Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Rủi ro do giới hạn vốn potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.62 KB, 8 trang )

Rủi ro do giới hạn vốn
Có hai loại giới hạn về vốn chính trong quản trị tài chính doanh
nghiệp, đó là giới hạn “cứng” và giới hạn “mềm”. Trường hợp của
Bông Bạch Tuyết (BBT) gần đây cho chúng ta thấy vai trò của cả
hai giới hạn này trong việc đẩy một công ty từng có thương hiệu
vững vàng đến tình trạng kiệt quệ tài chính như hiện nay.
Giới hạn cứng và giới hạn mềm về vốn
Giới hạn “cứng” về vốn là giới hạn doanh nghiệp không thể tìm
ra nguồn vốn thích hợp để tài trợ cho các dự án của mình. Vấn
đề này phát sinh do khía cạnh nguồn cung và chi phí vốn.
Trong khi đó, giới hạn "mềm" về vốn là doanh nghiệp không có
khả năng tiếp cận nguồn vốn để duy trì và phát triển sản xuất kinh
doanh vì chính những vấn đề nội tại doanh nghiệp như khả năng
quản trị yếu kém của ban quản trị, khả năng hoạch định tài chính
kém của giám đốc tài chính chứ không phải là do không có
nguồn cung vốn phù hợp cho doanh nghiệp.

Giới hạn cứng: giới hạn cho vay từ phía ngân hàng và không
thể phát hành mới

Từ đầu năm đến nay, với chính sách thắt chặt tiền tệ của Chính
phủ và áp lực lạm phát cao, lãi suất cho vay của các ngân hàng
tăng dần lên, đạt đến trên 20%. Mặt khác, với mục tiêu kiểm soát
tăng trưởng tín dụng chỉ 30%, cho cả năm nay, một mức điều
chỉnh giảm tỷ lệ tăng trưởng tín dụng khá lớn so với mức tăng
trưởng dư nợ tín dụng hơn 50% của năm 2007, nhiều ngân hàng
đã hạn chế cho vay đối với doanh nghiệp.
Điều này tạo áp lực rất lớn về vốn lên doanh nghiệp như BBT.
Trong tình hình ngân hàng siết chặt cho vay như vậy, gần như
nguồn cung về vốn vay của BBT đã cạn kiệt. Có thể thấy điều
đầu tiên công ty vấp phải là vì thị trường đang “giới hạn cứng”


nguồn cung những dòng tín dụng “dám mạo hiểm” cho công ty,
cho nên công ty phải tìm cách quay qua phía nguồn tài trợ cuối
cùng bằng cách tìm nhà đầu tư chiến lược. Động thái này cho
thấy tình trạng bị ép đến chân tường của một công ty niêm yết do
gặp phải nhiều giới hạn cứng về mặt vốn tài trợ.

Giới hạn mềm: nội bộ lủng củng
Nhưng thật ra tình huống kiệt quệ tài chính của BBT lại do những
giới hạn mềm gây ra nhiều hơn là do giới hạn cứng. Theo tổng
giám đốc của công ty, hiện tại, công ty chủ yếu sử dụng nguồn
vay tín chấp vì ngân hàng đã không cho vay thêm khi tài sản của
BBT đã thế chấp những năm trước. Vậy ra, một trong những
nguyên nhân lớn nữa khiến công ty không tiếp cận nổi nguồn vốn
ngân hàng nữa là do công ty hoạt động kinh doanh không hiệu
quả, vừa lỗ, vừa đã thế chấp hết tài sản để vay vốn.
Với việc BBT từ lời trở thành lỗ, liên tục hai năm, lại không còn
cái gì để “làm tin” thì đương nhiên ngân hàng sẽ phải đặt câu hỏi
về khả năng quản trị của hội đồng quản trị và giám đốc của công
ty. Và đương nhiên, ngân hàng sẽ không dám cho vay nữa. Đây
là giới hạn mềm đối với khả năng huy động vốn của BBT hiện
nay.
Các nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra phần nhiều giới hạn mềm
đối với khả năng huy động vốn liên quan đến vấn đề xung đột lợi
ích nội bộ và khả năng quản trị của ban lãnh đạo công ty. Tình
huống này hình như khá rõ ràng ở BBT.
Thứ nhất, một cán bộ về hưu đang sở hữu 12.000 cổ phiếu BBT
cho biết, tình trạng mất đoàn kết và phe phái đã diễn ra từ lâu.
Tiếp theo đó là mâu thuẫn giữa cổ đông nhà nước và nhiều cổ
đông khác trong công ty trong việc không thông qua phương án
phát hành cổ phiếu cho cổ đông chiến lược.

