoài các loại trên, nước,
không khí, các sinh vật và keo sét tác động tương hỗ với nhau tạo thành một hệ thống
tương tác các vòng tuần hoàn của các nguyên tố dinh dưỡng nitơ, phôtpho,
Các nguyên tố hoá học trong đất tồn tại dưới dạng hợp chất vô cơ, hữu cơ có
hàm lượng biến động và phụ thuộc vào quá trình hình thành đất. Thành phần hoá học
của đất và đá mẹ ở giai đoạn đầu của quá trình hình thành đất có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Về sau, thành phần hoá học của đất phụ thuộc nhiều vào sự phát triển của đất,
các quá trình hoá, lý, sinh học trong đất và tác động của con người.
Sự hình thành đất là một quá trình lâu dài và phức tạp, có thể chia các quá trình
hình thành đất thành ba nhóm: Quá trình phong hoá, quá trình tích luỹ và biến đổi chất
hữu cơ trong đất, quá trình di chuyển khoáng chất và vật liệu hữu cơ trong đất. Tham
gia vào sự hình thành đất có các yếu tố: Đá gốc, sinh vật, chế độ khí hậu, địa hình, thời
gian. Các yếu tố trên tương tác phức tạp với nhau tạo nên sự đa dạng của các loại đất
trên bề mặt thạch quyển. Bên cạnh quá trình hình thành đất, địa hình bề mặt trái đất
còn chịu sự tác động phức tạp của nhiều hiện tượng tự nhiên khác như động đất, núi
lửa, nâng cao và sụt lún bề mặt, tác động của nước mưa, dòng chảy, sóng biển, gió,
băng hà và hoạt động của con người.
1.4.2. Quá trình phong hóa đá.
Dưới tác động của những nhân tố bên ngoài như nhiệt độ, nước, hoạt động của vi
sinh vật… mà trạng thái vật lý, hóa học của đá và khoáng chất trên bề mặt bị thay đổi.
Quá trình này gọi là quá trình phong hóa đá.
Kết quả của quả trình phong hóa đá là đá và khoáng chất bị phá vỡ thành những
mảnh vụn, hòa tan, di chuyển làm cho trạng thái tồn tại và thành phần hóa học bị thay

đổi. Kết quả tạo ra những vật thể xốp vụn.
• Phân loại:
- Phong hóa lý học (cơ học)
- Phong hóa hóa học.
- Phong hóa sinh học.

9
1.4.3. Quá trình hình thành đất.
Sự phát sinh và phát triển của đất là quá trình thống nhất giữa các mặt đối lập. Đó là
quá trình biện chứng.
Các mặt đối lập đó tác động tương hỗ lẫn nhau được thể hiện về mặt sinh học, hóa
học, lý – hóa học như:
- Sự tổng hợp chất hữu cơ và phân giải chúng.
- Sự tập chung tích lũy chất hưu cơ , vô cơ và sự rửa trôi chúng.
- Sự phân hủy khoáng chất và sự tổng hợp nên khoáng chất và hợp chất hóa học
mới.
- Sự xâm nhập của nước vào đất và sự mất nước từ đất.
- Sự hấp thụ năng lượng mặt trời từ đất làm cho đất nóng lên và sự mất năng
lượng từ đất làm cho đất lạnh đi.
Trong đất còn có những mâu thuẫn khác như:
- Từ khi sự sống xuất hiện trên trái đất thì quá trình phong hóa xảy ra đồng thời
với quá trình hình thành đất.
Ngoài ra còn có những mâu thuẫn khác như quá trình oxy hóa và quá trình khử, sự hòa
tan và sự kết tủa, sự hấp phụ và phản hấp phụ… Có rất nhiều quá trình sảy ra trong sự
tạo thành đất. Tổng quát có thể là quá trình đất, quá trình mất khỏi đất, quá trình di
chuyển vật chất trong lớp đất và quá trình chuyển hóa sảy ra trong lớp đất.
Đất được hình thành không ngừng phát triển, gắn liền với sự tiến hóa của sinh
giới. Trong đó những sinh vật đơn giản ( tảo, vi khuẩn) đi tiên phong trong quá trình
tạo thành đất, khi thực vật xanh bao phủ khắp mặt đất, hệ thống rễ phát triển ăn sâu
vào lớp đá phong hóa, thì quá trình hình thành đất sảy ra mạnh và thay đổi chất lượng

