Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Báo cáo “Sự cần thiết và vai trò của kiểm toán” pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.75 KB, 31 trang )

Tiểu luận
Sự cần thiết và vai trò
của kiểm toán
Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng
Minh
Mục Lục
SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3
Trang
2
Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng
Minh
Kiểm toán là một hoạt động không thể thiếu trong quá trình vận hành của nền kinh
tế thị trường nhằm nâng cao chất lượng thông tin, giúp người sử dụng ra quyết
định thích hợp. Một nền kinh tế phát triển lành mạnh với kênh cung cấp vốn từ thị
trường chứng khoán và ngân hàng đòi hỏi phải được cung cấp các dịch vụ kiểm
toán có chất lượng cao.
0Xã hội ngày càng phát triển, nền kinh tế ngày càng phức tạp, thông tin kinh tế
càng có nguy cơ chứa đựng rủi ro, sai lệch, thiếu tin cậy. Đối tượng quan tâm đến
thông tin tài chính của doanh nghiệp không phải chỉ có Nhà Nước mà còn có các
cấp quản lý, đối tác liên doanh và cả người lao động… Tuy từ nhiều gốc độ khác
nhau nhưng tất cả các đối tượng quan tâm đều có nguyện vọng chung là sử dụng
thông tin có độ tin cậy cao, độ chính xác và trung thực. Nếu tất cả những người
quan tâm đều phải tự tổ chức kiểm tra các thông tin tài chính của doanh nghiệp thì
chi phí quá lớn. Vì vậy cần thiết phải có tổ chức độc lập, khách quan tiến hành
kiểm tra các thông tin này để đáp ứng yêu cầu của nhiều đối tượng sử dụng thông
tin, đó chính là tổ chức kiểm toán.
Xuất phát từ những đặc điểm trên nên em đã chọn đề tài “Sự cần thiết và vai
trò của kiểm toán”. Đề tài của em gồm 3 phần:
Phần I: Khái quát chung về kiểm toán
Phần II: Sự cần thiết và vai trò của kiểm toán tại Việt Nam
Phần III|: Những kiến nghị để nâng cao trách nhiệm của kiểm toán


SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3
Trang
3
Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng
Minh
Phần I: Khái quát chung về Kiểm toán
I. Lịch sử hình thành và phát triển của Kiểm toán trên thế giới và tại Việt
Nam
1. Lịch sử hình thành và phát triển của Kiểm toán trên thế giới
Theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, Kiểm toán ra đời vào thế kỷ
thứ III TCN, gắn liền với nền văn minh của Ai Cập và La Mã cổ đại.
Ở thời kỳ đầu Kiểm toán chỉ hình thành ở mức độ sơ khai với tên gọi là Kiểm toán
cổ điển. Biểu hiện là những người làm công việc ghi chép kế toán đọc to lên những
số liệu, tài liệu kế toán cho một bên độc lập nghe và sau đó chứng thực. Vì vậy từ
“AUDIT” trong tiếng Anh có gốc từ Latinh “ Audire" có nghĩa là nghe.
Cùng với sự phát triển của xã hội và sự phát triển của kế toán là sự phát triển
không ngừng của công cụ kiểm soát về kế toán. Ở đâu có hoạt động của con người
ở đó có hoạt động kiểm tra, kiểm soát, ở đâu có kế toán ở đó có kiểm tra kế toán.
Kiểm tra kế toán phát triển từ thấp đến cao, xã hội phát triển xuất hiện của cải dư
thừa, hoạt động kế toán ngày càng được mở rộng và càng phức tạp thì kiểm tra,
kiểm soát về kế toán và tài chính ngày một được quan tâm với mức độ cao.
Từ thời kỳ cổ đại, kế toán được thực hiện chủ yếu bằng những dấu hiệu riêng trên
các sợi dây, thân cây, lá cây. Hình thức này phù hợp với giai đoạn đầu của thời kỳ
cổ đại do xã hội còn chưa có của cải dư thừa, nhu cầu kiểm tra của quản lý còn ít
và ở mức độ đơn giản.
Đến cuối thời kỳ cổ đại, sản xuất đã phát triển, của cải dư thừa ngày càng nhiều,
người sở hữu và người quản lý tài sản tách rời nhau. Nhu cầu kiểm tra tài sản và
các khoản thu, chi ngày càng phức tạp, hình thức kế toán giản đơn không còn đáp
SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3
Trang

4
Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng
Minh
ứng được yêu cầu quản lý. Vì vậy kiểm tra độc lập đã phát sinh trước hết ở La Mã,
Pháp và Anh.
Ở La Mã, vào thế kỷ thứ III TCN các nhà cầm quyền (người sở hữu tài sản) đã
tuyển dụng các quan chức có chuyên môn và độc lập để kiểm tra các báo cáo của
người quản lý về tình hình tài sản của họ và đưa ra ý kiến chấp nhận hoặc yêu cầu
sửa đổi các báo cáo này. Hình thức kiểm tra được thực hiện bằng cách người quản
lý đọc to các báo cáo cho người kiểm tra độc lập nghe rồi chấp nhận.
Ở Pháp, vua Charlemagne cũng theo tiền lệ của La Mã đã tuyển các quan chức
cao cấp phụ trách giám sát công việc quản lý, đặc biệt là các nghiệp vụ tài chính
của các quan chức địa phương và trình bày lại kết quả với Hoàng đế hoặc các vị
cận thần.
Ở Anh, theo văn kiện của Nghị viện, vua Edouard đệ nhất cho các Nam tước
quyền tuyển dụng kiểm toán viên (Auditors), bản thân vua cũng cho đối chiếu lại
các tài khoản thuộc di chúc của cố Hoàng hậu Elonor.
Từ trung đại trở đi, đã có sự hoàn thiện và phát triển dần của kế toán, chẳng hạn
với các khoản giao dịch đã buộc cả 2 bên cùng ghi sổ, do đó phát sinh quan hệ đối
chiếu như một hình thức kiểm tra kế toán.
Đặc biệt từ thế kỷ XVI trở đi, sự xuất hiện của kế toán kép do một nhà toán học
người Ý là Luca Paciola đã khiến cho phương pháp tự kiểm tra của kế toán hoàn
thiện hơn, đã đáp ứng đủ nhu cầu quản lý và an toàn tài sản lúc bấy giờ.
Từ thế kỷ XVII – XX, các phương pháp kế toán và kỹ thuật thông tin phát triển
đến mức tinh xảo đã đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của quản lý.
Đến năm 30 của thế kỷ XX xuất hiện sự phá sản của các tổ chức tài chính và
khủng hoảng kinh tế, suy thoái về tài chính chức năng kiểm tra kế toán mới bộc lộ
những nhược điểm, đòi hỏi phải có sự kiểm tra ngoài kế toán và kiểm toán được
phát triển trở lại.
SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3