Đây không phải là lần đầu tiên phát sinh mâu thuẫn giữa cổ đông
nhà nước (thường chiếm tỷ lệ sở hữu áp đảo trong công ty) với
các cổ đông khác trong các doanh nghiệp đại chúng, mà gần đây
nhất là trường hợp của Dầu Tường An (TAC).
Vậy, một vấn đề kinh điển trong quản trị công ty (corporate
governance) ở Việt Nam hình như đang hiển hiện: mâu thuẫn
giữa cổ đông nhà nước và những cổ đông tư nhân. Khi cổ đông
nhà nước không thuận sẽ xuất hiện giới hạn mềm đối với việc
huy động vốn từ cổ đông bên ngoài công ty, tức là có người sẵn
sàng cung cấp vốn (chứ không phải thiếu người muốn cung cấp
vốn như trường hợp giới hạn cứng), nhưng do mâu thuẫn nội bộ,
hay rộng ra là do vấn đề quản trị công ty mà dẫn đến việc cổ
đông bên ngoài không thể hay không dám tham gia vào công ty.

Làm sao gỡ các giới hạn?
Trong tình hình BBT còn gặp nhiều khó khăn trong sản xuất kinh
doanh cần phải gỡ rối, quan trọng là phải tạo ra doanh thu để trả
nợ, mà lại không có vốn lưu động cho sản xuất thì việc lâm vào
kiệt quệ tài chính là quá dễ hiểu. Gỡ cái gút này cũng phải xuất
phát từ việc tìm thêm vốn bên ngoài. Tuy nhiên, trong tình hình
công ty gặp nhiều giới hạn cứng và mềm như vậy, liệu công ty có
thể vượt qua được khó khăn?
Rõ ràng, giới hạn mềm của công ty là cốt lõi của vấn đề. Gỡ
được giới hạn này thì công ty sẽ có thể hồi sinh. Tuy nhiên, điều
khó hiểu là nội bộ công ty vẫn không chịu quay ra gỡ gút mà lại
tiếp tục công kích lẫn nhau. Cổ đông nhà nước (Công ty Dệt may
Gia Định) thì chỉ trích ban giám đốc điều hành yếu kém, còn tổng
giám đốc thì chỉ trích cổ đông nhà nước sợ mất “quyền lực” nên
không chịu thông qua phương án phát hành cổ phiếu mới cho
nhà đầu tư chiến lược.

Cũng có thể hiểu mối quan ngại của cổ đông nhà nước, vì có khả
năng quyền lợi của họ trong công ty bị pha loãng đi. Tuy nhiên,
nhìn sâu hơn vấn đề, phải đặt câu hỏi là liệu cổ đông quản lý một
lượng vốn nhà nước lớn trong công ty này có trách nhiệm gì
không trong việc công ty thua lỗ như hiện nay.
Làm cổ đông lớn mà để công ty biến lỗ thành lãi, lãi thành lỗ, để
rơi vào kiệt quệ tài chính liệu có thể bảo rằng mình không có
trách nhiệm gì? Nếu cổ đông lớn đã không thể hồi phục công ty
thì nên chăng tìm kiếm hỗ trợ từ bên ngoài. Nếu không, đến khi
công ty phá sản, cổ đông nhà nước này sẽ trả lời ra sao với cấp
quản lý cao hơn về việc để thất thoát số vốn của Nhà nước trong
công ty?
Nói vậy để thấy đại diện quản lý vốn nhà nước ở BBT còn phải
nên cân nhắc lại nhiều. Nhưng không phải ban giám đốc công ty
không cần suy nghĩ lại. Nếu công ty không đẩy mạnh đầu tư vào
lĩnh vực gặp cạnh tranh khốc liệt là băng vệ sinh trong khi bỏ rơi
thị trường chủ lực bông y tế thì liệu có đến nông nỗi này? Sản
phẩm chủ lực thì sản xuất không đáp ứng nổi nhu cầu (100%
công suất chỉ đáp ứng 70% năng lực bán hàng), trong khi lại đi
đầu tư mở rộng lĩnh vực kinh doanh từ những sản phẩm thử
nghiệm mới như băng vệ sinh cho đến đầu tư tài chính vốn là
những lĩnh vực đòi hỏi nhiều vốn và nhân lực chuyên môn bên
ngoài.

×