đất được hình thành.
Quá trình tạo thành đất là quá trình thống nhất của các mặt đối lập của vòng tuần hoàn
địa chất và tuần hoàn sinh vật.
1.4.4. Các yếu tố hình thành đất
Các yếu tố tác động vào quá trình hình thành đất và làm cho đất được hình
thành gọi là các yếu tố hình thành đất.
10
Đất được hình thành do sự biến đổi liên tục và sâu sắc tầng mặt của đá dưới tác dụng
của sinh vật và các yếu tố môi trường.
Vậy các yếu tố hình thành đất: Đá mẹ, địa hình , khí hậu , sinh vật, thời gian.
- Đá mẹ: là yếu tố cơ bản cung cấp chất khoáng cho đất. Đá mẹ nào thì đất ấy. Mối
liên quan này thể hiện chặt chẽ ở giai đoạn đầu sự tạo thành đất. Sau đó thì bị các yếu
tố khác như khí hậu sinh vật chi phối trở nên mất tương quan chặt chẽ.
Giữa đất và đá mẹ luôn diễn ra sự trao đổi năng lượng, chất khí, hơi nước và nước.
Điều đó ảnh hưởng đến phương hướng và cường độ quá trình hình thành đất.
- Sinh vật: là yếu tố cơ bản của quá trình hình thành đất, vai trò chủ yếu là tích lũy chất
hữu cơ, chuyển hóa và tổng hợp chất mùn của đất, chuyển hóa trạng thái chất dinh
dưỡng trong đất, từ trạng thái khó tiêu thành dễ tiêu và ngược lại. Không có sinh vật
thì đất không hình thành.
- Khí hậu : là yếu tố vừa có ảnh hưởng trực tiếp thông qua lượng mưa, nhiệt độ, độ ẩm,
ánh sáng… và ảnh hưởng gián tiếp thông qua sinh vật đến quá trình hình thành đất.
Ảnh hưởng của khí hậu đến quá trình hình thành đất thể hiện ở quy luật phân bố địa lý
đất theo vĩ độ, độ cao. Phân bố đất theo vĩ độ (đới) như : đất nhiệt đới, ôn đới, hàn đới.
Tính chất đất của từng đới có liên quan với yếu tố khí hậu.
- Địa hình : Địa hình khác nhau sẽ ảnh hưởng khác nhau tới sự hình thành đất thông
qua lượng nước, nhiệt được xâm nhập vào. Địa hình cũng ảnh hưởng tới tốc độ và
hướng gió nên ảnh hưởng đến cường độ bốc hơi nước thông qua đó ảnh hưởng tới đất.
Địa hình còn ảnh hưởng ở quy luật phân bố đất theo độ cao tuyệt đối so với mặt
nước biển.
- Thời Gian: Toàn bộ các hiện tượng xảy ra trong quá trình hình thành đất như quá

trình phong hoá đá, quá trình di chuyển vật chất trong đất, quá trình hình thành vật
chất hữu cơ… đều cần có thời gian. Thời gian từ khi bắt đầu hình thành một loại đất
đến nay gọi là tuổi của đất.
CHƯƠNG 2. PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Phạm vi nghiên cứu:
11
Vườn quốc gia Ba Bể, xã Nam Mẫu, huyện Ba Bể tỉnh Bắc Cạn.
2.2. Phương pháp nghiên cứu:
2.2.1. Phương pháp khảo sát thực địa:
Phương pháp khảo sát thực địa nhằm mục đích kiểm chứng lại kết quả của phương
pháp nghiên cứu, bổ sung thêm những thông tin cần biết, đưa ra sai số của phương
pháp nhằm có những điều chỉnh thích hợp. do vậy, đây là phương pháp đặc biệt quan
trọng và cần thiết, giúp cho các công trình khoa học, các bài báo cáo được đầ đủ, chính
xác hơn.
Bài báo cáo đã tiến hành khảo sát các hoạt động địa chất vqg ba bể, các loại đất và
núi đá vôi tại khu vực thực địa.
2.2.2. Phương pháp thu thập tài liệu:
Phương pháp thu thập tài liệu là một trong những phương pháp truyền thống cơ
bản, cần thiết và rất có hiệu quả .
Tài liệu đã thu thập và sử dụng trong bài báo cáo này là của các thày cô giáo trong
Khoa Khoa học Môi trường và Trái đất, báo cáo tổng kết tình hình kinh tế, xã hội của
tỉnh Bắc Cạn,…về các nội dung:
- Tài liệu về đất
- Tài liệu về khu vực nghiên cứu
- Tài liệu về các dữ liệu địa lí , hành chinh….
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. Các hoạt động địa chất VQG Ba Bể:
3.1.1. Đặc điểm địa chất khu vực:
12
Vị trí VQG Ba Bể trong bối cảnh kiến tạo khu vực: VQG Ba Bể nằm ở cánh