Trang
5
Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng
Minh
Năm 1934, uỷ ban giao dịch chứng khoán đã được thành lập và quy chế về kiểm
toán viên bên ngoài bắt đầu có hiệu lực. Đồng thời trường đào tạo kiểm toán viên
công chứng của Hoa Kỳ (AICPA) đã in ra mẫu chuẩn đầu tiên về báo cáo kiểm
toán tài khoản của các công ty.
Năm 1941, viện Kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ (IIA) được thành lập đã đi vào hoạt
động và đào tạo các kiểm toán viên nội bộ. Đồng thời viện đã xây dựng và ban
hành hệ thống chuẩn mực kiểm toán nội bộ Hoa Kỳ vào năm 1978.
Tại Pháp, việc kiểm tra một cách độc lập của những chuyên viên bên ngoài đã
được xác lập và thông qua bởi đạo luật về các công ty thương mại ngày
24/07/1966. Đồng thời kiểm toán nội bộ ở Pháp cũng đã được hình thành chính
thức vào những năm 60 của thế kỷ XX ở những công ty con thuộc tập đoàn ngoại
quốc.
Từ lịch sử phát triển Kiểm toán, nhận thấy rằng Kiểm toán ra đời là do nhu cầu
kiểm tra độc lập các số liệu kế toán và thực trạng tài chính của các doanh nghiệp.
Trong quá trình phát triển Kiểm toán không chỉ giới hạn ở lĩnh vực kế toán tài
chính mà được mở rộng sang các lĩnh vực kiểm soát, đánh giá cả hệ thống quản lý
của doanh nghiệp; không chỉ giới hạn ở các doanh nghiệp kinh doanh mà còn được
mở rộng đến các đơn vị sự nghiệp công cộng với vấn đề đánh giá lại hiệu năng
quản lý của các đơn vị này.
2. Lịch sử hình thành và phát triển của Kiểm toán tại Việt Nam
Ở Việt Nam, Kiểm toán nói chung cũng như kiểm tra kế toán nói riêng đã
được quan tâm ngay từ khi bắt đầu xây dựng đất nước. Trước năm 1975, ở miền
Nam nước ta đã có hoạt động Kiểm toán của các công ty kiểm toán độc lập dưới
chế độ Việt Nam cộng hòa thời Mỹ Diệm.
Sau khi nước ta chuyển đổi cơ chế quản lý (năm 1986) từ kế hoạch hóa tập
trung sang cơ chế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, ngày 13/05/1991

Bộ tài chính đã kí hai quyết định thành lập hai công ty kiểm toán đầu tiên là công
SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3
Trang
6
Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng
Minh
ty kiểm toán Việt Nam được thành lập lấy tên là VACO với 13 nhân viên và công
ty dịch vụ kế toán Việt Nam với tên giao dịch ASC sau này đổi tên là công ty dịch
vụ tư vấn tài chính, kế toán, kiểm toán – AASC (quyết định 639- TC/QĐ/TCCB
ngày 14/09/1993). Số lượng công ty kiểm toán đã tăng lên đáng kể và loại hình
công ty cũng đa dạng hơn, tính đến tháng 10/2006 ở Việt Nam đã có 81 công ty
kiểm toán trong đó có 75 công ty đã đăng ký hoạt động tại BTC, gồm 3 DNNN
(VACO, AASC, AISC) 4 công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài (P&C, HPMG,
E&Y, Grant Thomtion), 1 công ty liên doanh, 5 công ty hợp danh, 123 công ty cổ
phần và công ty TNHH.
Cùng với sự phát triển của kiểm toán độc lập, kiểm toán Nhà nước Việt Nam được
thành lập theo NĐ số 70/CP ngày 11/07/1994 của chính phủ và đến ngày
13/08/2003 được thay bằng NĐ số 93/2003/NĐ-CP. Ngày 14/06/2005 luật kiểm
toán Nhà Nước được Quốc hội ban hành và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2006.
Đến nay kiểm toán Nhà nước có 9 đơn vị kiểm toán khu vực : Khu vực I ( Hà Nội);
Khu vực II (Vinh); Khu vực III (Đà Nẵng); Khu vực IV (TP HCM); Khu vực V
(Cần Thơ); Khu vực VI (Hạ Long); Khu vực VII (Yên Bái); Khu vực VIII (Khánh
Hòa); Khu vực IX (Tiền Giang).
Đồng thời kiểm toán nội bộ cũng đã được thành lập trong các doanh nghiệp có quy
mô lớn như: Tổng công ty hàng không, bưu chính viễn thông, dầu khí, điện lực,
II. Khái niệm Kiểm toán
1.Khái niệm
Kiểm toán là xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động tài chính bằng hệ
thống phương pháp kỹ thuật của kiểm toán chứng từ và ngoài chứng từ do các
kiểm toán viên có trình độ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý có

