Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Việc cần làm trước khi sinh con ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.29 KB, 10 trang )

Việc cần làm trước khi sinh con

Theo báo cáo của Tổ chức Y tế
Thế giới (WHO), có tới 87%
số phụ nữ tại các nước đang
phát triển không quan tâm tới
việc tiến hành xét nghiệm
trước khi có ý định mang thai.
Họ chỉ quan tâm tới việc siêu
âm thai nhi để xem con trai
hay con gái. Đây là một nhận
thức cũng như thói quen sai
lầm, có thể gây những hậu quả nghiêm trọng cho cả mẹ
và con.

Theo các chuyên gian phụ sản thuộc Trung tâm Bà mẹ và
Trẻ em tại Vacsawa (Ba Lan), từ 3 đến 6 tháng trước khi có
kế hoạch mang thai, việc đầu tiên cần phải làm là các xét
nghiệm sau đây:



1. Làm một số xét nghiệm về huyết học và nội tiết
a- Xét nghiệm máu: Đây là xét nghiệm rất quan trọng nhằm
xác định nhóm máu của người mẹ để trong trường hợp sinh
con, thai phụ bị tai biến như băng huyết cần truyền máu sẽ
giúp các bác sĩ xử lý nhanh. Mặt khác, khi xét nghiệm sẽ
biết bạn có bị thiếu máu không, để từ đó tìm cách khắc
phục, như bổ sung chất sắt, B12.
Trong trường hợp bạn có yếu tố Rh âm, phải làm xét
nghiệm xác định yếu tố Rh của chồng, để tránh sự không


tương hợp Rh, mà hậu quả của nó là thai nhi sau này sẽ bị
thiếu máu, vàng da, điều trị tốn kém.

b- Xét nghiệm hàm lượng đường và đạm trong nước tiểu và
máu: Đối với người phụ nữ bình thường, trong nước tiểu
không có đường. Nếu có, chỉ xuất hiện sau khi ăn quá
nhiều đường (đường sinh lý) hay do bệnh tiểu đường. Nếu
hàm lượng đường trong huyết áp cao trong thời gian mang
thai, thai sẽ bị một trong dị tật: Khiếm khuyết ống thần
kinh, không có não, có đuôi, nứt đốt sống, não úng thuỷ, dị
tật về tim và thận, thai quá to gây đẻ khó, trẻ sinh ra sẽ bị
suy hô hấp, bị hạ đường huyết, tăng bilirulin.

Do vậy, việc xét nghiệm nếu thấy hàm lượng đường trong
huyết cao thì cần có biện pháp để đưa về đường huyết ổn
định, nhằm tránh những rủi ro nêu trên.

Hàm lượng đạm trong nước tiểu sẽ cho biết chức năng
thận, qua đó đánh giá mức độ một số bệnh như cao huyết
áp, tiểu đường hay suy thận. Hàm lượng đạm cao trong
nước tiểu gây nguy cơ ngộ độc thai nghén, dẫn tới nhiều tai
biến khác.

c- Xét nghiệm huyết trắng nhằm phát hiện viêm nhiễm
đường sinh dục: Viêm nhiễm đường sinh dục sẽ dẫn tới sảy
thai, sinh non, vỡ ối sớm, làm lây bệnh cho trẻ sơ sinh.
Biểu hiện đầu tiên dễ nhận biết là huyết trắng. Việc xét
nghiệm huyết trắng sớm nhằm xác định rõ bệnh gì để chọn
cách điều trị thích hợp.


d- Xét nghiệm nồng độ các hoóc-môn tuyến giáp: Nồng độ
các hoóc-môn tuyến giáp quá thấp sẽ gây khó khăn trong
việc thụ thai và có thể là nguyên nhân gây sẩy thai. Trái lại,
nếu nồng độ quá cao thì sẽ gây sinh non. Việc tiến hành xét
nghiệm trước khi có ý định thụ thai nhằm xác định nồng độ
các hoóc-môn để có thời gian áp dụng các biện pháp điều
chỉnh nồng độ hoóc-môn cân bằng.