cung sông Gâm, ôm lấy vòm sông chảy ( còn gọi là tiểu lục địa vòm sông Chảy). Tất
cả cùng làm nên một khối nâng dạng vòm Việt Bắc, là khối nâng duy nhất trong phức
nếp lõm Vân Nam của chuẩn nền Dương Tử ( còn gọi là lục địa cổ Hoa Nam, Trung
Quốc, có tuổi hình thành 2.5 – 2.6 tỷ năm trước ).
Các hệ thống đứt gãy: Khu vực là nơi hội tụ của hầu như tất cả các hệ đứt gãy
của miền Đông Bắc Việt Nam. Có 4 hệ thống chính là TB-ĐN, ĐB-TN, á vĩ tuyến và á
kinh tuyến. Hệ đứt gãy á kinh tuyến thể hiện hồ Ba Bể và một loạt suối khác.Hẻm
sông Năng chảy ngang qua phía Bắc hồ có nhiều đoạn đặt lòng theo hệ đứt gãy á vĩ
tuyến. Các hệ đứt gãy này đều có tuổi cổ trước Ordovic-Silur, hoạt động liên tục
nhưng đặc biệt mạnh vào cuối Trias và trong Kainozoi.
Cấu trúc địa phương : Bản thân VQG Ba Bể và lân cận có cấu trúc địa chất độc
đáo, góp phần tạo nên Hồ Ba Bể và giữ cho nước hồ khỏi tiêu thoát mất. Đó là một
bồn trũng kiến tạo với đáy là các thành tạo giầu sét cách nước. Đá vôi Ba Bể nằm
thoải, gần như ngang, bị biến chất hoa hoá mãnh liệt, nằm trọn vẹn trong bồn trũng
này.
Lịch sử phát triển địa chất lâu dài, phức tạp: Thành phần thạch học đa dạng và
cấu trúc địa chất độc đáo là kết quả của lịch sử phát triển địa chất lâu dài, phức tạp
mang tính chất hành tinh và tính độc đáo của địa phương với các giai đoạn phát triển
sau:
+ Giai đoạn Arkei (2,5 - 2,6 tỷ năm trước): Hình thành tiểu lục địa dạng vòm
sông chảy ở ngay phía TB VQG Ba Bể với thành phần chủ yếu là granit gơnai.
Các thành tạo địa chất sau này chủ yếu đều ôm lấy vòm này.
+ Giai đoạn Ordovic- Silur (408 -488 triệu năm trước ): hình thành hệ tầng Phú
Ngữ (O–S pn) tướng biển thẳm ở phía Đông VQG Ba Bể với xen kẹp dạng nhịp
giữa phiến sét, cát bột kết, thấu kính đá vôi và các đá phun trào bazơ- axit, bề dầy
tổng cộng khoảng 2.000 – 3.000 m.
+ Giai đoạn Devon sớm (307 – 408 triệu năm trước): Hình thành hệ tầng Pia
Phương (D
1
pp) phân bố rộng khắp ở phía Bắc, Tây và Nam VQG Ba Bể với

phiến sét, sét vôi, vôi sét, cát bột kết vôi v. v., bề dày tông cộng khoảng 2.000 m.
13
+ Giai đoạn Devon giữa - muộn (360 – 387 triệu năm trước): Hình thành bồn
trũng kiến tạo Ba Bể và đá vôi Ba Bể (D
2-3
bb), chiều dầy khoảng 500 - 600 m.
Kể từ đó toàn bộ khu vực trở thành lục địa, bắt đầu quá trình Karst hoá.
+ Giai đoạn Trias muộn (Nori, 213 – 231 triệu năm trước): Hoạt động xâm nhập
magma bùng phát với các thành tạo granit phức hệ Phia Bioc (γT
3
n pb), gây biến
chất các loại đất đá có mặt trong vùng, khiến đá vôi Ba Bể bị hoa hoá mãnh liệt,
cản trở quá trình Karst hoá.
+ Giai đoạn Kainozoi (65 triệu năm trước ): Chuyển động khối tảng kết hợp với
các yếu tố khí hậu tạo nên các dạng địa hình hiện đại đa dạng, đặc sắc ở khu vực
VQG Ba Bể, thể hiện tính phân bậc rõ rệt .
+ Cuối Pliocen - đầu Pleistocen (1,6 – 5 triệu năm trước): Hình thành các đứt gãy
phương á kinh tuyến ( bao gồm cả thung lũng Ba Bể ), hệ quả của dịch chuyển
trượt bằng phải dọc theo đứt gãy sâu sông Hồng. Kể từ đó, chuyển động kiến tạo
khối tảng đã khiến khối đá vôi Ba Bể nâng lên, tách biệt khỏi các phi Karst xung
quanh.
+ Trong Pleistocen giữa ( 700 nghìn năm trước ): Mưa lũ trong điều kiện khí hậu
lạnh đã gây trượt lở lớn dọc theo các đứt gãy phương ĐB-TN, tạo nên dãy nón
phóng vật khổng lồ ở Quảng Khê.
Các tầng hang hoạt động và thêm sông tạo thành tạo chủ yếu vào Pleistocen, đáng
chú ý có dấu tích thềm cao 20 m trên đảo An Mạ và vật liệu aluvi trong hang Động
Tiên cao 10 m trong hồ Ba Bể, chứng tỏ nơi đây từng có dòng chảy mặt.
+ Trong Holocen (khoảng 10.000 năm trước ): Hẻm sông Năng ( đoạn từ động
Puông đến thác Đầu Đẳng ) hình thành do động đất gây sập trần hang động đột
ngột dọc toàn bộ hẻm. Đáy hẻm bị lấp, dâng cao hơn nhiều so với đáy thung lũng

Ba Bể, vì thế mà Hồ Ba Bể hình thành. Đáng chú ý là ngay trước khi hình thành
hồ, ở đây đã có người tiền cổ sơ kỳ Đá Mới sinh sống với bằng chứng được tim
thấy ở hang Động Tiên, và hồ Ba Bể hình thành đã làm gián đoạn quá trình tiến
hóa của họ ở khu vực này trong một thời gian dài.
STT Các kì quan
địa chất
Đặc điểm Giá trị Nội dung
1 Động Puông Động cao 25-30 m Trong động còn có
các hang phụ và
14
thạch nhũ, đường
sông quanh co nước
chảy hơi siết
2 Thác Đầu
Đẳng
Có 3 tầng bậc chảy dữ
dội, mỗi tầng cao 7 - 8 m
3 Động Tiên Cửa hang cao 15m, rộng
35m
Có thạch nhũ, có đá
đổ sập, xếp thành
tầng, có một ngách
đi sâu về phía Bắc.
4 Ao Tiên Rộng 1,5 ha, ở phía Bắc
hồ, cách mép hồ 120 m.
5 Đảo An Mạ Cao hơn mặt nước từ 27 –
30 m. Có 92 bậc xi măng.
6 Đảo Khẩu
Cúm
Nằm ở mép hồ, các bến