hiệu lực.
2. Các yếu tố chính trong khái niệm Kiểm toán
2.1. Chủ thể Kiểm toán
SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3
Trang
7
Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng
Minh
Chủ thể Kiểm toán là các chuyên gia độc lập và có thẩm quyền. Giữa các KTV và
các nhà quản lý trong công ty không có mối quan hệ thân thiết với nhau. KTV cần
phải giải quyết mâu thuẫn một cách thành thực, không lẫn trốn trách nhiệm của
mình trước các cổ đông , phải độc lập về kinh tế cũng như độc lập về hoạt động
nghiệp vụ. KTV hoạt động theo quy định của pháp luật và được pháp luật bảo hộ
và chịu trách nhiệm trước pháp luật.
2.2. Phương pháp Kiểm toán
Thu thập và đánh giá các bằng chứng. Bằng chứng là thông tin mà KTV sử dụng
để xác định xem liệu thông tin đang được kiểm toán có được trình bày phù hợp với
các chuẩn mực hay không.
2.3. Khách thể Kiểm toán
Khách thể Kiểm toán là các tổ chức, đơn vị, cá nhân… nơi có những thông tin cần
kiểm toán. Tùy từng loại kiểm toán mà khách thể kiểm toán có sự khác nhau. Tổ
chức kinh tế có thể là tổ chức pháp nhân như một DNNN, một công ty cổ phần,
một công ty liên doanh, doanh nghiệp tư nhân…Trong một số trường hợp đặc biệt
tổ chức được xác định là một phân xưởng, cửa hàng hoặc thậm chí là một cá nhân.
Thời gian kiểm toán thường là 1 năm tuy nhiên cũng có trường hợp kiểm toán 1
kỳ, 1 quý, 1 tháng hoặc là vài năm và trong một số trường hợp là thời gian tồn tại
của tổ chức đó.
2.4. Căn cứ Kiểm toán
Căn cứ thực hiện Kiểm toán đó là các chuẩn mực kiểm toán đã được thiết lập. Còn
căn cứ để đánh giá đối tượng kiểm toán được chọn và sử dụng tùy theo mục tiêu

của kiểm toán.
2.5. Báo cáo Kiểm toán
Đây là khâu cuối cùng của quá trình kiểm toán. Tùy theo mục đích, tính chất của
cuộc kiểm toán mà báo cáo kiểm toán đi từ báo cáo đơn giản đến phức tạp. Nội
SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3
Trang
8
Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng
Minh
dung báo cáo kiểm toán phải thông tin cho người sử dụng thông tin về mức độ phù
hợp giữa thông tin số lượng và chuẩn mực đã được thiết lập.
Phần II: Sự cần thiết và vai trò của Kiểm toán tại Việt Nam
I. Sự cần thiết của Kiểm toán
Kiểm toán ra đời, phát triển do yêu cầu quản lý và phục vụ cho quản lý. Kiểm toán
là một công cụ quản lý phát triển từ thấp lên cao, gắn liền với hoạt động kinh tế
của con người. Từ khi kế toán ra đời con người biết khai thác công cụ kế toán vào
quản lý. Kế toán cung cấp thông tin phục vụ quản lý. Xã hội ngày càng phát triển
thông tin kế toán càng được mở rộng, đa dạng, phức tạp và chứa nhiều rủi ro. Đồng
thời xuất hiện nhiều đối tượng quan tâm và sử dụng thông tin kế toán như Nhà
nước, chủ doanh nghiệp, cổ đông, nhà đầu tư, ngân hàng, các tổ chức tín dụng,
người bán, người mua, người lao động,…Thực trạng này xuất phát từ những
nguyên nhân sau:
-Khoảng cách lớn giữa người sử dụng thông tin và người cung cấp thông tin và sự
điều chỉnh có lợi cho người cung cấp thông tin. Xã hội càng phát triển kéo theo
hoạt động kinh tế càng phát triển, mở rộng và đa dạng. Sự tách biệt giữa quyền sở
hữu và quyền sử dụng tài sản ngày càng tăng, các thông tin được cung cấp ngày
càng bị hợp pháp hóa và thành tích hóa có lợi cho người cung cấp thông tin.
-Khối lượng thông tin quá nhiều. Xã hội càng phát triển thông tin càng phong phú,
đa dạng và khối lượng càng nhiều khả năng chứa đựng những thông tin sai lệch
trong những thông tin đúng đắn ngày càng tăng.

-Tính phức tạp của thông tin và nghiệp vụ kinh tế ngày càng tăng. Xã hội càng
phát triển hoạt động kinh tế ngày càng đa dạng, các nghiệp vụ và thông tin ngày
càng phức tạp, nguy cơ chứa đựng thông tin sai lệch là khó tránh khỏi.
-Khả năng thông đồng trong xử lý thông tin có lợi cho người cung cấp thông tin
ngày càng lớn. Xã hội càng phát triển các hiện tượng tiêu cực càng tinh vi với mức
SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3
Trang
9
Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng
Minh
độ gia tăng. Khả năng cấu kết, thông đồng đem lại lợi ích cho người cung cấp
thông tin ngày càng lớn, rủi ro thông tin ngày càng cao.
Để giảm thiểu rủi ro thông tin có 3 cách:
- Người sử dụng thông tin tự kiểm tra thông tin mà mình sử dụng. Việc này không
hiệu quả lại tốn kém không phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Mặt khác
còn bị giới hạn bởi năng lực của người sử dụng thông tin.
- Người sử dụng thông tin chia sẻ rủi ro thông tin với người quản lý doanh nghiệp
hay người cung cấp thông tin. Cách này có thể được thỏa thuận hai bên nhưng nó
không thể chia sẻ được khi người cung cấp thông tin bị giải thể hoặc phá sản. Lúc
này mọi hậu quả đều dồn về người sử dụng thông tin.
-Sử dụng thông tin trên BCTC khi đã được kiểm toán độc lập xác nhận. Cách này
rất hiệu lực, phát huy tính chuyên môn hóa sâu sắc, phù hợp với xu thế phát triển
của thời đại, tiết kiệm chi phí, đảm bảo lợi ích vật chất và tránh được hậu quả cho
người sử dụng thông tin. Đồng thời gắn chặt giữa trách nhiệm pháp lý và vật chất
của kiểm toán viên với những nhận xét, kết luận mà họ đã đưa ra.
Mặt khác, kiểm tra kế toán được thực hiện thông qua cơ chế duyệt quyết toán chủ
yếu được tiến hành trên tài liệu, giấy tờ là chính chứ chưa đi sâu vào hoạt đông của
doanh nghiệp. Chẳng hạn việc xét duyệt quyết toán thường được thực hiện vào quý
I hoặc quý II năm sau nên việc xác định tài sản thực tế của doanh nghiệp vào thời
điểm kiểm kê (31/12 năm trước) có tồn tại thật hay không. Một số vấn đề khác như