e- Xét nghiệm tìm virus viêm gan B: Viêm gan B là căn
bệnh khá phổ biến tại nhiều nước đang phát triển, có nơi tỷ
lệ mắc bệnh đến 21%. Nếu mẹ bị viêm gan B, virus rất dễ
lây cho trẻ sau sinh và gan sẽ không làm tốt chức năng, dẫn
tới thai phụ sẽ bị một số bệnh lý khác ảnh hưởng xấu tới
thai nhi. Trong trường hợp xác định không bị viêm gan B,
người mẹ tương lai cần uống ba liều vắc xin phòng ngừa.
Đã xẩy ra trường hợp sẩy thai khi thai phụ mắc viêm gan B.

2. Theo dõi chặt chẽ huyết áp

Huyết áp cao là một trong những nguyên nhân chính gây
ngộ độc thai nghén mà hậu quả là sinh non hay sẩy thai.
Khi huyết áp gia tăng cần có biện pháp thích hợp điều
chỉnh thông qua chế độ ăn- uống chống huyết áp cao hay
gia tăng hoạt động thể lực.

3. Điều trị những bệnh răng miệng

Khi đã mang thai, việc điều trị các bệnh đau răng, sâu răng
bằng các loại thuốc kháng sinh là điều cấm kỵ, vì các hoạt
chất kháng viêm sẽ nhanh chóng thâm nhập vào hệ thống

lưu thông máu của mẹ và thâm nhập vào thai nhi gây nhiều
tổn thương cho sự phát triển của thai nhi.

Các nghiên cứu cho thấy, nồng độ nhiều hợp chất của thuốc
trong thai nhi cao hơn rất nhiều so với trong cơ thể mẹ, vì
thai nhi chưa hình thành đẩy đủ cơ chế chuyển hoá các loại
thuốc. Bên cạnh đó, trong quá trình phát triển bào thai rất
mẫn cảm với các hợp chất hoá học làm tổn thương tới quá
trình hình thành các bộ phận của thai nhi.

4. Không uống rượu, bia và hạn chế dùng các loại thuốc
thông thường

Có thể uống một ly rượu vang đỏ vào sau bữa tối để khí
huyết lưu thông tốt hơn. Việc uống rượu, bia vô độ dẫn đến
những tổn thương hệ thần kinh sau này của trẻ và khi
trưởng thành dễ bị rơi vào trạng thái nghiện ngập. Chỉ khi
thật cần thiết mới dung đến những loại thuốc thông thường
như cảm, cúm, giảm đau. Trong trường hợp bị cảm, nhức
đầu và sổ mũi nên dùng các loại là thảo mộc để điều trị.

5. Áp dụng chế độ dinh dưỡng giàu rau xanh và trái cây

Nhiều phụ nữ bị ngộ nhận rằng, khi chuẩn bị mang thai cần
ăn nhiều thịt và các món “sơn hào hải vị” để tẩm bổ cho cơ
thể. Trong khi đặc biệt quan trọng lại là chế độ dinh dưỡng
cung cấp cho cơ thể đẩy đủ liều lượng các vitamin và
khoáng chất từ nguồn thiên nhiên, đó là rau xanh và trái
cây. Lượng đạm cho cơ thể chủ yếu từ cá và thịt gia cầm,
các chế phẩm từ sữa bò, lạc và vừng.

Nên ăn ít và chia thành 5 bữa/ngày để bảo đảm đủ chất và
các cơ quan nội tạng hoạt động vừa sức. Hàng ngày, nên
uống ít nhất là 1.5 lít nước, có thể là nước trái cây ép hoặc
nước khoáng không ga. Trong thành phần bữa ăn nên hạn
chế các món giau chất béo có nguồn gốc động vật và
đường.

