Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Quy luật lượng chất và sự vận dụng vào phát triển kinh tế ở Quảng Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.9 KB, 65 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong đời sống hằng ngày, đằng sau các hiện tượng muôn hình muôn vẻ,
con người dần dần nhận thức được tính trật tự và mối liên hệ có tính lặp lại của
các hiện tượng, từ đó hình thành nên khái niệm "quy luật". Với tư cách là phạm
trù của lý luận nhận thức, khái niệm "quy luật" là sản phẩm của tư duy khoa học,
phản ánh sự liên hệ của các sự vật và tính chỉnh thể của chúng.
Các quy luật của tự nhiên, của xã hội cũng như của tư duy con người đều
mang tính khách quan. Con người không thể tạo ra hoặc tự ý xóa bỏ được quy
luật mà chỉ nhận thức và vận dụng nó trong thực tiễn.
Quy luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược
lại ( gọi tắt là quy luật lượng-chất) là một trong ba quy luật của phép biện chứng
duy vật, nó cho biết phương thức của sự vận động, phát triển. Với tính chất đó
quy luật lượng - chất đã chiếm giữ vị trí quan trọng trong vai trò phương pháp
luận của triết học Mác - lênin. Nhận thức được quy luật này có ý nghĩa rất quan
trọng trong hoạt động thực tiễn khi chúng ta xem xét các sự vật, hiện tượng. nếu
nhận thức không đúng quy luật này sẽ dẫn đến tư tưởng tả khuynh, hữu khuynh.
Tả khuynh là phủ nhận sự tích lũy về lượng, muốn có ngay sự thay đổi về chất,
còn hữu khuynh là khi chất đã biến đổi vượt quá giới hạn độ nhưng không dám
thực hiện sự thay đổi căn bản về chất.
Kinh tế là ngành không thể thiếu của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới.
Chính vì thế nó chiếm một vai trò rất quan trọng trong hệ thống nhà nước của
mỗi quốc gia. Không chỉ có vậy, lĩnh vực kinh tế còn ảnh hưởng đến mọi mặt
của đời sống xã hội như: chính trị, văn hóa, tư tưởng, môi trường do có vai trò
quan trọng như vậy nên mỗi một thay đổi dù lớn hay nhỏ của ngành kinh tế đều
ảnh hưởng đến sự phát triển chung của đất nước.
1
Trong thời gian vừa qua ở Việt Nam, việc cải cách các chính sách kinh tế
đã có ảnh hưởng tích cực tới việc tăng trưởng kinh tế. Tuy vậy kinh tế nước ta
đang có nguy cơ tụt hậu ngày càng xa so với các nước trên thế giới. Do đó, cần
phải nghiên cứu nền kinh tế để có những giải pháp đúng đắn cho sự phát triển


kinh tế.
Trong thời đại ngày nay, khi đất nước đang thực hiện công cuộc đổi mới
toàn diện, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa
hội nhập quốc tế, trong bối cảnh có nhiều cơ hội và thách thức lớn. Thực tiễn đó
đặt ra nhiều vấn đề mới đối với sự lãnh đạo của Đảng, trong đó vấn đề trọng tâm
là đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội, đây là nhiệm vụ then chốt để đảm bảo
đưa nước ta sánh vai với các cường quốc trên thế giới. Trong đại hội IX Đảng đã
đề ra mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm ( 2001- 2010) là:
" Đưa đất nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống
vật chất tinh thần của nhân dân tạo nền tảng để đến 2020 nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản, vị thế của nước ta trên
trường quốc tế được nâng cao". Quán triệt quan điểm của đại hội IX, Đảng uỷ
Quảng Bình đã không ngừng cố gắng đẩy mạnh công cuộc xây dựng và phát
triển nhằm đưa Quảng Bình thoát khỏi tỉnh nghèo, phát triển nhanh và bền vững.
Để thực hiện được điều này trong những năm tới thì một trong những vấn đề cần
quan tâm giải quyết đó là phải có những phương hướng đúng trong quá trình đổi
mới và phát triển nền kinh tế của tỉnh để đề ra những chính sách, quan điểm,
biện pháp phát triển kinh tế toàn diện.
Thực tế sau những năm đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng,
lãnh đạo, đã được nhân dân đồng tình hưởng ứng, đã đạt được những thành tựu
to lớn và có ý nghĩa lịch sử trọng đại, quán triệt chủ trương của Đảng và Nhà
nước trong những năm qua tốc độ phát triển kinh tế đồng đều và bền vững của
tỉnh Quảng Bình đã mang lại nhiều thành quả quan trọng. Điều này cho thấy sự
2
đúng đắn, kịp thời, hợp lý của Đảng bộ và năng lực thực tiễn của tỉnh Quảng
Bình. Tỉnh đang dần từng bước khẳng định vị thế của mình trong sự phát triển
chung của toàn quốc trong thời kỳ hội nhập kinh tế. Sở dĩ đạt được những thành
tựu như ngày nay là do sự nổ lực rất lớn của Đảng uỷ và nhân dân Quảng Bình.
Chính vì thế vận dụng quy luật lượng - chất vào việc phát triển kinh tế ở tỉnh

Quảng Bình là một công việc hết sức quan trọng trong công tác xây dựng và
phát triển kinh tế trong giai đoạn hiện nay.
Những vấn đề nêu trên cũng là lí do tôi chọn đề tài: "Quy luật lượng -
chất và sự vận dụng vào phát triển kinh tế ở Quảng Bình" làm khoá luận tốt
nghiệp ngành triết học của mình.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Quy luật lượng - chất là vấn đề đã được nhiều nhà triết học từ trước đến
nay quan tâm, nhưng chỉ đến khi chủ nghĩa Mác ra đời, quy luật này mới được
trình bày một cách khoa học, có hệ thống với những cơ sở lý luận đầy đủ nhất
của nó. Quy luật này hợp thành với toàn bộ lý luận về phép biện chứng đã trở
thành cơ sở lý luận để các nhà khoa học vận dụng vào quá trình nghiên cứu và
hoạt động thực tiễn. Trong quá trình thu thập tài liệu, nội dung quy luật lượng -
chất đã được nhiều tác giả nghiên cứu, chẳng hạn: " Chủ nghĩa duy vật biện
chứng lý luận và vận dụng", NXB SGK Mác - Lênin, HN, 1985; " Những vấn
đề triết học trong hoá học", NXB GD, HN,1983; " Triết học Mác - Lênin",
NXB, SGK Mác - Lênin, HN, 1977.
Quy luật lượng - chất chủ yếu được trình bày ở trong giáo trình triết học
Mác - LêNin của học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, mới nhất là " Giáo
trình triết học Mác - Lênin", NXB CTQG, HN, 2004 do hội đồng trung ương
biên soạn; " Giáo trình tư liệu triết học Mác - Lênin ", NXB Thuận Hoá, Huế,
2002; “ Quy luật lượng- chất trong lịch sử triết học và sự vận dụng vào việc
nâng cao năng lực quản lý của cán bộ lãnh đạo Thừa Thiên Huế”, Luận văn
thạc sĩ triết học của Trần Thanh Bình (2004); “ Quan điểm của triết học Mác-
3
Lênin về mối quan hệ giữa chất và lượng với việc xây dựng đội ngủ nữ cán bộ,
công chức ở các trường Cao đẳng tỉnh Quảng Ngãi trong giai đoạn hiện nay”,
Luận văn thạc sĩ khoa học của Nguyễn Thị Kim Anh (2006). Đối với việc vận
dụng quy luật lượng - chất vào quá trình phát triển kinh tế ở Quảng Bình thì đây
là vấn đề hoàn toàn mới, đã có nhiều công trình đề cập đến vấn đề vận dụng
nhưng dưới góc độ khác nhau như: Nghị quyết số 56/2006/QH11 “ Nghị quyết

về kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2006- 2010”, Công báo tháng 7, số
21+22, ngày 24/07/2006; Tạp chí Triết học, số 7 (2010): “ Mấy vấn đề về đổi
mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay” của Lương Đình Hải; Tạp
chí Triết học, số 7 (2008) “Vấn đề phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở
nước ta hiện nay”, Nguyễn Đức Luận; Lương Ngọc Bính, “Quảng Bình: Những
thành tựu sau gần 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới”, Tạp chí Cộng sản, Số
858s (4/2014); Nguyễn Sinh Hùng, sĐoàn kết, nổ lực phấn đấu thực hiện tốt
hơn nữa nghị quyết của trung ương về “Nông nghiệp, nông dân, nông thôn”,
Tạp chí Cộng sản, số 858 (4/2014). Những công trình nghiên cứu trên có giá trị
khoa học cao, nhìn một cách tổng quát các công trình đó đã giải quyết được
những vấn đề về lý luận, về phương pháp định hướng cho việc giải quyết những
nội dung liên quan đến đề tài. Những vấn đề liên quan đó là những chỉ dẫn, gợi
ý hết sức quý báu cho việc triển khai nội dung nghiên cứu của khoá luận. tuy
nhiên cho đến nay chưa có một công trình nào trình bày làm rõ tính lịch sử của
quy luật lượng - chất cũng như việc vận dụng quy luật này vào quá trình phát
triển kinh tế ở tỉnh Quảng Bình.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
3.1. Mục đích của đề tài
Nghiên cứu đề tài: :" Quy luật lượng - chất và sự vận dụng vào phát triển
kinh tế ở Quảng Bình" . Em muốn làm rõ các mục đích sau:
4
Làm rõ các khái niệm quy luật lượng - chất trong lịch sử triết học thông
qua các cặp phạm trù, các khái niệm bổ trợ. Đặc biệt chú ý tới quan niệm của
triết học cổ điển Đức và triết học Mác - Lênin.
Khẳng định vận dụng quy luật lượng - chất vào sự phát triển kinh tế ở tỉnh
Quảng Bình thông qua các giải pháp thể hiện của mối quan hệ biện chứng giữa
lượng và chất góp phần đáp ứng được đòi hỏi trong công tác xây dựng và phát
triển kinh tế trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
Để thực hiện mục đích trên khoá luận cần thực hiện những nhiệm vụ sau:

- Làm rõ những nội dung cơ bản của quy luật lượng - chất
- Chỉ ra thực trạng của quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở Quảng Bình
đồng thời nêu lên một số giải pháp nhằm nâng cao, phát triển kinh tế - xã hội
trong giai đoạn hiện nay.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu quy luật lượng - chất trong lịch sử triết học
Mác- Lênin và sự vận dụng vào quá trình phát triển kinh tế ở tỉnh Quảng Bình.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở khái quát nội dung cơ bản của quy luật lượng - chất. Tập trung
nhất vẫn là quy luật lượng - chất của Mác - Lênin từ đó vận dụng vào phát triển
kinh tế ở Quảng Bình.
5. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử để tìm hiểu nghiên cứu quy luật lượng - chất,
các quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam, của Chủ tịch Hồ Chí Minh để vận
dụng vào quá trình phát triển kinh tế ở tỉnh Quảng bình.
5
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài đã sử dụng một số phương pháp chủ yếu như: Phương pháp biện
chứng duy vật, phương pháp lôgic - lịch sử, phân tích - tổng hợp, diễn dịch - quy
nạp, so sánh - đối chiếu, gắn lý luận với thực tiễn để làm rõ các vấn đề mà
nhiệm vụ đề tài đặt ra.
6. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài làm rõ lý luận chung của chủ nghĩa Mác - Lênin về quy luật lượng -
chất, chỉ ra được thực trạng và những điều kiện để nâng cao hiệu quả nền kinh tế
trong giai đoạn đổi mới và đưa ra những phương hướng để phát triển kinh tế ở
tỉnh Quảng Bình hiện nay.
Đề tài đã đề xuất giải pháp để phát triển kinh tế ở Quảng Bình trong những

năm tới, đồng thời đề tài cũng là tài liệu tham khảo có giá trị cho công tác
nghiên cứu, giảng dạy, học tập cho độc giả nhất là sinh viên chuyên ngành Triết
học.
7. KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài
được kết cấu với 2 chương 4 tiết.
Chương 1: Khái luận chung về quy luật lượng - chất
Chương 2: Vận dụng quy luật lượng - chất vào phát triển kinh tế ở Quảng
Bình.
6
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I
KHÁI LUẬN CHUNG VỀ QUY LUẬT LƯỢNG - CHẤT
"Quy luật" là sản phẩm của tư duy khoa học phản ánh sự liên hệ của các sự
vật, về tính chỉnh thể của chúng. V.I.Lênin viết rằng: " Khái niệm quy luật là
một trong những giai đoạn của sự nhận thức của con người về tính thống nhất và
liên hệ, về sự phụ thuộc lẫn nhau và tính chỉnh thể của quá trình thế giới" [11,
tr.299]. Quy luật lượng - chất là quy luật nói lên cách thức phát triển của sự vật.
Trong lịch sử triết học nhân loại, từ cổ đại cho đến hiện đại quy luật lượng
- chất là một trong những nội dung quan trọng của triết học, là nhân tố góp phần
thúc đẩy sự phát triển nội tại của tư duy cũng như chỉ rõ cách thức của tự nhiên
và xã hội. Đây là một trong những chủ đề được bàn luận, dù ở khía cạnh này hay
khía cạnh khác được hình thành trực tiếp hay gián tiếp. Nội dung của quy luật là
đối tượng tranh cãi, luận bàn của nhiều trường phái, nhiều nhà triết học kể cả
phương đông và phương tây.
Tuy nhiên, sự biểu hiện các quan niệm về lượng - chất của các nhà triết học
trong lịch sử lại không nhất quán, rõ ràng. Có lúc được hiện hữu ( thông qua các
phạm trù khác), có lúc lại ẩn dấu mờ nhạt đằng sau hoặc bên trong những luận
đề, luận điểm có tính chất chủ quan hoặc khách quan của một trường phái hay
một hệ thống triết học nào đó. Vì vậy, việc tìm hiểu, diễn giải các quan niệm về