công nợ, giá trị của tài sản… cần sử dụng các kỹ thuật như xác nhận, điều tra…
cũng không thực hiện được mà thường chỉ chấp nhận trên cơ sở chứng từ, tài liệu
kế toán. Do những hạn chế này, nên việc duyệt quyết toán không thể phát hiện
thực trạng tài chính yếu kém chuyên kinh doanh, mua bán lòng vòng để gian lận
trong việc vay vốn ngân hàng huy động từ các đối tượng nhằm mục đích chiếm
đoạt tài sản bất hợp pháp vì các chứng từ, tài liệu đã được hợp pháp bằng nhiều
cách. Chỉ có kiểm toán với các kỹ thuật thu thập bằng chứng phong phú thích hợp
SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3
Trang
10
Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng
Minh
mới có thể tạo niềm tin cho người sử dụng thông tin bằng những xác nhận khách
quan và độc lập về thực trạng tài chính của doanh nghiệp.
Các tác giả nghiên cứu đều thống nhất rằng nhu cầu kiểm toán xuất hiện từ khi
có sự phân tách giữa quyền sở hữu và quyền quản lý, khai thác kinh doanh các tài
sản, tiền vốn. Từ những hình thức đơn giản khi các thương gia giao các tài sản của
mình cho người khác quản lý và kinh doanh đến các hình thức phức tạp, hoàn thiện
hơn là hình thái các công ty cổ phần trong đó các cổ đông không trực tiếp quản lý
điều hành hoạt động công ty mà do một nhóm các nhà quản lý đại diện thực hiện
chức năng quản lý kinh doanh. Những người thực hiện chức năng quản lý kinh
doanh này được hưởng thu nhập dưới hình thức cố định (tiền lương) hoặc biến đổi
theo kết quả kinh doanh. Dù dưới hình thức nào thì có rất nhiều lý do dẫn đến khả
năng báo cáo tài chính do những người này lập nên và đệ trình lên chủ sở hữu, các
cổ đông có thể sẽ không phản ánh trung thực về tình hình tài chính và kết quả kinh
doanh hoặc ít nhất là thiếu khách quan. Điều này làm phát sinh yêu cầu phải có
giải pháp để chủ sở hữu, các cổ đông có cơ sở để tin tưởng rằng báo cáo do các nhà
quản lý lập nên là phù hợp với các nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận đồng
thời bảo vệ được quyền lợi của những người quản lý. Đây chính là lý do cho sự ra
đời và phát triển của kiểm toán. Mặt khác, thực tế hầu như và không thể mọi chủ

sở hữu, các cổ đông đều có điều kiện và khả năng để soát xét các sổ sách kế toán
và báo cáo tài chính của công ty. Do vậy chủ sở hữu, các cổ đông bổ nhiệm kiểm
toán viên thay thế họ để làm việc đó và báo cáo lại cho họ. Các kiểm toán viên
kiểm tra và báo cáo lại một cách độc lập khách quan về tình hình tài chính của họ,
đồng thời, chủ sở hữu, các cổ đông tin tưởng rằng với kiểm toán các hành vi gian
lận hoặc thiếu trung thực của các nhà quản lý sẽ không có cơ hội thực hiện, do đó
kiểm toán là cần thiết và được xem như là một sự đảm bảo.
Hơn nữa, với nền kinh tế phát triển như hiện nay sự ra đời của kiểm toán là rất cần
thiết bởi:
SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3
Trang
11
Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng
Minh
-Về khách quan: Do có sự đầu tư từ nước ngoài vào Việt nam, tất sẽ phát sinh nhu
cầu cần phải có hoạt động kiểm toán cũng như nhu cầu tư vấn của bản thân các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đây là thông lệ và cũng là yêu cầu của
công ty mẹ. Mặt khác về phía quản lý nhà nước cũng cần phải có được thông tin
đáng tin cậy để đánh giá thực trạng đầu tư cũng như thực hiện chức năng quản lý
nhà nước trong khi không thể áp dụng các hình thức duyệt quyết toán như đối với
các doanh nghiệp nhà nước.
-Về chủ quan: Khi tính chủ động trong kinh doanh của các doanh nghiệp được phát
huy, các doanh nghiệp hạch toán kinh doanh độc lập, theo đó các yêu cầu thông tin
kinh tế trung thực và đáng tin cậy là hết sức quan trọng. Các thông tin này không
chỉ phục vụ cho cho một đối tượng là nhà nước mà còn phục vụ cho nhiều các đối
tượng khác như Ngân hàng (tư cách là người cho vay), đối tác kinh doanh, người
lao động,…
II. Vai trò của Kiểm toán
1.Vai trò chung
Từ những nghiên cứu có thể tháy rõ vai trò của Kiểm toán trên nhiều mặt:

 Kiểm toán tạo niềm tin cho những người quan tâm. Trong cơ chế thị trường
có rất nhiều người quan tâm tới tình hình tài chính và sự phản ánh của nó
trong tài liệu kế toán và BCTC. Trong đó có thể kể đến:
- Các cơ quan Nhà nước: cần thông tin trung thực để điều tiết vĩ mô nền kinh tế
bằng hệ thống pháp luật.
- Các đơn vị được kiểm toán: giúp đơn vị kiểm toán thấy rõ chân dung và thực
lực của mình, đánh giá chính xác thực trạng tài chính, thẩm định đúng kết quả
kinh doanh để có biện pháp quản lý, điều hành phù hợp nhằm đạt được hiệu quả
cao.
- Các nhà đầu tư: cần thông tin tin cậy để có hướng dẫn đúng, điều hành sử
dụng vốn đầu tư. Các nhà đầu tư ở đây không chỉ trong nước mà còn cả nước
SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3
Trang
12
Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng
Minh
ngoài. Họ cần sự xác nhận vô tư và trung thực của kiểm toán mới yên tam và
tin tưởng khi bỏ vốn đầu tư vào doanh nghiệp.
- Ngân hàng và các tổ chức tín dụng: căn cứ vào kết quả kiểm toán để xem xét
tình hình cho các doanh nghiệp vay khi cần thiết và khả năng thu hồi nợ.
- Người lao động: cần có thông tin đáng tin cậy về kết quả kinh doanh, về lợi
nhuận phân phối, về thực hiện chính sách tiền lương và bảo hiểm nhu cầu đó
chỉ có thể đáp ứng thông qua hệ thống kiểm toán hoàn chỉnh.
- Khách hàng và nhà cung cấp: cũng cần hiểu rõ thực chất về kinh doanh, về tài
chính của các đơn vị kiểm toán về nhiều mặt: số lượng, chất lượng sản phẩm
hàng hóa, cơ cấu tài sản và khả năng thanh toán của đơn vị được kiểm toán.
Tất cả các những đối tượng này, họ đều có nguyện vọng chung là được sử dụng
thông tin có độ tin cậy cao, chính xác và trung thực.
 Kiểm toán góp phần hướng dẫn nghiệp vụ và ổn định cũng cố hoạt động tài
chính, kế toán nói riêng và hoạt động của các đơn vị kiểm toán nói chung.

Thông qua kiểm toán khi phát hiện sai sót kiểm toán viên chỉ dẫn và đề nghị
doanh nghiệp sửa chữa, tư vấn giúp doanh nghiệp ổn định và kinh doanh
hiệu quả. Hoạt động kiểm toán không những cũng cố hoạt động tài chính, kế
toán cho doanh nghiệp nói riêng mà còn làm lành mạnh hóa nền tài chính
quốc gia, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế, nâng cao hiệu quả sử dụng
nguồn lực tài chính.
 Kiểm toán góp phần nâng cao hiệu quả quản lý. Ngoài chức năng xác nhận
thông tin tài chính, kiểm toán còn có chức năng tư vấn cho các doanh
nghiệp, đơn vị được kiểm toán nhằm kinh doanh hiệu quả, hạn chế rủi ro.
Chức năng này được phát huy tác dụng rất lớn ở các đơn vị được kiểm toán
thường xuyên. Trong điều kiện hiện nay, hệ thống pháp lý chưa hoàn chỉnh,
kinh nghiệm và chuyên gia quản lý giỏi theo cơ chế thị trường chưa nhiều,
các doanh nghiệp đứng trước một cơ chế thị trường đầy phức tạp và cạnh
SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3
Trang
13
Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng
Minh
tranh gay gắt vì lợi nhuận. Tính chất xã hội, môi trường, hiện tại, tương lai,
xu hướng đa phương hóa đầu tư và mở rộng quan hệ có lợi kinh tế ngày
càng mở rộng. Trong điều kiện đó để ổn định, duy trì kỹ cương, kinh doanh
hiệu quả, phát triển đúng hướng chỉ có thể tiến hành trên cơ sở sử dụng
đồng bộ và hiệu quả các công cụ quản lý đặc biệt là kiểm toán.
2.Vai trò của Kiểm toán độc lập
Kiểm toán độc lập bảo vệ quyền lợi cho những người có liên quan và sử dụng
thông tin của đơn vị được kiểm toán như: chính phủ, cổ đông, ngân hàng, nhà đầu
tư và cũng rất hữu ích cho chính các nhà quản lý đơn vị được kiểm toán. Tổ chức
Kiểm toán độc lập đóng vai trò là một bên độc lập (bên thứ ba) thực hiện chức
năng thẩm định thông tin do một đơn vị báo cáo và đưa ra lời xác nhận về mức độ
tin cậy của các thông tin này. Từ BCTC đã được Kiểm toán độc lập xác nhận