Bắc 700m, có 2 cửa vào.
7 Hang Dơi Cách mặt nước 50 m, cửa
hang nhìn về phía Nam,
rộng 30-35m, cao 20-25m
Vòm trần hang có
nhiều dơi, xưa kia
có nhiều sơn dương
trú ngụ.
8 Động Ba Cửa Cách mặt hồ 2m, có 3 cửa
vào hình tròn, đường kính
2-3m, có một động rộng
100m.
9 Hang Chân
Voi
Là một hang rộng, nông.
Có nhiều cột thạch nhũ
trên vách đá, cửa hang
giống như chân voi, vòi
voi.
10 Động Thẳm
Khít
Cửa hang cao 10-20m,
rộng 50-80 m
Có nhiều phòng,
nhiều ngách sâu, bố
trí thành nhiều tầng
lớp, có phòng rộng
150-200m
2
. Thạch

nhũ có nhiều loại:
loại cột, loại rủ, loại
15
mang, loại thành lớp
bám vách
11 Động Nả Động cao 40 – 50 m, rộng
60 - 70 m, sâu 100m, tạo
thành vòm hùng vĩ, có
một ngách phía trên dài
200-800m
Bảng 3.1. Các kỳ quan địa chất trong VQG Ba Bể.
3.1.2. Các hoạt động địa chất của VQG Ba Bể
3.1.2.1. Quá trình nội sinh :
Theo các nhà khoa học Việt Nam , VQG Ba Bể nằm ở cánh cung sông Gâm,
ôm lấy vòm sông Chảy. Đây là nơi hội tụ của hầu như tất cả các hệ đứt gãy ở miền
Đông Bắc Việt Nam, là khu vực thể hiện rõ rệt dấu ấn lịch sử của các thời kỳ hình
thành vỏ trái đất, Vườn Quốc gia Ba Bể bị cắt xẻ mạnh mẽ theo dạng ô mạng, chuyển
động kiến tạo khối tảng sau đó đã nâng khối đá vôi Ba Bể lên cao, tách biệt hẳn với
địa hình phi - karst xung quanh, đồng thời cũng khiến cho địa hình, cảnh quan ở khu
vực có tính phân bậc rõ rệt, với hàng loạt bề mặt san bằng, cao nguyên…
Qua khảo sát ban đầu, hồ Ba Bể có 20 hang động. Do đặc điểm cấu trúc - kiến tạo
của khu vực mà Hang động ở đây phần lớn chỉ phát triển theo chiều ngang, không phát
triển sâu và rất phổ biến hiện tượng sập trần. Đa số các hang thường đơn giản, ngắn, ít
ngách phụ, song đều có kích thước lớn và rất đẹp mà các hang Động Trời, Nà Phòng,
Pắc Chản là những ví dụ tiêu biểu. Ở mỗi mức hang thường có từ 2 tầng trở lên, nối
thông với nhau qua các thác cao 1-3 m.
Điều đáng chú ý cách đây hàng triệu năm đã xẩy ra động đất lớn gây sập đổ
trần hang ở quy mô lớn hàng chục km suốt từ động Puông đến thác Đầu Đẳng đã làm
lộ ra dòng sông ngầm, hình thành nên hẻm sông Năng với vách đứng cao tới 400 m.
Đáy hẻm sông bị lấp đầy, nâng cao, trở thành một con đập tự nhiên tạo nên hồ Ba Bể.