lượng - chất trong lịch sử triết học như một quy luật là việc làm vô cùng khó
khăn. Khi trình bày các khái niệm về lượng - chất, Tôi chủ yếu dựa trên quan
điểm về quy luật lượng - chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác - Lênin
làm cơ sở để phân tích các khái niệm này.
7
1.1. Khái niệm lượng, chất
1.1.1. Khái niệm về lượng
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về
mặt quy mô, trình độ, tốc độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật
cũng như các thuộc tính của sự vật. Chẳng hạn, nền kinh tế Việt Nam hiện nay
về chất là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chịu ảnh hưởng nặng nề và
lâu dài của nền sản xuất nhỏ, cơ chế bao cấp và chiến tranh, thị trường chưa phát
triển đầy đủ, thiếu tính đồng bộ. Biểu hiện là lượng với tốc độ tăng trưởng gần
7,7%, thu nhập bình quân gần 444 USD/ năm, sản lượng lương thực xấp xỉ 351
triệu tấn.
Lượng là cái vốn có của sự vật, quy định sự vật ấy là nó. Lượng của sự vật
không phụ thuộc vào ý chí, ý thức của con người. Đồng thời, lượng tồn tại cùng
với chất của sự vật. Do đó, lượng của sự vật cũng có tính khách quan như chất
của sự vật. Có những lượng là nhân tố quyết định bên trong của sự vật, nhưng có
những lượng chỉ là nhân tố bên ngoài của sự vật. Trong đời sống xã hội bên
cạnh những lượng có thể xác định chính xác bằng con số và đại lượng còn có
những lượng chỉ có thể xác định bằng phương pháp trừu tượng hoá. Chẳng hạn,
để xác định trình độ phát triển kinh tế của một nước ta dùng những con số mang
thông tin về kinh tế, còn để xác định lòng quyết tâm, lòng nhiệt thành Ta không
thể dùng con số để xác định mà phải xác định bằng phương pháp trừu tượng
hoá.
Trong lịch sử triết học, cùng với phạm trù chất, phạm trù lượng cũng được
đề cập rất sớm. Với những nhà triết học thuộc trường phái Pitago thì cơ sở, nền
tảng của mọi cái đang tồn tại trên thế giới chính là những đặc trưng về lượng.
Thời trung cổ, lượng thể hiện ở " những chất bị che dấu" trong học thuyết mang

tính kinh viện. Đó là những quan niệm phiến diện về lượng.
Đối với Arixtốt, phạm trù số lượng được ông xem xét trong những dạng
chủ yếu của nó, được xác định khi đo, đếm. Arixtốt cho rằng " cái được gọi là số
8
lượng và cái được chia thành những bộ phận cấu thành những chuỗi bộ phận
trong số đó sẽ là hai hoặc nhiều hơn, về bản chất nó là một cái gì đó xác định.
Mọi số lượng đều có rất nhiều nếu nó được đếm và có số lượng nếu nó được đo"
[33,tr. 69]. Theo Arixtốt, lượng là những con số được xác định trong sự vật, hiện
tượng thể hiện tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng. Lượng được Hêghen
quan niệm rằng đó là một tính quy định hay một giới hạn và đó là một số: "
Lượng, mà trước hết là tính số lượng với một tính quy định nào đó hay một giới
hạn nói chung, trong tính quy định hoàn chỉnh của mình là một số" [27,tr. 167].
Triết học Mác - Lênin đã tiếp nhận yếu tố hợp lý này.
Trong " Bộ tư bản", khi nghiên cứu về tư bản bất biến, tư bản khả biến và
giá trị thặng dư, C.Mác cho rằng: " đại lượng của những vật khác nhau chỉ có
thể so sánh được với nhau về lượng sau khi đã được quy thành một hệ thống
nhất. Chỉ khi nào chúng là những biểu hiện của thể thống nhất đó thì chúng mới
mang một tên gọi chung và do đó mới là những đại lượng có thể đo lường chung
được" [24, tr. 207].
Ph. Ăngghen phân tích và làm rõ số lượng của sự vật được biểu thị các mức
độ khác nhau về số lượng: " Mọi chất lượng đều có vô vàn những mức độ khác
nhau về số lượng, thí dụ những sắc thái của màu sắc, độ cứng và độ mềm, độ
bền, v v , và mặc dù các mức độ ấy khác nhau về chất, nhưng chúng đều có thể
đo được và nhận thức được" [18,tr. 403]. Trong " Bút ký triết học", V.I.Lênin đã
nhất trí với quan niệm của Hêghen về lượng.
Trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng, triết học Mác - Lênin đã
nêu định nghĩa về lượng: " Lượng là một phạm trù triết học để chỉ tính quy định
vốn của sự vật, biểu thị số lượng, quy mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động
và phát triển của sự vật cũng như các thuộc tính của nó" [25, tr. 310].
Từ định nghĩa trên, ta thấy rằng hàm chứa trong phạm trù về lượng bao

gồm những mặt sau:
9
Thứ nhất, lượng tồn tại khách quan, lượng là thuộc tính khách quan, tồn tại
gắn liền với sự vật. Chất và lượng luôn tồn tại trong mỗi sự vật, hiện tượng. Bất
kỳ chất nào cũng có một lượng nhất định và bất kỳ lượng nào cũng là lượng của
chất. Sự vật tồn tại khách quan, chất tồn tại khách quan nên lượng là cái gắn liền
với sự vật, gắn liền với chất đương nhiên cũng tồn tại khách quan. Trong sự tồn
tại khách quan ấy, mỗi sự vật có vô vàn chất thì tương ứng với nó, sự vật cũng
có vô vàn lượng. Sự vật thống nhất trong sự tồn tại của chất và lượng nên chất
và lượng của sự vật quy định lẫn nhau, một chất nhất định trong mỗi sự vật luôn
có một lượng tương ứng với nó.
Thứ hai, lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có
của sự vật, hiện tượng về mặt quy mô, trình độ phát triển của nó, thường được
biểu thị con số các thuộc tính, các yếu tố cấu thành sự vật. Lượng của sự vật
biểu thị kích thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít, quy mô lớn hay nhỏ,
trình độ cao hay thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm, màu sắc đậm hay nhạt. Những
con số chính xác mà ta đo được, đếm được đó là biểu hiện của lượng trong tự
nhiên, còn trong xã hội có những lượng có thể xác định như số lượng dân cư, số
lượng đội ngũ cán bộ, công chức thì lại có những lượng khó có thể xác định
bằng con số, đại lượng cụ thể, để nhận thức được nó cần phải vận dụng tư duy
trừu tượng, khái quát hoá cao.
Đặc trưng của lượng được biểu thị bằng con số các thuộc tính, các yếu tố
về mặt quy mô và trình độ phát triển. Do đó, sự vật khác nhau thì thông số về
lượng khác nhau, sự vật càng phức tạp thì những thông số về lượng càng phức
tạp. Sự vật, hiện tượng có thể có vô vàn lượng, vì chẳng những chất mà còn các
thuộc tính về chất cũng có tính quy định về lượng.
Thứ ba, lượng biểu hiện tình trạng thường xuyên biến động của sự vật. Nếu
chất có tính tương đối ổn định thì lượng là cái thường xuyên biến đổi, tạo nên
thể thống nhất của hai mặt đối lập. Chính sự thường xuyên biến đổi của lượng
10