người sử dụng sẽ có cơ sở tin cậy cho việc đưa ra các quyết định, các đối sách
thích hợp. Nhà đầu tư quyết định duy trì, mở rộng hay thu hẹp mức độ đầu tư. Nhà
cung cấp quyết định duy trì, tăng cường hay giảm thiểu mức độ cung cấp vật tư,
hàng hóa
Mặt khác, kết quả Kiểm toán độc lập còn giúp cho đơn vị được kiểm toán hiểu
biết lại mình một cách khách quan hơn.
Chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, thực hiện chủ trương đa dạng hoá các hình
thức sở hữu, các thành phần kinh tế được mở rộng và ngày càng đóng vai trò quan
trọng trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Trong điều kiện nền kinh tế
như vậy, thông tin tài chính của doanh nghiệp không chỉ để báo cáo cho các cơ
quan quản lý nhà nước kiểm tra và xét duyệt mà nay các thông tin này cần cho
nhiều người, được nhiều đối tượng quan tâm, khai thác sử dụng cho các quyết định
kinh tế.
Đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế theo cơ chế thị trường, hoạt động Kiểm toán độc
lập ra đời và trở thành bộ phận cần thiết và quan trọng không thể thiếu trong đời
SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3
Trang
14
Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng
Minh
sống các hoạt động kinh tế. Kiểm toán độc lập cung cấp cho những người sử dụng
kết quả kiểm toán sự hiểu biết về những thông tin tài chính họ được cung cấp có
được lập trên cơ sở các nguyên tắc và chuẩn mực theo qui định hay không và các
thông tin đó có trung thực và hợp lý hay không.
Luật pháp yêu cầu và để yên lòng cho người sử dụng thì các BCTC phải được
kiểm toán và chỉ có những thông tin kinh tế đã được kiểm toán mới là căn cứ tin
cậy cho việc đề ra các quyết định hiệu quả và hợp lý. Việc các quy định mang tính
pháp lý bắt buộc các thông tin tài chính trước khi công bố phải được kiểm toán,
điều này thể hiện rõ nét vai trò của kiểm toán trong quá trình đổi mới nền kinh tế.
Kiểm toán độc lập không thể thiếu được của hoạt động kinh tế trong nền kinh tế thị

trường có sự quản lý của Nhà nước. Kiểm toán làm tăng mức độ tin cậy đối với các
thông tin tài chính, góp phần lành mạnh hoá các quan hệ kinh tế. Dựa vào kết quả
kiểm toán, những người sử dụng báo cáo tài chính được kiểm toán có được các
thông tin khách quan, chính xác theo đó có thể đánh giá một cách đúng đắn tình
hình tài chính cũng như kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp làm cơ sở
cho các quyết định kinh tế của mình. Bên cạnh mục tiêu chính là đưa ra ý kiến về
báo cáo tài chính, các KTV thông qua quá trình kiểm toán, còn có thể đưa ra những
kiến nghị giúp doanh nghiệp hoàn thiện hệ thống kiểm soát, nâng cao hiệu quả
trong công tác quản lý tài chính nói riêng cũng như hoạt động kinh doanh nói
chung.
Trong các quan hệ kinh tế nhờ có kiểm toán mà các doanh nghiệp đã tìm được
tiếng nói chung đó là sự tin cậy lẫn nhau, sự thẳng thắn, trung thực trình bày về
tình hình tài chính của mình. Đây là yếu tố hết sức quan trọng để đánh giá, lựa
chọn đối tác kinh doanh. Đặc biệt trong quan hệ hợp tác kinh doanh với nước
ngoài, nếu nhà đầu tư nước ngoài muốn tìm hiểu về hoạt động kinh doanh và đánh
giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp trước khi đầu tư, hợp tác kinh doanh
SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3
Trang
15
Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng
Minh
thì chi phí cho cuộc kiểm toán sẽ hiệu quả và rẻ hơn nhiều so với chi phí mà hai
bên phải bỏ ra để đàm phán, tự chứng minh về khả năng tài chính của mình. Đồng
thời ý kiến khách quan của kiểm toán luôn đáng tin cậy hơn. Ngay cả khi các công
ty có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập thì nhu cầu kiểm toán của các công ty
này là tất yếu bởi yêu cầu quản lý của các đối tác nước ngoài trong doanh nghiệp.
Do vậy kiểm toán độc lập ra đời đã đáp ứng tốt nhu cầu của hoạt động đầu tư trực
tiếp nước ngoài, góp phần hoàn thiện môi trường đầu tư và thúc đẩy nhanh quá
trình chuyển đổi nền kinh tế. Ngoài những đóng góp tích cực nêu trên cho nền kinh
tế, kiểm toán độc lập còn là hoạt động dịch vụ và như vậy nó tạo ra giá trị cho nền

kinh tế, góp phần nâng cao thu nhập quốc dân, nâng cao nguồn thu cho ngân sách.
Hoạt động kiểm toán còn thu hút được lực lượng lớn các lao động có trình độ
chuyên môn nghiệp vụ cao và đặc biệt là lực lượng chuyên gia tư vấn nước ngoài
làm việc tại các công ty kiểm toán quốc tế. Lực lượng này đã truyền đạt nhiều kinh
nghiệm quản lý kinh tế cho các doanh nghiệp, tổ chức cũng như những đồng
nghiệp. Ngoài ra, các tổ chức kiểm toán độc lập còn chính là trung tâm tư vấn thuế.
Công ty kiểm toán độc lập tư vấn thuế cho các doanh nghiệp trong việc tuân thủ
pháp luật về thuế là rất cần thiết. Họ không chỉ là cung cấp cho các công ty mới
được thành lập thông qua các dịch vụ như tư vấn kê khai các loại thuế, hướng dẫn
các nội dung của các luật thuế, giải đáp thắc mắc trong lĩnh vực thuế mà còn cung
cấp dịch vụ kiểm toán, dịch vụ về thuế cho các công ty đã hoạt động tại Việt Nam
vì các doanh nghiệp này muốn có sự hiểu biết chắc chắn về pháp luật thuế, tiết
kiệm chi phí cho doanh nghiệp nếu gặp rủi ro bị phạt thuế hoặc phải trả chi phí rất
cao cho nhân viên có kinh nghiệm về thuế. Đặc biệt là đối với các công ty đa quốc
gia, dịch vụ tư vấn thuế ngoài việc giúp các công ty này chấp hành tốt pháp luật về
thuế để tăng uy tín kinh doanh trên thị trường toàn cầu còn giúp cho doanh nghiệp
chủ động được việc nộp thuế của mình tại mỗi quốc gia.
Khi mà quy mô hoạt động của các doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh, các chủ đầu
SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3
Trang
16
Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng
Minh
tư thuê quản lý kinh doanh thì họ luôn luôn yêu cầu sổ sách kế toán phải minh
bạch, các rủi ro vi phạm pháp luật phải được kiểm soát và hạn chế đến mức thấp
nhất. Đây cũng là lý do mà các công ty này đòi hỏi phải sử dụng dịch vụ Kiểm
toán độc lập và tư vấn thuế.
Ngày nay, trước sự phát triển của nền kinh tế thị trường, ngày càng có nhiều các
công ty Việt Nam (các tổng công ty lớn và các doanh nghiệp cổ phần) sử dụng
dịch vụ tư vấn thuế thay vì chỉ có các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như