(hình 3.1)
16
Hình 3.1: Động Puông
Các phân tích địa mạo còn cho thấy có thể các đảo đá vôi trong hồ như đảo
An Mã, đảo Bà Góa trước đó còn là sản phẩm trượt lở từ các vách đá vôi lân cận
xuống. (hình 3.2).
Hình 3.2 : đảo Bà Góa.
3.1.2.2. Quá trình ngoại sinh :
17
Động lực ngoại sing được gây ra do trọng lực của Trái Đất và năng lượng Mặt
Trời. Đây là hệ thống các quá trình rất phức tạp, bao gồm từ hoạt động phong hóa,
trọng lực rửa trôi, bóc mòn, dòng chảy, karst…
3.1.2.2.1. Quá trình Phong hóa :
Địa hình VQG nói riêng cũng như địa hình của nước ta nói chung chịu ảnh
hưởng sâu sắc của khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm.Nhân tố ngoại lực chính chạm trổ
lên địa hình là nước chảy, hệ quả của lượng mưa lớn tập trung theo mùa. Điều kiện
nhiệt đới ẩm còn đẩy nhanh quá trình phong hóa mà chủ yếu là phong hóa hóa học
tạo nên một lớp phủ vụn bở và mềm mại cho địa hình. Đồng thời rừng rậm lại che
khuất những mấp mô, khiến ta khó nhận biết hình dáng cũng như nham cấu tạo.
3.1.2.2.2. Hoạt động trọng lực:
Ở nhiều nơi như ở xã Lũng Vài trên sườn Phia Bioc cạnh hồ Ba Bể hay xảy ra
hiện tượng “ hoạt động trọng lực tương đối nhanh”, nguyên nhân là do sườn núi đổ
khối thường dốc ( trên 25°) có cấu tạo chủ yếu bởi đá phiến sét, đá vôi phân lớp, mặt
phân lớp bị phong hóa, giữa các lớp gắn kết với nhau kém. Khi vào mùa mưa, do các
dòng chảy tạm thời ven sông, hồ ; các gốc rễ của cây không còn bám chặt lớp vỏ
phong hoá hoặc dưới sườn bị xâm thực giật lùi làm mất ổn định, mất cân bằng , lớp
phong hoá được tích đọng nước trương lên, mềm bở hơn, ma sát giữa khối phong
hoá và đá gốc bị giảm sút, gây nên trượt lở cả khối đất đá trên sườn xuống thung
lũng.
3.1.2.2.3. Hoạt động của dòng chảy :

VQG Ba Bể và khu vực lân cận có mạng sông suối dày đặc với trên 2 – 2,5 km
dòng chảy/ km
2
. Bao gồm 4 con sông, suối chính nối với hồ Ba Bể. Phía Nam và Tây
Nam có sông Chợ Lèng, suối Bó Lù, Tả Han. Nước từ hồ chảy ra sông Năng ở phía
Bắc hồ.
Đây là một động đá vôi có trần cao 30m với nhiều hình thù lạ do nhũ thạch tạo
ra rất bắt mắt. Bên ngoài động có nhiều ánh sáng nên để lộ những mảng đá hoa cương,
những thảm rêu xanh dày theo năm tháng. Bên trong lòng động mờ ảo với những dải
thạch nhũ rủ xuống lung linh, huyền diệu. Vào sâu hơn nữa động rất tối nhưng đây là
chỗ khách du lịch thích nhất bởi ở trên vòm động là nơi trú ngụ của hàng vạn con dơi.
Chúng tôi thấy trên nóc động Puông vẫn còn sót lại hai bậc thềm khá bằng phẳng cao
18
60m và 100 - 120m, Các nhà khoa học cho rằng, dòng sông Năng cổ đã từng chảy trên
bề mặt ở nóc động. Những đợt bào mòn hàng triệu năm của con sông thời gian vào
lòng núi đá vôi đã tạo ra động Puông.
3.1.2.3. Qúa trình Kast:
3.1.2.3.2. Quá trình hình thành đá vôi ở Ba Bể :
Đá vôi chủ yếu hình thành trong môi trường biển nông và ấm, do kết tủa dần từ
nước biển chứa nhiều CaCO3 hoặc do tích tụ dần từ vỏ, xương, xác nhiều loài sinh vật
biển. Ban đầu, đá vôi được tích tụ dần thành những lớp dầy, mỏng, mầu sắc khác nhau,
hầu như nằm ngang ở dưới đáy biển.
Theo hình 3.3, ta thấy đá vôi ở VQG Ba Bể được hình thành trong thời kì từ
Cambri giữa đến Devon giữa (khoảng 500-520 triệu năm trước).
Hình 3.3: sơ đồ phân bố các diện đá vôi chủ yếu ở Việt Nam
Dần dần, do những vận động địa chất mà các lớp đá vôi được nâng lên, ép nén, uốn
lượn. Thêm nữa, đá vôi còn bị dập vỡ, nứt nẻ, tạo điều kiện cho nước mưa thấm xuống
sâu, thúc đẩy quá trình Karst hóa.
Karst là kết quả của quá trình tương tác (chủ yếu là hòa tan) giữa đá vôi, nước, khí
cácboníc và các yếu tố sinh học khác. Quá trình Karst hóa đòi hỏi một thời gian dài,