ảnh hưởng đến chất của sự vật. Song lượng tăng vẫn nằm trong khuôn khổ, giới
hạn nhất định. Nếu vượt quá khuôn khổ, giới hạn thì sẽ làm thay đổi về chất.
Tuy vậy, sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có ý nghĩa tương đối tuỳ
thuộc vào những mối quan hệ cụ thể trong từng điều kiện nhất định mà người ta
đã xác định đâu là chất, đâu là lượng của sự vật. Nghĩa là cái trong mối quan hệ
này là chất thì trong mối quan hệ khác lại là lượng và ngược lại. Ví dụ: những
con số là những quy định khác nhau thuần tuý về lượng, nhưng nó cũng đầy rẫy
những sự khác nhau về chất. Số 16 không những là tính cộng của 16 đơn vị mà
còn là bình phương của 4, tứ thừa của 2. Số 16 được coi là chất trong mối quan
hệ phân biệt nó với các số 0. Số 16 được coi là lượng trong mối quan hệ là tổng
của 16 số 1.
Như vậy, lượng là tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng, chỉ rõ về
mặt quy mô, tốc độ, trình độ phát triển của sự vật, hiện tượng. Nói đến lượng
của sự vật tức là sự vật đó lớn hay bé, tốc độ phát triển nhanh hay chậm, trình độ
cao hay thấp đo bằng các đại lượng cụ thể, bằng số tuyệt đối như trọng lượng,
thể tích hoặc so sánh với vật thể khác, thời kỳ này với thời kỳ khác.
Sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ là tương đối. Cùng một sự vật trong
mối liên hệ này là lượng nhưng ở mối liên hệ khác lại là chất và ngược lại.
Chẳng hạn, số lượng sinh viên học giỏi nhất định của một lớp sẽ nói lên chất
lượng học tập của lớp đó. Điều này cũng có nghĩa là dù số lượng cụ thể quy định
thuần tuý về lượng, song số lượng ấy cũng có tính quy định về chất của sự vật.
1.1.2. Khái niệm về chất
Trong lịch sử triết học phạm trù về chất được đề cập rất sớm. Ngay từ thời
cổ đại, nhiều nhà triết học Hy Lạp đã đồng nhất vật chất với sự vật. Trong " học
thuyết phạm trù" của Arixtốt, chất và lượng là hai phạm trù cơ bản, nếu thiếu nó
thì bản chất tuy tồn tại nhưng không thể nhận thức được. Arixtốt là người đầu
tiên đã phân loại các phạm trù, trong đó có phạm trù chất. Theo ông, màu trắng
và màu đen là những chất khác nhau. Với Hêghen trong lý luận nhận thức của
11
mình đã cố gắng nêu lên phạm trù chất. Hêghen viết: " Tính quy định, cô lập về

mình với tư cách là tính quy định hiện có, đó là chất " "chất được phân biệt như
cái hiện có, đó là thực tại" [27, tr.157]. Như vậy, theo Hêghen, chất là tính quy
định để phân biệt bản thân nó với cái khác, chất là cái khách quan. Quan điểm
của triết học Mác - Lênin đã tiếp nhận yếu tố hợp lý này.
Kế thừa và phát triển quan điểm của các nhà triết học đi trước, C.Mác và
Ph. ăngghen đã tổng kết và rút ra quy luật lượng - chất.
Bàn về chất của sự vật, hiện tượng, C.Mác cho rằng mỗi sự vật đều có hai
mặt chất và lượng, đó là thể thống nhất của hai mặt đối lập trong một sự vật.
Trong quá trình tồn tại và phát triển, sự vật bộc lộ ra những tính chất của nó, tất
cả những tính chất đó chính là thuộc tính của sự vật. Bởi tính nhiều vẽ, phong
phú của sự vật nên mỗi sự vật có muôn vàn thuộc tính, mà chất của sự vật là sự
thống nhất của nhiều thuộc tính nên mỗi sự vật có vô vàn chất " Mỗi sự vật có
ích như sắt, giấy đều có thể xét về hai mặt: mặt chất và mặt lượng. Mỗi sự vật
như thế là một tổng thể của nhiều thuộc tính và vì vậy mà có thể có ích về nhiều
mặt khác nhau" [ 24, tr. 207]
Đề cập đến chất của sự vật, Ph. Ăngghen đã bổ sung tính thống nhất, không
thể tách rời giữa chất và sự vật. Theo Ph Ăngghen, chất là cái vốn có của sự vật,
không có chất lượng tồn tại thuần tuý mà chất là chất của sự vật, lượng là lượng
của sự vật. Chất, lượng thống nhất với nhau trong mỗi sự vật: " Những chất
lượng không tồn tại, mà những sự vật có chất, lượng, hơn nữa, những sự vật có
vô vàn chất mới tồn tại [25, tr. 308]
Ph. Ăngghen đi sâu phân tích những biểu hiện của quy luật chuyển hoá
giữa lượng và chất trong các lĩnh vực của giới tự nhiên như cơ học, trong lĩnh
vực vật lý, lĩnh vực hoá học. Ph. Ăngghen đánh giá rất cao những kết quả
nghiên cứu của Hêghen trong lĩnh vực tự nhiên mà nhất là trong lĩnh vực hoá
học, Ph. Ăngghen viết: " Người ta có thể gọi hoá học là khoa học của sự biến
đổi về chất của vật thể sinh ra do sự thay đổi về thành phần số lượng" [32, tr.
12
870]. Chính trong lĩnh vực hoá học, Ph. Ăngghen đã tìm ra sự khác nhau giữa
các chất, tính chất giống nhau của các vật thể và rút ra thuộc tính vật lý của các

hợp chất. Ph. Ăngghen viết: " Từ tính chất giống nhau của các vật thể, mà chúng
ta đã biết trong mỗi dãy, chúng ta còn có thể rút ra được những kết luận về thuộc
tính vật lý của các hợp chất trong dãy mà chúng ta chưa biết, nhất là của các hợp
chất tiếp theo ngay sau các hợp chất đã biết, chúng ta có thể đoán trước các
thuộc tính ấy, điểm sôi, vv với một mức độ khá chắc chắn" [18, tr. 129].
Với V.I.Lênin, khi bàn về chất, ngay lời mở đầu: khái niệm chung về lôgic
trong " Bút ký triết học" quan điểm của V.I. Lênin được thể hiện rõ ràng, cụ thể.
V.I.Lênin cho rằng : Tồn tại thuần tuý - " không có sự quy định nào tiếp" nghĩa
là sự quy định đã là chất" [27, tr. 154]. Hoặc " chất là một tính quy định cho nó,
một cái được thiết định, là một đơn vị" [27, tr.164]. Qua phân tích và nêu một
cách khái quát, đến đây, V.I.Lênin đã đưa ra một khái niệm về chất.
Từ những ý kiến trên, chất theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin được
định nghĩa như sau: " Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định
khách quan vốn có của sự vật và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc
tính làm cho nó là nó mà không phải là cái khác" [25, tr.307].
Với định nghĩa trên, ta thấy chất với tư cách là một phạm trù triết học hàm
chứa những điểm như sau: chất tồn tại khách quan; chất là sự thống nhất của các
thuộc tính; chất biểu hiện tình trạng tương đối ổn định của sự vật, hiện tượng.
Thứ nhất, chất tồn tai khách quan, chất là cái vốn có của sự vật, hiện tượng
do những thuộc tính, những yếu tố cấu thành quy định; chất của sự vật không
phải là quy về từng đặc tính của nó mà là một tổng thể bao quát toàn bộ sự vật
và không tách rời khỏi sự vật. Do đó, khái niệm chất gắn liền với sự tồn tại của
sự vật. Sự vật trong khi vẫn là bản thân nó thì không thể mất chất của nó. Chất
xuất phát từ kết cấu bên trong của sự vật, hiện tượng. Chất là chất của sự vật,
không có sự vật nào tồn tại mà không có chất quy định và càng không thể có
chất nằm ngoài sự vật.
13
Chất của sự vật, không tồn tại mọt cách thuần tuý bên ngoài sự vật và cũng
không có chất do cảm giác chủ quan của chúng ta tạo ra. Mỗi sự vật, hiện tượng
là một chất khác nhau, chính tính đa dạng, phong phú của sự vật, hiện tượng trên

