Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Chăm sóc trẻ sơ sinh già tháng ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.85 KB, 13 trang )

Chăm sóc trẻ sơ sinh già tháng


(Webtretho) Khi thai
kỳ quá ngày, nhau và
gai nhau bị thoái hóa,
tuần hoàn mẹ - con
giảm, không đủ cung
cấp oxy và các chất
dinh dưỡng cho thai
dẫn đến suy thai
trường diễn. Do đó trẻ
thường ốm yếu, dễ bị
bệnh và khó nuôi.

Trẻ sơ sinh già tháng
cũng như trẻ sơ sinh
non tháng, nhẹ cân
thường gặp nhiều nguy

Trẻ già tháng cần được chăm
sóc đặc biệt.
cơ, bệnh lý phức tạp và khó điều trị hơn trẻ đủ tháng.
Trong đó nguy cơ suy hô hấp, nhiễm trùng và hạ
đường máu là thường gặp hơn cả. Vì vậy, ngoài việc
cần được chăm sóc và nuôi dưỡng tốt và đầy đủ như
đối với trẻ đủ tháng, trẻ già tháng cần được quan tâm
hơn vấn đề đảm bảo vô khuẩn, nuôi bằng sữa mẹ và
lưu ý thêm tình trạng bệnh lý riêng biệt của trẻ.

Phương pháp điều trị chung đối với trẻ sơ sinh


già tháng:

- Do suy chức năng nhau nên trẻ dễ bị ngạt, hít nước
ối do đó ngay sau sinh nữ hộ sinh, bác sĩ sẽ:

+ Hút đàm nhớt ngay khi đầu vừa sổ nhưng thân trẻ
còn trong khung chậu của người mẹ. Nếu thấy có
phân su sệt, bác sĩ có thể đặt nội khí quản, hút đàm
nhớt và bơm rửa bên trong khí quản.

+ Trẻ thường được thử dịch dạ dày, dịch họng.

+ Nếu trẻ bị ngạt thì được điều trị như trường hợp
suy hô hấp.

- Nếu bị viêm phổi trong tử cung trẻ được điều trị như
viêm phổi nặng sơ sinh.

Trường hợp nhiễm trùng diễn biến nặng bác sĩ sẽ
điều trị dựa theo kháng sinh đồ.

- Trẻ được điều chỉnh rối loạn điện giải.

- Oxy liệu pháp – nâng thể trạng – trợ tim, sinh tố.

- Cho ăn liều lượng tăng dần qua ống thông với sữa
mẹ hoặc sữa nhân tạo dễ tiêu hóa.

- Nếu có tăng kích thích hoặc bị co giật sẽ được cho
thuốc an thần.


Chăm sóc trẻ sơ sinh già tháng:

* Dinh dưỡng:

Sau khi được hồi sức sau sinh, nếu trẻ khá hơn có
thể chuyển sang cho bú mẹ hoặc bú bình.
Cần cho trẻ ăn sớm và đầy đủ. Trẻ càng có cân nặng
thấp thì càng cần cho ăn nhiều bữa, số lượng mỗi
bữa ăn tăng dần tùy theo tình trạng thích nghi của trẻ.

Đối với trẻ cân nặng <1000g thì bắt đầu được bác sĩ
cho 1ml Destrose 5% hoặc 10 cal/oz theo công thức
non tháng. Có thể lặp sau mỗi 2 giờ hoặc tăng lên 15
– 20 cal/oz nhưng không quá 20 ml/kg/24 giờ.

Trước khi cho ăn bằng gavage, cần rút dịch còn trong
dạ dày ra. Nếu chỉ có khí và ít chất nhầy thì cho ăn
như dự kiến, nếu rút ra hơn 10% lượng cho ăn trước
đó thì cần phải giảm lại.

Sữa quá đậm đặc sẽ có nguy cơ mất nước, phù, tiêu
chảy, bất dung nạp lactose, chậm làm trống dạ dày
dẫn đến nôn ói.

Nếu trẻ có biểu hiện nôn ói, chướng bụng có thể do
nhiễm trùng, viêm ruột hoại tử, tắc ruột. Việc cho ăn
cần chậm lại hoặc bác sĩ sẽ chuyển sang nuôi ăn
bằng đường tĩnh mạch.


* Nhu cầu về nước:

Tùy theo tuổi thai, tình trạng bệnh, môi trường, tương
đương với lượng nước tiểu + lượng nước mất không
nhìn thấy được + bất kỳ mất nước bất thường nào
khác.

- Trẻ cân nặng <1000g, lượng nước mất không nhìn
thấy khoảng 2 – 3 ml/kg/giờ vì da mỏng, lớp mỡ dưới
da mỏng, diện tích tiếp xúc lớn.

- Trẻ có cân nặng lớn hơn (2000 – 2500g), thường
lượng nước mất không nhìn thấy khoảng 0,6 – 0,7
ml/kg/giờ.

Vì trẻ sơ sinh, đặc biệt là trẻ nhẹ cân, khả năng cô
đặc nước tiểu kém nên việc cân bằng nước ra vào rất
quan trọng.

* Đảm bảo nguyên tắc vô trùng:

Trẻ dễ nhiễm trùng nhất là trẻ nhẹ cân, nên:

+ Người nuôi trẻ phải rửa tay sạch đến khuỷu trước
và sau khi tiếp xúc với trẻ.

+ Giảm thiểu sự nhiễm trùng thức ăn, những vật dụng
tiếp xúc với trẻ.

+ Chống nhiễm trùng không khí, tránh quá đông

người, hạn chế tiếp xúc với trẻ khác, không cho
người nào có nhiễm trùng vào phòng của trẻ. Tuy
nhiên, không nên quá giới hạn trong việc cho trẻ tiếp
xúc với cha mẹ.