19
thậm chí hàng triệu năm, thì cảnh quan Karst bây giờ mới hình thành. Khu vực VQG
Ba Bể có đầy đủ điều kiện thuận lợi để quá trình Karst hóa diễn ra mạnh, đó là:
Hoạt động địa chất diễn ra mạnh nên phần lớn đá vôi bị dập vỡ, nứt nẻ tạo môi
trường thuận lợi cho nước và khí lưu thông. Ở VQG Ba Bể lượng mưa TB là 1700 -
1800 mm/năm. Lượng mưa ở đây không lớn do đó phải sau vài thế kỷ mới hình thành
nên địa hình Karst ở VQG Ba Bể như ngày nay.
Ở VQG Ba Bể độ ẩm trung bình 83 % rất thích hợp cho sinh vật phát triển. Do đó,
giải phóng nhiều khí CO
2
cần thiết cho quá trình Karst hóa.
Một số sản phẩm của quá trình Karst hóa ở VQG Ba Bể như:
+ Động Hua Mạ cách mặt đất khoảng 300 m có bậc tam cấp vào động. Đây là một loại
động treo trên núi đá, có chiều dài hơn 500m, vòm động chỗ cao nhất khoảng 50m,
chiều rộng khoảng 30 - 50m. Trong động có nhiều nhũ đá đẹp được hình thành tự
nhiên qua hàng triệu năm.
+ Động Puông trên sông Năng, Ba Bể Bắc Cạn: Đây là một động đá vôi có trần cao
30m với nhiều hình thù lạ do nhũ thạch tạo ra rất bắt mắt. Bên ngoài động có nhiều
ánh sáng nên để lộ những mảng đá hoa cương. Trong động có những dải thạch nhũ rủ
xuống. Trên nóc động Puông vẫn còn sót lại hai bậc thềm khá bằng phẳng cao 60m và
100 - 120m, Các nhà khoa học cho rằng, dòng sông Năng cổ đã từng chảy trên bề mặt
ở nóc động. Những đợt bào mòn hàng triệu năm của con sông vào lòng núi đá, mở
rộng kích thước dẫn tới sụt trần mà lộ ra ngoài thành dòng chảy mặt.
3.1.2.3.2. Các dạng địa hình cảnh quan Karst :
VQG Ba Bể có nhiều dạng địa hình và kiểu cảnh quan Karst đặc sắc, điển hình cho
Kkarst nhiệt đới ẩm, như:
- Karren là những địa hình karst rất phổ biến, gồm các hố, hốc, khe, rãnh v.v., hình
thù kỳ dị, kích thước từ rất nhỏ (1-2 mm) đến khá lớn (5-10 m), lởm chởm, sắc nhọn,
rất khó đi lại (Hình 3.4).
20

Hình 3.4: Karren.
- Phễu, lũng karst là những nơi địa hình dạng phễu, kích thước hàng chục đến hàng
trăm mét. Phễu do sập đổ vòm hang thường có vách đứng, đáy có hang, hốc hút nước
mặt, một phần bị phủ bởi sét, mùn cây và tảng lăn đá vôi.
- Thung lũng karst - là những lũng karst kéo dài hàng chục kilômét, rộng có khi hàng
nghìn mét, đáy có thể có nguồn lộ nước ngầm và dòng chảy mặt
3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành đất VQG Ba Bể
3.2.1. Ảnh hưởng của đá mẹ đến sự hình thành đất VQG Ba Bể:
Cảnh quan, địa chất, đây là khu vực thể hiện rõ rệt dấu ấn lịch sử của các thời kỳ
hình thành vỏ trái đất. Về địa chất địa mạo, đây là vùng đá vôi cổ rộng lớn, có đặc
điểm kiến tạo rất đặc biệt. Vài năm gần đây, Viện địa chất phối hợp với Hội địa chất
Bỉ đã tiến hành nghiên cứu vùng đá vôi Hồ Ba Bể. Họ khẳng định đây là vùng đá vôi
có niên đại 450 triệu năm. Ðiều kỳ thú là trong quá trình biến đổi địa chất, đá vôi đã
biến thành những mảng đá hoa cương. Theo các nhà địa chất thì việc đá vôi trở thành
đá hoa cương là điều vô cùng độc đáo và hiếm thấy. Giữa một vùng núi đá vôi lại có
21
một cái hồ lớn, thật kỳ diệu. Đáy hồ có một lớp đất sét dày tới 200 mét bịt kín, chính
địa tầng sét này không cho nước thoát xuống và hồ được hình thành .
- Nguồn cung cấp vật chất vô cơ cho đất, trước hết là khoáng chất, cho nên nó là
bộ xương và ảnh hưởng tới thành phần cơ giới khoáng học và hóa học của đất.
- Thành phần và tính chất chụi ảnh hưởng của đá mẹ thường được thể hiện ở giai
đoạn đầu của quá trình hình thành đất, càng về sau càng biến đổi sâu sắc do các
quá trình hóa học và sinh học xảy ra trong đất .
- Giữa đá và đất luôn diễn ra sự trao đổi năng lượng , khí, hơi nước, và dung dịch.
3.2.2. Ảnh hưởng của địa hình đến sự hình thành đất VQG Ba Bể:
VQG Ba Bể có địa hình núi cao rất đa dạng, có vai trò gián tiếp trong sự tạo
thành đất, tạo điều kiện cho qui luật đai cao ảnh hưởng đến sự hình thành và phân bố
đất đai . Địa hình ở VQG Ba Bể chủ yếu là địa hình Karst. Trên đoạn đường từ cổng
vào VQG Ba Bể đến hồ Ba Bể, quan sát thấy địa hình hai bên đường có sự khác biệt rõ
rệt, một bên là núi đá vôi dựng đứng với rất nhiều cây lấy gỗ lớn, cây đặc trưng cho