thế giới đã tạo nên vô vàn sự vật, hiện tượng khác nhau về chất. Khi bàn về vấn
đề này, chủ nghĩa duy tâm cho rằng cái gọi là chất chỉ là cảm giác chủ quan của
con người hoặc chất là cái tồn tại thuần tuý không gắn liền với sự vật. Quan
niệm về chất ở thời trung cổ thể hiện trong học thuyết kinh viện về " Những chất
bị che giấu". Trái lại, theo quan điểm của triết học duy vật biện chứng, chất là
cái vón có của sự vật, không tách rời sự vật.
Các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên cũng như trong xã hội luôn tác động
qua lại lẫn nhau. Chính sự tác động qua lại ấy đã tạo nên những tính chất riêng ở
mỗi sự vật, hiện tượng. Chất của sự vật là tổng hợp những thuộc tính khách quan
vốn có của nó, nói lên nó là cái gì, để phân biệt nó với cái khác. Chất của sự vật
mang tính khách quan, tương đối ổn định, biểu hiện thông qua những thuộc tính.
Thứ hai, chất là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính của sự vật. Theo
quan điểm của triết học Mác - Lênin " Thuộc tính của sự vật là những tính chất,
những trạng thái, những yếu tố cấu thành sự vật [22, tr. 265]. Đó là những cái
vốn có của sự vật từ khi sự vật được sinh ra hoặc được hình thành trong sự vận
động và phát triển của nó. Tuy nhiên, những thuộc tính vốn có của sự vật, hiện
tượng chỉ được bộc lộ ra thông qua sự tương tác qua lại với các sự vật, hiện
tượng khác. Như vậy, chất của sự vật không đồng nhất với thuộc tính, thuộc tính
là một khía cạnh nào đó về chất của sự vật, nó chỉ được bộc lộ ra trong mối quan
hệ qua lại với sự vật khác.
Đề cập đến thuộc tính, Ph.Ăngghen cho rằng: " những giác quan khác nhau
của chúng ta có thể mang lại cho chúng ta những ấn tượng tuyệt đối khác nhau
về chất. Do đó, những thuộc tính mà chúng ta thể nghiệm được bằng thị giác,
khứu giác, thính giác, vị giác và xúc giác sẽ tuyệt đối khác nhau. Nhưng ngay ở
đây, sự nghiên cứu càng tiến lên thì các sự khác nhau càng rơi rụng đi. Người ta
14
đã thừa nhận từ lâu rằng khứu giác và vị giác là những cảm giác đồng loại, có họ
hàng với nhau, cảm biết những thuộc tính cùng loại nếu không nói là đồng nhất
với nhau. Cả thị giác lẫn thính giác đều cảm biết được những giao động sóng.
Xúc giác và thị giác bổ sung lẫn nhau đến mức chỉ nhìn một vật chúng ta thường

có thể tiên đoán được những thuộc tính của nó theo xúc giác. Và cuối cùng, bao
giờ cũng là một cái " tôi" nó thu nhận vào trong nó tất cả những ấn tượng cảm
tính khác nhau ấy, cải biến chúng và do đó mà thống nhất chúng lại thành một
chỉnh thể; mặt khác những ấn tượng khác nhau ấy do cùng một vật cung cấp,
đều biểu hiện ra là những thuộc tính chung của vật ấy và do đó mang lại cho
chúng ta khả năng nhận thức vật ấy" [18, tr. 404, 405].
Mỗi thuộc tính là một phức hợp đặc trưng về chất. Thuộc tính hình thành
nên chất của sự vật. Do đó, thuộc tính khác nhau sẽ hình thành nên chất khác
nhau. Khi đề cập đến thuộc tính, Ph. Ăngghen muốn nhấn mạnh đến quan hệ
giữa chất với thuộc tính cũng như tính nhiều mặt của nó " Điều không thể tranh
cãi được là cái cốc vừa là một hình trụ bằng thuỷ tinh, vừa là một dụng cụ dùng
để uống. Nhưng cái cốc không phải chỉ có hai thuộc tính, hoặc hai tính chất
khác, những mặt khác, cùng những quan hệ qua lại và " những quan hệ gián
tiếp" với thế giới bên ngoài [ 24, tr. 210].
Thứ ba, chất biểu hiện tình trạng tương đối ổn định của sự vật, hiện tượng.
Triết học Mác - Lênin khẳng định rằng quá trình vận động của sự vật, hiện
tượng bao hàm cả sự đứng im tương đối. Nghĩa là trong sự đứng im vẫn có sự
vận động, vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối bảo tồn cấu
trúc, làm cho nó tồn tại mà chưa biến thành cái khác, biểu hiện thành các sự vật,
hiện tượng cụ thể. Chính nhờ sự đứng im tương đối mà nhiều sự vật, hiện tượng
vô cùng phong phú và đa dạng trong thế giới vật chất đang tồn tại trong trạng
thái nó là nó mà chưa bị phân hoá thành cái khác. Như vậy, đứng im là sự ổn
định, là sự bảo toàn tính quy định của sự vật, hiện tượng; là quá trình vận động
trong phạm vi nó là nó mà không phải cái khác. Tình trạng ổn định tương đối
15
của sự vật giúp chúng ta định hình được, xác định và phân biệt được sự vật này
khác sự vật kia. Nhưng ngay trong khi sự vật chưa có sự biến đổi về chất thì
trong bản thân nó đang diễn ra sự biến đổi dần dần về quy mô, tốc độ, trình độ.
Đó chính là sự biến đổi về lượng.
Vì vậy, khái niệm chất của triết học khác khái niệm chất theo tư duy thông

thường là chất liệu cấu thành sự vật, hiệu quả công việc, độ tốt xấu bền vững
hoặc không bền vững của sự vật. Chất được cấu thành từ nhiều thuộc tính của sự
vật, mỗi thuộc tính biểu hiện một phần của chất. Chất của sự vật không những
được quy định bởi những yếu tố tạo thành mà còn bởi phương thức liên kết giữa
các yếu tố tạo thành.
Như vậy, chất là tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng được biểu
hiện thông qua các thuộc tính và đặc điểm cấu trúc của sự vật. Tính quy định là
cái vốn có của sự vật, hiện tượng để phân biệt sự vật này với sự vật khác. Tính
quy định này được thể hiện thông qua các thuộc tính. Có thuộc tính cơ bản và
không cơ bản. Thuộc tính cơ bản quy định chất của sự vật, nếu thuộc tính cơ bản
mất đi thì chất của sự vật thay đổi, còn thuộc tính không cơ bản thì trong quá
trình tồn tại của sự vật, có những thuộc tính không cơ bản mới nảy sinh và có
những thuộc tính không cơ bản mất đi nhưng chất của sự vật không thay đổi.
thuộc tính chỉ bộc lộ thông qua quan hệ với sự vật khác.
1.2. Nội dung của quy luật
1.2.1. Lượng đổi tất yếu dẫn tới chất đổi
Với " Học thuyết về tồn tại", Hêghen cho rằng nó đã có một chất riêng,
chất ấy làm nên sự tồn tại ấy, chất ấy là sự quy định để làm nên chất khác và liên
tục có sự thay đổi về chất. Nhưng tồn tại này, chất này ban đầu là đồng nhất, sự
đồng nhất ấy bắt đầu có sự tăng lên về mặt lượng. Nhờ có sự thêm về lượng mà
dần dần có sự khác biệt, sự khác biệt ấy sẽ tăng lên trong giới hạn mà sự vật còn
là nó. Một khi sự gia tăng kia vượt khỏi giới hạn thì lúc đó sẽ có những thay đổi
về chất. Sự đồng nhất trừu tượng bắt đầu bị phá vỡ và dẫn đến một trạng thái
16
mới mà theo Hêghen đó là giai đoạn mới về chất của sự vật ( sinh thành). Để
sinh thành, vượt qua độ là bước nhảy, thực hiện bước nhảy ra đời sự vật mới.
Như vậy, hình thành một quá trình diễn ra quy luật đầu tiên của phép biện
chứng: thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất. Hêghen là người đầu tiên
trình bày quy luật lượng - chất một cách có hệ thống.
Kế thừa những quan điểm hợp lý trên, phép biện chứng duy vật đã có quan