trước đây. Bên cạnh các tổng công ty lớn, các doanh nghiệp cổ phần đang ngày
càng phát triển đã bùng nổ sự ra đời của các doanh nghiệp tư nhân, các chủ hộ kinh
doanh, các cá nhân hành nghề độc lập các loại hình doanh nghiệp này rất cần sự
trợ giúp, hướng dẫn từ thủ tục đăng ký thành lập doanh nghiệp, thủ tục đăng ký
thuế, mua hóa đơn, kê khai và quyết toán thuế vì họ thiếu kinh nghiệm và không
bố trí nhân viên làm kế toán Bên cạnh đó, Chính phủ đang áp dụng Luật thuế
Thu nhập cá nhân, chính vì vậy đã phát sinh thêm vô cùng nhiều người phải kê
khai thuế, quyết toán thuế và tất yếu những người nộp thuế thu nhập cá nhân này
lại phải tìm đến công ty tư vấn thuế, đại lý thuế để giúp họ thực hiện nghĩa vụ của
mình với Nhà nước được đầy đủ, đúng, không nộp quá, không lạm thu, xử lý thủ
tục hoàn thuế được kịp thời
Thông qua hoạt động kiểm toán và tư vấn thuế, các công ty Kiểm toán độc lập đã
góp phần tăng cường công tác quản lý thuế, cụ thể:
- Công ty Kiểm toán độc lập là một kênh cung cấp thông tin cho cơ quan thuế về
các vướng mắc về thuế phát sinh trong quá trình sản xuất, kinh doanh của các
doanh nghiệp. Trong quá trình kiểm toán, tư vấn tài chính, thuế cho doanh nghiệp
với chuyên môn và kinh nghiệm trong lĩnh vực này, công ty kiểm toán độc lập đã
phát hiện ra những bất cập về chính sách thuế trong quá trình thực hiện. Ngoài
SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3
Trang
17
Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng
Minh
chức năng tư vấn, giải thích cho doanh nghiệp hiểu rõ về chính sách thuế thì công
ty kiểm toán còn đóng vai trò tổng hợp, phân tích các bất cập về chính sách thuế
trong quá trình thực hiện. Các vướng mắc, kiến nghị về thuế của doanh nghiệp do
các công ty kiểm toán cung cấp thường được tổng hợp từ nhiều doanh nghiệp, đã
được phân tích, đánh giá và có cơ sở vì vậy có tính thuyết phục cao. Điều này đã
giúp cho các cơ quan Nhà nước hiểu rõ hơn thực tiễn kinh doanh của doanh
nghiệp, sự bất cập của chính sách thuế hiện hành và từ đó có thể có những cải cách

chính sách thuế một cách hoàn thiện hơn.
- Công ty Kiểm toán độc lập đại diện cho các doanh nghiệp đề xuất chính sách
thuế áp dụng phù hợp với tình hình phát triển kinh tế của Việt Nam trong từng thời
kỳ và phù hợp với thông lệ quốc tế. Mặc dù cơ chế chính sách thuế của Việt Nam
trong thời gian qua đã có những đổi mới theo chiều hướng tích cực, tuy nhiên
chính sách thuế hiện nay vẫn đang nằm trong quá trình cải cách, chuyển đổi và
từng bước hoàn thiện để phù hợp với tình hình phát triển kinh tế của Việt Nam
cũng như quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, do đó không thể tránh khỏi các vướng
mắc, sự không đồng nhất trong quá trình thực hiện. Để khắc phục và giảm thiểu
vấn đề này, Bộ Tài chính và cơ quan thuế đã tiến hành các cuộc hội thảo, đối thoại
với doanh nghiệp nhằm trao đổi, tháo gỡ các vướng mắc về thuế. Tuy nhiên, với
vai trò là kiểm toán, tư vấn thuế, các công ty Kiểm toán độc lập đã đóng vai trò tư
vấn, cung cấp thông tin, thông lệ quốc tế và chia sẻ kinh nghiệm với cơ quan hoạch
định chính sách thuế khi các cơ quan này ban hành một chính sách thuế mới hoặc
sửa đổi, bổ sung chính sách thuế. Do đó, Kiểm toán độc lập cũng đóng góp một
phần không nhỏ trong việc giúp đỡ cơ quan hoạch định chính sách thuế tạo nên
một khung pháp lý về thuế ngày càng trở nên minh bạch, rõ ràng và thống nhất.
- Công ty Kiểm toán độc lập đã giúp cho đối tượng nộp thuế tăng cường sự hiểu
biết và tuân thủ pháp luật về thuế thông qua việc kiểm toán, tư vấn thuế cho các
doanh nghiệp.
SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3
Trang
18
Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng
Minh
- Kiểm toán độc lập đã góp phần ngăn ngừa tình trạng gian lận, trốn thuế.
- Các công ty Kiểm toán độc lập đã gián tiếp làm giảm các vụ khiếu kiện, tranh
chấp giữa doanh nghiệp và cơ quan thuế.
Sau 19 năm hoạt động (từ năm 1991 đến nay), Kiểm toán độc lập ở Việt Nam
đã phát triển nhanh về số lượng, quy mô, các công ty kiểm toán độc lập và số