* Theo dõi và phát hiện kịp thời các biểu hiện bất
thường:

- Trẻ quấy khóc hoặc li bì, khó đánh thức.

Khóc là một cách thông tin. Trẻ có thể khóc do những
nhu cầu khác nhau. Những nguyên nhân thường gặp
là:

+ Đói, đặc biệt nếu trẻ bú xong đã 2 – 3 giờ.

+ Khó chịu, do tã ướt hoặc dơ, quần áo quấn quá
chặt, quá lạnh hoặc quá nóng.

+ Trẻ cần được thay đổi tư thế.

+ Trẻ nghẹt mũi.

+ Trẻ sơ sinh dễ bị kích thích. Trẻ thường không chịu
được quá nhiều đụng chạm từ người xung quanh.

+ Trẻ bị bệnh.

- Bú ít hoặc bỏ bú. Nếu quá 4 giờ trẻ không chịu bú là
dấu hiệu cần chú ý, nhất là nếu thấy trẻ có vẻ buồn

ngủ, mệt, quấy khóc hoặc có cử động bất thường.
Nhiều bệnh có thể có những dấu hiệu này, nhưng
trong 2 tuần đầu nguyên nhân thông thường nhất là
nhiễm trùng máu hoặc uốn ván.

- Rối loạn tiêu hóa:

+ Nôn ói. Trẻ bị nôn ói nhiều quá sẽ bị mất nước, sụt
cân.

Nếu kèm theo bị tiêu chảy, có thể là trẻ bị viêm
đường ruột, nhiễm trùng máu, viêm màng não và
nhiều bệnh viêm nhiễm khác cũng có thể gây nôn ói.

Nếu chất nôn ra màu xanh hay vàng có thể là trẻ bị
tắc ruột, đặc biệt khi bụng trẻ chướng căng, hoặc
không đi ngoài được, cần cho trẻ đi bệnh viện cấp
cứu ngay lập tức.

+ Tiêu chảy hoặc táo bón; thay đổi màu của phân, có
mùi hôi, phân có lẫn nhầy máu hoặc bí trung đại tiện.

- Nước tiểu: tiểu ít, đậm màu. Điều này có thể do
không được cung cấp đủ nước theo nhu cầu bình
thường của trẻ hoặc do mất nước.

- Thân nhiệt:

+ Thân nhiệt quá thấp (dưới 35
0

C) có thể do không
đủ ấm nhưng cũng có thể do nhiễm trùng. Nếu không
đủ ấm thì cần ủ ấm cho trẻ bằng áo ấm, găng tay, vớ,
túi chườm nóng, lò sưởi hoặc dùng phương pháp
Kanguroo (cho trẻ tiếp xúc da kề da với mẹ).

+ Sốt cao (trên 39
0
C) là dấu hiệu nhiễm trùng. Sốt
cao nguy hiểm đối với trẻ mới đẻ. Cởi hết tã lót, dùng
nước ấm để lau cho trẻ.

Phải hết sức chú ý xem có mất nước không. Nếu thấy
có dấu hiệu mất nước, phải cho trẻ bú sữa mẹ và
uống thêm nước.

- Màu da, các ngón chi: xanh tái, vàng.

+ Nếu môi và mặt màu xanh tím có thể bị viêm phổi
hoặc có bệnh tim bẩm sinh hoặc dị tật bẩm sinh
đường hô hấp khác.

Trẻ có thể có vàng da nhẹ bắt đầu vào ngày thứ hai –
thứ ba sau sinh và chấm dứt khoảng ngày thứ tám –
thứ mười, thường là không nghiêm trọng, nên cho trẻ
tắm nắng buổi sáng.

Trong trường hợp vàng da xuất hiện sớm trong vòng
36 giờ sau sinh có thể do nhiễm trùng sơ sinh, bất
đồng nhóm máu Rhérus hay nhóm máu ABO, thiếu

hụt men G6PD bẩm sinh hoặc nếu vàng nhiều, kéo
dài cần đưa trẻ đi khám.

- Rối loạn hô hấp:

ếu trẻ quá yếu cần hỗ trợ hô hấp



+ Nếu mũi bị ngạt, thì hút mũi cho trẻ.

+ Thở nhanh (50 lần/phút hoặc hơn), da xanh, thở
khò khè, co rút hõm ức và các cơ xương sườn, có thể
là dấu hiệu của viêm phổi. Trẻ mới đẻ bị viêm phổi
không ho, đôi khi không thấy một dấu hiệu phổ biến
nào của bệnh này.

- Sờ thóp (chỗ mềm ở đỉnh đầu):

+ Nếu thóp lõm, trẻ có thể bị mất nước.

+ Nếu thóp phồng, trẻ có thể bị viêm màng não.

Cần chú ý: Nếu trẻ mới đẻ bị viêm nàng não, đồng
thời lại bị ỉa chảy, thóp có thể bình thường. Vì vậy,
muốn chắc chắn phải tìm thêm những dấu hiệu khác
của mất nước và viêm màng não.

- Co giật: Nếu trẻ mới đẻ có sốt, xử trí như đã nói
trên. Trẻ bị co giật ngay sau khi đẻ, chắc là có tổn

thương ở não khi đẻ. Nếu co giật xảy ra sau ít ngày,
theo dõi cẩn thận những dấu hiệu của viêm màng não
hoặc uốn ván…

Khi trẻ có các biểu hiện bất thường cần đưa trẻ đến
khám và điều trị tốt nhất là các cơ sở có chuyên khoa
Nhi sơ sinh.

×