niệm đúng đắn, khoa học về chất, về lượng, về mối quan hệ biện chứng giữa
lượng và chất. Trên cơ sở đó, phép biện chứng duy vật đã khái quát thành quy
luật chuyển hoá từ những thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và
ngược lại. Đây là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Phép biện chứng duy vật do C.Mác và Ph. Ăngghen sáng lập, V.I.Lênin
phát triển. Hình thức này được hình thành trên cơ sở C.Mác và Ph. Ăngghen kế
thừa những điểm tích cực và lọc bỏ những điểm hạn chế trong phép biện chứng
cổ đại và phép biện chứng duy tâm, sáng tạo phép biện chứng duy vật - giai
đoạn phát triển cao của phép biện chứng. "Sự ra đời của phép biện chứng đánh
dấu một giai đoạn phát triển quan trọng trong quan niệm về chất, về lượng và
quy luật về mối quan hệ qua lại giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất
nói chung" [25, tr. 306].
Công lao và đóng góp có ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn của C.Mác và Ph.
Ăngghen là ở chổ: từ những dẫn chứng trên đã khái quát và lần đầu tiên diển đạt
thành một quy luật phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy: " Lần đầu tiên diễn
đạt một quy luật phát triển chung của giới tự nhiên, của tự nhiên, của xã hội và
của tư duy dưới một hình thức có giá trị phổ biến như thế thì cái đó mãi mãi vẫn
sẽ là một công lao có ý nghĩa lịch sử to lớn" [18, tr. 130-131].
Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay
đổi về chất và ngược lại vạch ra cách thức của sự phát triển.
Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có mặt chất và lượng. Chất và lượng là
hai mặt đối lập của một thể thống nhất. Do đó, không thể có chất và lượng tồn
17
tại một cách thuần tuý, tách biệt mà trái lại chúng tồn tại trong mối liên hệ với
nhau trong mỗi sự vật, hiện tượng. Chất tồn tại thông qua lượng, lượng là biểu
hiện của chất; chất nào lượng đó, lượng nào chất đó, không có sự vật nào hoặc
chỉ có chất hoặc chỉ có lượng. Nói cách khác không có chất, lượng tồn tại thuần
tuý, chất là chất của sự vật, lượng là lượng của sự vật, chất và lượng tồn tại
trong sự liên hệ tác động lẫn nhau trong mỗi sự vật.
Chất và lượng thay đổi cùng với quá trình vận động, phát triển của sự vật.

Sự thay đổi đó không độc lập, không tách rời nhau mà là sự thay đổi trong quan
hệ chặt chẽ với nhau. Sự thay đổi về lượng của sự vật có ảnh hưởng tới sự thay
đổi về chất của nó và ngược lại sự thay đổi về chất của sự vật tương ứng với sự
thay đổi về lượng của sự vật. Trong tác phẩm " Chống Đuy Rinh", Ph. Ăngghen
đưa ra nhận xét của C.Mác khi bàn về tư bản bất biến, tư bản khả biến và giá trị
thặng dư rằng: " ở đây cũng như trong khoa học tự nhiên, tính chất đúng đắn của
cái quy luật do Hêghen phát hiện trong cuốn lôgic học của ông ta cũng được xác
minh, quy luật đó là: những thay đổi đơn thuần về lượng, đến một mức độ nhất
định, sẽ chuyển hoá thành những sự khác nhau về chất" [17, tr. 297].
Phê phán quan niệm của Nê - gơ - li cho rằng những sự khác nhau có thật
về chất là không nhận thức được và sẽ không tồn tại trong tự nhiên những sự
khác nhau tuyệt đối như thế. Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: " Nê - gơ - li cho rằng
những sự khác biệt về chất chỉ có thể giải thích được trong chừng mực mà
chúng ta có thể quy định được thành những khác biệt về lượng. Đối với ông ta
thì số lượng và chất lượng là những phạm trù tuyệt đối khác nhau" [18, tr. 405].
Sự thay đổi về chất lượng phải tương ứng với sự thay đổi về số lượng.
Theo Ph. Ăngghen " tất cả những sự khác nhau về chất trong giới tự nhiên đều
dựa hoặc là trên thành phần hoá học khác nhau, hoặc là trên những số lượng hay
hình thức vận động ( năng lượng) khác nhau, hoặc như trong hầu hết mọi trường
hợp đều dựa trên cả hai cái đó. Như thế là nếu như không thêm vào hoặc bớt đi
một số vật chất hay vận động, nghĩa là không thay đổi một vật thể về mặt số
18
lượng thì không thể thay đổi được chất lượng của vật thể ấy. Dưới hình thức ấy,
luận đề thần bí của Hêghen không những đã trở nên hoàn toàn hợp lý mà thậm
chí còn khá hiển nhiên nữa" [18, tr. 122]. Chính vì vậy, Ph. Ăngghen đã khẳng
định " Nếu có sự thay đổi nào về chất lượng thì sự biến đổi ấy phải do một sự
biến đổi tương ứng về số lượng quyết định" [18, tr. 125]. Tuy vậy, không phải
sự thay đổi nào của lượng cũng ngay lập tức làm thay đổi căn bản về chất của sự
vật. Ở một giới han j nhất định, khi lượng của sự vật thay đổi nhưng chất của sự
vật chưa thay đổi căn bản. C.Mác nói: " Một giá trị chỉ có thể biến thành tư bản

khi nào nó đạt đến một số lượng tối thiểu, số lượng này khác nhau tuỳ theo các
trường hợp nhưng trong mỗi trường hợp cá biệt thì lại là một số lượng nhất
định" [17, tr. 297].
1.2.2. Chất đổi đòi hỏi lượng biến đổi theo cho phù hợp
Giữa chất và lượng có mối quan hệ biện chứng với nhau. Trong sự vật, quy
định về lượng không bao giờ tồn tại nếu không có quy định về chất và ngược lại.
Sự thay đổi về lượng và về chất của sự vật diễn ra cùng với sự vận động và phát
triển của sự vật. Nhưng sự thay đổi đó có quan hệ chặt chẽ với nhau chứ không
tách rời nhau. Sự thay đổi về lượng của sự vật có ảnh hưởng tói sự thay đổi về
chất của nó và ngược lại. Ở một giới hạn nhất định khi lượng của sự vật thay đổi
nhưng chất cuả sự vật chưa thay đổi căn bản hay nói khác đi ở trong đó lượng
thay đổi nhưng chất chưa đổi. Khi lượng của sự vật được tích luỹ vượt quá giới
hạn nhất định gọi là độ thì chất cũng sẽ mất đi, chất mới thay thế chất cũ, chất
mới ấy tương ứng với lượng mới tích luỹ được.
Sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi về chất của sự vật trong một giới
hạn nhất định được gọi là độ.
Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin " Độ là một phạm trù triết học
dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, nó là khoảng giới hạn mà trong
đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật" [25, tr
311]. Ph. Ăngghen nêu ra ba trạng thái biến đổi của nước, trong khoảng nhiệt độ
19
từ 0
0
C 100
0
C, nước nguyên chất vẫn ở trạng thái lỏng, nếu nhiệt độ giảm xuống
dưới 0
0
C, nước từ thể lỏng chuyển thành thể rắn, nếu nhiệt độ từ 100
0