vùng này là cây ôrô, còn bên kia là rừng xanh thường ẩm trên núi đất với loại cây chủ
yếu là thảo quả.
Địa hình góp phần phân bố lại vật chất, thay đổi khí hậu, quyết định tốc độ gió,
làm thay đổi độ ẩm của đất . Ở các vùng cao có nhiệt độ thấp hơn nhưng ẩm độ cao
hơn. Càng lên cao xuất hiện nhiều cây lá nhỏ, chịu lạnh, đất có hàm lượng mùn tăng,
quá trình feralít giảm. Đây là lý do mà VQG Ba Bể có khí hậu mát mẻ và đất có hàm
lượng mùn khá hơn.
Địa hình khác nhau thì sự xâm nhập của nước, nhiệt các chất hòa tan sẽ khác
nhau. Nơi có địa hình cao dốc độ ẩm bé hơn nơi có địa hình thấp trũng. Địa hình cao
thường bị rửa trôi bóc mòn.
Hướng dốc ảnh hưởng tới nhiệt độ của đất. Dốc phía nam, bề mặt gồ ghề có nhiệt
độ cao hơn các hướng dốc khác có bề mặt phẳng.
Địa hình ảnh hưởng tới tốc độ và hướng gió nên ảnh hưởng tới cường độ bốc hơi
nước.
Địa hình ảnh hưởng tới hoạt động sống của thế gới sinh vật, tới chiều hướng và
cường độ của quá trình hình thành đất.
22
3.2.3. Ảnh hưởng của khí hậu đến sự hình thành đất VQG Ba Bể:
VQG Ba Bể nằm trong vùng tiểu khí hậu vùng ĐB-Việt Nam, được bao bọc che
chắn bởi các dãy núi cao Phia Bioc và Phia Dạ, chúng chịu sự chi phối của hai quy
luật địa lý phân hóa theo đai cao và phân hóa theo độ lục địa.
VQG Ba Bể có khí hậu khá mát mẻ, nhiệt độ trung bình năm 22
0
C, do vậy càng lên
cao nhiệt độ càng giảm làm cho quá trình hình thành đất ở đây chậm. Hầu như phần
đỉnh của những ngọn núi đá cao ở VQG Ba Bể có thảm thực vật rất ít phát triển, đó là
do càng lên cao nhiệt độ càng giảm và độ ẩm thấp tạo môi trường không thuận lợi cho
thực vật phát triển. Do đó, ở trên đỉnh núi quá trình phong hóa sinh học chậm , chủ yếu
có quá trình phong hóa hóa học của dòng chảy qua bề mặt và các khe nứt. Theo bảng
số liệu khí hậu khu vực Ba Bể của trạm khí tượng chợ rã, ta thấy biên độ nhiệt dao

động rất lớn:
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Cả năm
Nhiệt độ
TB (
O
C)
14,1 15,9 19,5 23,2 26,3 27,2 27,5 27 25,8 22,8 18,8 15,3 22,0
Lượng
mưa
(mm)
18,2 24,3 39,1 92,3 174,9 226,5 249,4 235,3 131,4 82,5 48,6 21,0 1343,5
Độ ẩm
(%)
83 81 81 82 81 84 85 85 85 85 85 83 83
Bảng 3.5. Bảng số liệu khí hậu khu vực Ba Bể.
Nhiệt độ không khí trung bình cao nhất là 39
0
C,nhiệt độ trung bình thấp nhất là 6
0
C
dẫn đến biên độ dao động nhiệt lớn, đẩy mạnh quá trình phong hóa cơ học làm vỡ vụn
đá tạo nguyên liệu cho quá trình hình thành đất ở VQG Ba Bể.
Trong quá trình quan sát thực địa, thấy quá trình hình thành đất ở phía dưới chân núi
đá diễn ra mạnh mẽ hơn so với trên đỉnh núi, do ở dưới chân núi có nhiệt độ cao hơn,
cùng với độ ẩm cao, trung bình 83% một năm đã tạo điều kiện cho thực vật, các loại
nấm, tảo và các vi sinh vật đất phát triển mạnh thúc đẩy quá trình phân hủy và tổng
hợp các chất vô cơ và hữu cơ trong đất (phong hóa sinh học). Ngoài ra, trong quá trình
nước mưa chảy từ trên các khe, hang núi xuống đã vận chuyển một lượng lớn các
mảnh đá vụn bị phá hủy do quá trình phong hóa hóa học, cơ học cung cấp nguyên liệu
cho sự hình thành đất ở phía dưới chân núi đá.