6. Gia tăng dùng a-xit folic

Các nghiên cứu tại Anh cho thấy, nếu hàng ngày cung cấp
0.4mg a-xít folic trong suốt ba tháng trước khi thụ thai sẽ
giảm 59% nguy cơ xuất hiện các khuyết tật trong hệ thần
kinh của trẻ sinh ra. A-xít folic tham gia vào quá trình tổng
hợp các a-xít nucleic tạo AND, tham gia điều hoà sự tăng
trường và hoạt động của tất cả các tế bào. A-xít folic còn có
tác dụng làm giảm nguy cơ ung thư cổ tử cung ở phụ nữ.
A-xít folic có chứa trong gan gia cầm, các loại đậu, bi-na,
rau súp lơ xanh, hạt ngũ cốc.

Phần lớn trong chúng ta đều thiếu hụt a-xit folic, vì hàm
lượng của nó trong cơ thể luôn bị giảm sút do khi chúng ta
bị stress, uống cà phê, uống rượu, dùng các thuốc tránh
thai. Là loại a-xít dễ bị phân huỷ dưới tác động của nhiệt độ
cao và ánh nắng mặt trời (hao hụt tới 70%). Ngoài ra, cơ
thể chúng ta chỉ hấp thụ 50% a-xít folic từ nguồn thực
phẩm, song lại hấp thụ 100% từ nguồn tổng hợp. Do đó, tốt
nhất là dùng các loại a-xít folic tổng hợp có bán tại các cửa
hang dược phẩm.

7. Gia tăng vitamin nhóm B và chất sắt


Vitamin nhóm B có tác động làm giảm và điều hoà nồng độ
homocysteine loại a-xit amin có tác động mạnh mẽ tới sức
khoẻ. Nồng độ a-xit amin này cao có thể làm rối loạn quá
trình sinh lý của các tế bào. Các nghiên cứu gần đây còn
cho thấy, nồng độ homocysteine cao dẫn tới phát sinh bệnh
tim-mạch, huyết áp cao.

Có thể khẳng định rằng, chất sắt cần thiết cho phụ nữ như
con người cần không khí. Theo khảo cứu của Trung tâm Bà
mẹ và Trẻ em Ba Lan, có tới 45% phụ nữ trong kỳ mang
thai bị thiếu hụt chất sắt. Tỷ lệ phụ nữ bị thiếu hụt chất sắt
cao hơn nam giới. Việc để thiếu hụt chất sắt ở những bà mẹ
mang thai có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng cho trẻ như
nhẹ cân, thiếu máu, sinh non và sẩy thai.

Do vậy, việc bổ sung chất sắt cho phụ nữ trước khi mang
thai là rất quan trọng, để không bị rơi vào tình trạng thiếu
máu. Nhu cầu hàng ngày cho cơ thể là khoảng 2mg chất
sắt. Trong thời kỳ mang thai, nhu cầu tăng lên 26mg/ngày.
Chất sắt có chứa trong gan lơn (18.7mg/100g), gan bò
(9.4mg/100g), hạt đậu (6.9mg/100g). Song để cơ thể hấp
thụ thì phải cung cấp cho cơ thể chất “xúc tác” – đó là
vitamin nhóm B - đặc biệt là B6, B12 và B9 (a-xít folic)
cùng vitamin C.

8. Cần có chế độ tập luyện thể dục tăng cường sự dẻo
dai các cơ

Các khảo cứu tại nhiều nước cho thấy, những phụ nữ

thường xuyên tập luyện thể lực, các cơ được tăng cường
hầu như không bị đau cột sống khi mang thai và khi sinh
nhẹ nhàng và chóng vánh. Việc tập thể dục thường xuyên
và đều đặn có tác động tích cực tới tinh thần, giúp đầu óc
sảng khoái, giải toả stress - kẻ thù khi mang thai. Các hoạt
động thể lực cho phụ nữ trước khi thụ thai có thể là tập thể
dục aerobic, đi bộ nhanh, bơi lội, đi xe đạp. Nên chọn loại
hình vận động mà mình ưa thích.

×