C trở lên
thì nước chuyển từ thể lỏng sang thể hơi. Nước nguyên chất cũng thay đổi về
chất. Sự thống nhất giữa chất và lượng không phải tuyệt đối vĩnh viễn trong một
giới hạn nhất định. Bởi vì, ngay trong phạm vi độ, hai mặt chất và lượng vẫn tác
động lẫn nhau làm cho sự vận vận động và phát triển. Khi sự thay đổi về lượng
đã vượt quá độ của sự thì nó sẽ phá vỡ sự ổn định tương đối của sự vật và
chuyển thành sự vật khác. Nghĩa là đã có sự thay đổi về chất.
Khi sự vật diễn ra sự thay đổi về chất, người ta gọi là bước nhảy. "Bước
nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ giai đoạn chuyển hoá về chất của sự
vật do những thay đổi về lượng trước đó gây ra" [ 25, tr. 312].
Bước nhảy có vai trò hết sức quan trọng, đề cập đến vấn đề này V.I.Lênin
cho rằng: " Tính tiệm tiến mà không có bước nhảy vọt thì không giải thích được
gì cả" [27, tr. 173].
Nếu không có " bước nhảy" thì trong sự vận động chỉ có sự vận động, sự
biến đổi dần dần, từ từ, không có sự phá vỡ chất cũ và hình thành chất mới.
Không có " bước nhảy" cũng tức là không có sự thay đổi về chất, không có sự
chuyển hoá, không có sự phát triển, không có sự ra đời cái mới. Không có "
bước nhảy" thì sự vật đang tồn tại sẽ tồn tại mãi mãi, sự vật này khác sự vật
khác chỉ là sự khác biệt về lượng. Bởi thế, không phải ngẫu nhiên mà quan điểm
của triết học Mác - Lênin đặc biệt chú ý đến bước nhảy. Bước nhảy là hình thức
phát triển tất yếu trong quá trình phát triển của sự vật. Hình thức bước nhảy vô
cùng phong phú: bước nhảy trong tự nhiên khác bước nhảy trong xã hội. Trong
tự nhiên, khi lượng biến đổi đạt tới điểm nút thì bước nhảy được thực hiện
không cần thông qua hoạt động của con người. Nói cách khác, bước nhảy trong
tự nhiên mang tính tự phát ( tự động). Thế nhưng, bước nhảy trong xã hội thực
hiện thông qua hoạt động của con người. Do vậy, bước nhảy trong xã hội thực
20
hiện nhanh hoặc chậm còn tuỳ thuộc vào mục đích, lợi ích của con người, phụ
thuộc vào điều kiện hoàn cảnh, tình thế, thời cơ
Điểm đánh dấu bước nhảy từ chất này qua chất khác gọi là điểm nút. "

Điểm nút là một phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi
về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật" [22, tr. 269]. Những thay đổi về
lượng diễn ra tại điểm nút sẽ làm thay đổi về chất của sự vật. Ph. Ăngghen viết:
" Những cái mà người ta gọi là hằng số vật lý học thì phần nhiều chỉ những điểm
nút, ở những điểm ấy chỉ cần thêm vào hoặc bớt đi một số lượng vận động thì
biến đổi được trạng thái của vật thể về chất, cho nên ở những điểm ấy, lượng đổi
thành chất" [32, tr. 870]. Sự thay đổi về lượng tai điểm nút sẽ làm cho chất mới
của nó ra đời. Lượng mới và chất mới của sự vật thống nhất với nhau tạo nên độ
mới và điểm nút mới của sự vật ấy. Sự vận động và phát triển là không ngừng,
do đó sự vận động, biến đổi của các sự vật sẽ hình thành một đường nút của
những quan hệ về độ.
Qua dẫn chứng trong tự nhiên, trong xã hội, Ph. Ăngghen đã làm rõ:" Thay
đổi về lượng làm cho chất của sự vật biến đổi cũng như thay đổi về chất làm cho
sự vật biến đổi, nghĩa là lượng biến thành chất và ngược lại" [17, tr. 299- 300].
Quá trình vận động và phát triển của sự vật diễn ra bằng cách: Trước hết,
lượng biến đổi dần dần theo chiều tăng hoặc giảm, vượt quá độ của sự vật thì sẽ
làm cho chất thay đổi. Chất thay đổi là kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng,
sự vật đã biến thành sự vật khác. Trong sự vật mới, lượng mới lại biến đổi đến
một giới hạn nhất định lại có sự biến đổi về chất cứ như thế sự vận động và
phát triển của sự vật lúc thì biến đổi tuần tự về lượng, lúc thì nhảy vọt về chất
Sau khi, chất đã hình thành do sự biến đổi về lượng gây nên, chất mới đó
lại quy định sự biến đổi của lượng về quy mô, tốc độ, nhịp độ. Sự chuyển hoá từ
những thay đổi về chất dẫn đến những sự thay đổi về lượng xảy ra một cách phổ
biến, đòi hỏi phải có những điều kiện cần thiết. Ph. Ăngghen khẳng định: " Cũng
21
như sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, quá trình chuyển hoá lượng
- chất mang tính khách quan và tính phổ biến" [17, tr. 18].
1.3. Ý nghĩa phương pháp luận
Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất của hai mặt lượng và
chất. Nội dung quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những