23
3.2.4. Ảnh hưởng của sinh vật đến sự hình thành đất VQG Ba Bể:
Đặc điểm sinh vật của vườn quốc gia Ba Bể.
+ Thực vật
Theo điều tra ban đầu, khu hệ thực vật VQG Ba Bể bao gồm 4 yếu tố: thực vật bản
địa Bắc Việt Nam - Nam Trung Quốc, thực vật di cư India - Myanma, thực vật quý
hiếm và thực vật đặc hữu của vùng.
Chỉ riêng loài thân gỗ đã đến 620 loài thuộc 300 chi, 138 họ, trong đó có đủ các
loài đặc trưng điển hình của vùng núi đá vôi Đông Bắc Việt Nam: Nghiến, Đinh, Trai,
Lát, Lát Hoa và hàng trăm loài Phong lan, Địa lan, đặc biệt loài Trúc dây quý hiếm
chỉ có ở Ba Bể thường mọc ở các vách đá ven hồ và sông Năng, thân rủ xuống hồ tạo
ấn tượng đẹp cổ kính.
VQG Ba Bể có thảm thực vật rừng đặc trưng riêng thể hiện ở các kiểu rừng và trạng
thái rừng sau:
Rừng kín lá rộng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới trên núi đá vôi: phân bố từ độ cao 400
đến 700m, diện tích còn lại nhỏ do bị tác động, loài ưu thế: Nghiến, Trai, Đinh, Lát
hoa, một số loài họ Giẻ. ở ven hồ có loài Trâm trắng, Trâm vối, Ken, Si, Mùng Quân.
Rừng rậm thường xanh mưa ẩm nhiệt đới ở thung lũng tập trung một số loài Sấu,
Thung , Đinh thôi. Trong kiểu này rừng phân thành 4 tầng rõ rệt, có tầng vượt tán là
Thung thân trắng phân biệt với nền xanh của 3 tầng dưới.
Rừng kín lá rộng thường xanh mưa ẩm nhiệt đới trên núi đất: phân bố chủ yếu ở độ
cao 200 đến 800 m với một số loài Giẻ, Thích, Lòng mang ở trên đỉnh cao; Đinh, Lát,
Sấu ở thấp hơn và Hu, Trám, Sồi, Chẹo ở những rừng phục hồi sau nương rẫy.
Thảm cây bụi, cây gỗ rải rác ( trên núi đá và núi đất ): đa phần là các cây gỗ tạp (Thôi
ba, Thôi chanh, Hồng bì rừng ) và các cây bụi như Tổ kén, Cò ke.
Rừng tre nứa với các loại Vầu, Trúc sào và một ít diện tích rừng Nứa, Tre mậy hốc,
Trúc dây - loài đặc hữu thường mọc tập trung ở các vách đá ven hồ và sông Năng.
Tại hồ Ba Bể có 137 loài thực vật nổi, gồm nhiều loài như tảo lam, silic, tảo lục, tảo
giáp, tảo vàng
Với sự đa dạng và phong phú về thực vật như vậy đã tác động mạnh mẽ và ảnh

hưởng lớn tới việc hình thành đất vườn quốc gia ba bể.Thực vật là nguồn cung cấp
chất hữu cơ chủ yếu cho mẫu chất và đất. Khoảng 4/5 chất hữu cơ trong đất có nguồn
24
gốc từ thực vật. Trong hoạt động sống của mình, các loài thực vật hút nước và các chất
khoáng trong mẫu chất và đất, đồng thời nhờ quá trình quang hợp tạo thành các chất
hữu cơ trong cơ thể. Sau khi chết, xác của chúng rơi vào mẫu chất và đất bị phân giải
trả lại các chất lấy từ đất và bổ sung thêm cácbon, nitơ tạo thành chất hữu cơ trong
mẫu chất. Sự tích luỹ chất hữu cơ làm cho mẫu chất xuất hiện độ phì và chuyển thành
đất. Chu kỳ đất - cây - đất diễn ra liên tục trong tự nhiên làm cho độ phì đất tăng dần.
+ Động vật:
Theo kết quả điều tra 1995 - 1997, khu hệ động vật VQG Ba Bể gồm 38 loài thú,
111 loài chim, lớp bò sát và lưỡng cư có 24 loài, 54 loài cá, với rất nhiều loài có tên
trong sách đỏ Việt Nam. Trong đó có Voọc mũi hếch là loài đặc hữu và Voọc đen má
trắng là loài quý hiếm.
Lớp chim gần 111 loài (47 họ) .
Lớp bò sát và lưỡng cư có 24 loài, trong đó có loài Cá Cóc Tam Đảo mới được phát
hiện tại Ba Bể, có 54 loài cá chiếm 1/3 số loài cá nước ngọt Việt Nam (có 10 loài quý
hiếm có tên trong sách đỏ). Có hơn 400 loài bướm trong đó có 2-3 loài mới được phát
hiện lần đầu tiên tại Ba Bể, chưa kể các loài không xương sống khác.
Khu hệ động vật VQG Ba Bể được xếp vào khu đa dạng sinh học loại A, là đối tượng
cho các hoạt động nghiên cứu khoa học và tham quan. Tuy nhiên, rất khó tiếp xúc với
động vật hoang dã trong môi trường tự nhiên, nên cần xây dựng khu nuôi chim, động
vật bán hoang dã để khách du lịch dễ dàng tiếp cận với chúng hơn. Đây cũng là phần
nhạy cảm nhất của hệ sinh thái. Vì vậy, cần quy hoạch, phân vùng các khu bảo tồn
nghiêm ngặt nhằm bảo vệ động vật hoang dã, cấm tất cả các hoạt động săn bắn trong
phạm vi quản lý của vườn.
3.2.5. Ảnh hưởng của thời gian đến sự hình thành đất VQG Ba Bể
Yếu tố này được coi là tuổi của đất. Đó là thời gian diễn ra quá trình hình thành đất
và một loại đất nhất định được tạo thành đó là tuổi của đất.
Đất có tuổi càng cao thì thời gian hình thành đất càng dài thì sự phát triển của đất

càng rõ rệt.
Các tính chất lí học, hóa học, độ phì nhiêu của đất phụ thuộc nhiều vào tuổi của đất.
Vì thời gian dài hay ngắn ảnh hưởng rất lớn đến mức độ biến đổi lí học, hóa học, sinh
học trong đất.
Có thể chia ra thành:
25

×