sự thay đổi về chất và ngược lại vạch ra cách thức biến đổi, phát triển của sự vật,
hiện tượng. Đó là quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa hai mặt lượng - chất,
trong đó chất là cái tương đối ổn định, lượng là mặt thường xuyên biến đổi. Sự
thay đổi của sự vật, hiện tượng luôn bắt đầu từ sự thay đổi dần dần về lượng
trong khuôn khổ của độ, tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật.
Sự thay đổi từ chất cũ sang chất mới được thực hiện bởi các bước nhảy. Chất
mới ra đời tác động trở lại lượng đã thay đổi của sự vật. Lượng đổi dẫn đến chất
đổi, chất đổi làm cho lượng của nó thay đổi theo. Cứ như vậy, sự vận động, biến
đổi và phát triển không ngừng.
Học tập, nghiên cứu và nắm vững quan điểm triết học Mác - Lênin về mối
quan hệ biện chứng giữa chất và lượng cùng với ý nghĩa phương pháp luận của
nó là cơ sở lý luận vững chắc để vận dụng giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt
ra. Trong đó có vấn đề xây dựng và phát triển kinh tế ở tỉnh Quảng Bình.
Vì bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có phương diện chất và lượng tồn tại
trong tình quy định lẫn nhau, tác động và làm chuyển hoá lẫn nhau. do đó, trong
nhận thức và thực tiễn cần phải coi trọng cả hai loại chỉ tiêu về phương diện chất
và lượng tạo nên sự nhận thức toàn diện về sự vật, hiện tượng.
Vì những thay đổi về lượng của sự vật, hiện tượng có khả năng tất yếu
chuyển hoá thành những thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng và ngược lại.
Do đó, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn tuỳ theo mục đích cụ thể cần từng
bước tích luỹ về lượng để có thể làm thay đổi về chất; đồng thời, có thể phát huy
tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi về lượng của sự vật, hiện tượng.
22
Vì sự thay đổi về lượng chỉ có thể dẫn tới những biến đổi về chất của sự
vật, hiện tượng với điều kiện lượng phải được tích luỹ tới giới hạn điểm nút. Do
đó, trong công tác thực tiễn cần phải khắc phục tư tưởng nôn nóng tả khuynh;
mặt khác theo tính tất yếu quy luật thì khi lượng đã được tích luỹ đến giới hạn
điểm nút sẽ tất yếu có khả năng diễn ra bước nhảy về chất của sự vật, hiện
tượng. Vì thế cũng cần khắc phục tư tưởng bảo thủ hữu khuynh trong công tác
thực tiễn. Tả khuynh chính là hành động bất chấp quy luật, chủ quan, duy ý chí,

không tích luỹ về lượng mà chỉ chú trọng thực hiện những bước nhảy liên tục về
chất. Hữu khuynh là sự biểu hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ không giám thực hiện
bước nhảy mặc dù lượng đã được tích luỹ tới điểm nút và quan niệm phát triển
chỉ đơn thuần là sự tiến hoá về lượng.
Vì bước nhảy của sự vật, hiện tượng là hết sức đa dạng, phong phú. Do
vậy, trong nhận thức và thực tiễn cần phải có sự vận dụng linh hoạt các hình
thức của bước nhảy cho phù hợp với từng điều kiện, từng lĩnh vực cụ thể. Đặc
biệt, trong đời sống xã hội, quá trình phát triển không chỉ phụ thuộc vào điều
kiện khách quan mà còn phụ thuộc vào nhân tố chủ quan của con người. Do đó,
cần phải nâng cao tính tích cực, chủ động của chủ thể để thúc đẩy quá trình
chuyển hoá từ lượng đến chất mới một cách có hiệu quả nhất.
Xuất phát từ những điều trên, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn đòi hỏi phải quan tâm đến quá trình tích luỹ về lượng, bởi vì không có quá
trình này thì không có sự thay đổi căn bản về chất. Sự vật cũng không thể mất
đi, cái mới tiến bộ hơn không thể ra đời thay thế. Khi chất mới ra đời thì phải
biết xác định quy mô, tốc độ phát triển mới về lượng cho phù hợp, không được
thoả mãn dừng lại.
Chẳng hạn trong xã hội, sự tích luỹ không ngừng về lượng các yếu tố như
phát triển kinh tế, giác ngộ của quần chúng, năng lực của người lao động đến
một giới hạn độ nhất định tới điểm nút đã làm nên cuộc cách mạng xã hội, thiết
lập một xã hội mới. Ở xã hội mới, các yếu tố về lượng lại không ngừng được
23
tích luỹ. Như vậy, sự thay đổi về lượng dẫn tới sự thay đổi về chất và ngược lại
khi xã hội cũ mất đi, xã hội mới ra đời nó lại thiết lập cho mình một lượng mới.
Tóm lại: Quy luật lượng - chất có ý nghĩa quan trọng, góp phần định
hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, cải tạo hiện thực, cải
tạo chính bản thân con người. Để thực hiện được chúng, cần phải nắm chắc cơ
sở lý luận và vận dụng một cách sáng tạo vào trong hoạt động thực tiễn của bản
thân. Trong qua trình phát triển kinh tế đất nước nói chung và việc phát triển
kinh tế ở tỉnh Quảng bình nói riêng cần nắm vững quy luật lượng chất, xem xét

sự vật, hiện tượng trong mối liên hệ với nhau để có thể đề ra những chính sách
chủ trương đúng đắn.
Cần vận dụng đúng đắn quy luật lượng chất vào việc nghiên cứu tình hình
phát triển kinh tế ở tỉnh Quảng Bình nhằm đem lại cái nhìn khách quan, chính
xác, tránh tình trạng chủ quan, bảo thủ, chỉ nhìn nhận được một khía cạnh nào
đó của sự vật hiện tượng. Bên cạnh đó, cần nhìn nhận đúng những khó khăn,
phức tạp của quá trình đổi mới, từ đó có cái nhìn lạc quan và tin tưởng. Đồng
thời, với việc đưa ra được xu hướng vận động chung của kinh tế, đề xuất những
giải pháp đem lại tính hiệu quả, phát triển kinh tế - xã hội Quảng Bình một cách
vững chắc và an toàn nhất.
24
CHƯƠNG 2:
QUY LUẬT LƯỢNG – CHẤT VÀ SỰ VẬN DỤNG VÀO PHÁT TRIỂN
KINH TẾ Ở QUẢNG BÌNH
2.1 Sơ lược về tình hình kinh tế - xã hội ở tỉnh Quảng Bình
2.1.1 Tổng quan về tỉnh Quảng Bình
Quy luật lượng - chất cho ta thấy mọi sự vật hiện tượng đều có liên hệ với
nhau, không có gì là biệt lập tách rờikhỏi thế giới vật chất. Vì vậy, muốn nghiên
cứu quá trình phát triển kinh tế của tỉnh Quảng Bình trước hết ta cần có cái nhìn
tổng quan về tỉnh cũng như những điều kiện tự nhiên, xã hội để có cái nhìn toàn
diện hơn trong việc hoạch định những chính sách phát triển kinh tế.
Tỉnh quảng Bình nằm ở Bắc Trung Bộ Việt Nam, với diện tích tự nhiên
8.065km
2
, dân số năm 2011 có 853.004 người.
Vị trí địa lý: Toạ độ địa lý ở phần đất liền là:
• Điểm cực Bắc: 18
0
05’ 12



vĩ độ Bắc
• Điểm cực Nam: 17
0
05’ 02” vĩ độ Bắc
• Điểm cực Đông: 106
0
59’ 37” kinh độ Đông
• Điểm cực Tây: 105
0
36’ 55” kinh độ Đông
Tỉnh có bờ biển dài 116,04 km ở phía Đông và có chung biên giới với Lào
201,87 km ở phía Tây, có cảng Hòn La, cảng hàng không Đồng Hới, Quốc lộ
1A và đường Hồ Chí Minh, đường sắt Bắc Nam, quốc lộ 12 và tỉnh lộ 20, 16
chạy từ Đông sang Tây qua cửa khẩu quốc tế Cha Lo và một số cửa khẩu phụ
khác nối liền với nước cộng hoà dân chủ nhân dân Lào.
Địa hình: Địa hình Quảng Bình hẹp và dốc từ phía Tây sang phía Đông.
85% diện tích tự nhiên là đồi núi. Toàn bộ diện tích được chia thành vùng sinh
25

×