lượng KTV từng bước nâng cao năng lực chuyên môn, chất lượng dịch vụ cung
cấp. Đến nay cả nước đã có 140 DN dịch vụ kế toán, kiểm toán với trên 4.600
người làm việc, có gần 1500 người được cấp chứng chỉ KTV. Hầu hết các dịch vụ
cung cấp cho khách hàng ngày càng được tín nhiệm, được xã hội thừa nhận.
Thông qua hoạt động dịch vụ kiểm toán và tư vấn tài chính – kế toán các doanh
nghiệp, tổ chức có thể nắm bắt kịp thời, đầy đủ và tuân thủ đường lối chính sách
kinh tế, tài chính, loại bỏ được chi phí bất hợp lý, tạo lập được những thông tin tin
cậy, và tăng cường lòng tin của người sử dụng các thông tin tài chính, từng bước
đưa công tác quản lý tài chính, kế toán trong các doanh nghiệp đi vào nề nếp…Có
thể nói hoạt động kiểm toán độc lập đã xác định được vị trí trong nền kinh tế thị
trường, góp phần ngăn ngừa và phát hiện lãng phí, góp phần thu hút vốn đầu tư
nước ngoài, thực hiện công khai minh bạch báo cáo tài chính (BCTC), phục vụ đắc
lực cho công tác quản lý, điều hành kinh tế-tài chính, của doanh nghiệp và Nhà
nước.
3. Vai trò của Kiểm toán nội bộ
Nếu như Kiểm toán độc lập đã có mặt ở Việt Nam được 19 năm thì cho đến nay,
khái niệm Kiểm toán nội bộ vẫn chưa được phổ biến với nhiều nhà quản lý (ra đời
năm 1997). Tuy nhiên, yêu cầu hội nhập WTO, sự phát triển nhanh chóng của thị
trường chứng khoán và những vụ bê bối về quản trị ở một số doanh nghiệp lớn của
SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3
Trang
19
Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng
Minh
Nhà nước gần đây cho thấy sự cần thiết của Kiểm toán nội bộ ở doanh nghiệp.
Trên thế giới, Kiểm toán nội bộ đã ra đời từ lâu nhưng chỉ phát triển từ sau các vụ
gian lận tài chính ở Công ty Worldcom và Enron (Mỹ) những năm 2000-2001 và
đặc biệt là khi Luật Sarbanes-Oxley của Mỹ ra đời năm 2002. Luật này quy định
các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ phải báo cáo về hiệu quả của
hệ thống kiểm soát nội bộ công ty.

Trong khi hoạt động của Kiểm toán độc lập giới hạn ở việc kiểm tra báo cáo tài
chính (mức độ trung thực và hợp lý), hoạt động của Kiểm toán nội bộ không bị
giới hạn ở bất kỳ phạm vi nào trong công ty, từ mua hàng, sản xuất, bán hàng đến
quản lý tài chính, nhân sự hay công nghệ thông tin. Mục đích của Kiểm toán nội bộ
là phục vụ cho công tác quản lý doanh nghiệp, chứ không phải cho đối tác bên
ngoài. Kiểm toán nội bộ không chỉ đánh giá các yếu kém của hệ thống quản lý mà
còn đánh giá các rủi ro cả trong và ngoài công ty.
Kiểm toán nội bộ có thể đem lại cho doanh nghiệp rất nhiều lợi ích. Kiểm toán nội
bộ là công cụ giúp phát hiện và cải tiến những điểm yếu của hệ thống quản lý
doanh nghiệp. Nhờ nó mà Ban giám đốc và Hội đồng quản trị có thể kiểm soát
hoạt động và quản lý rủi ro tốt hơn một khi quy mô và độ phức tạp của doanh
nghiệp vượt quá tầm kiểm soát trực tiếp của một nhóm người. Có Kiểm toán nội
bộ như thêm “tai, mắt” cho Hội đồng quản trị và Ban giám đốc. Điều này làm tăng
niềm tin của cổ đông vào chất lượng quản lý và kiểm soát nội bộ, tăng giá trị
doanh nghiệp. Thực tiễn trên thế giới cho thấy, các công ty có kiểm toán nội bộ thì
thường khả năng gian lận thấp và hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn.
Một doanh nghiệp có kiểm toán nội bộ sẽ làm gia tăng niềm tin của các cổ đông,
các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán về hệ thống quản trị ở đây. Các thống
kê trên thế giới cho thấy các công ty có phòng kiểm toán nội bộ thường có báo cáo
đúng hạn, báo cáo tài chính có mức độ minh bạch và chính xác cao, khả năng gian
SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3
Trang
20
Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng
Minh
lận thấp và cuối cùng là hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hơn so với các công ty
không có phòng kiểm toán nội bộ. Tuy nhiên, có một thực tế là không phải doanh
nghiệp nào cũng thấy hết các lợi ích trên và có biện pháp để hiện thực hóa các lợi
ích đó. Nhiều doanh nghiệp theo đuổi mục tiêu tăng trưởng nóng và đã không cân
bằng được ba mục tiêu bắt buộc của phát triển bền vững. Đó là tăng trưởng, hiệu

quả và kiểm soát. Kết quả là tam giác ba mục tiêu này không thực sự mở rộng ở cả
ba góc trong quá trình tăng trưởng một cách đồng bộ. Thay vào đó là bị co méo ở
hai góc kia, tăng trưởng tuy có đạt, nhưng hiệu quả và kiểm soát lại giảm sút hoặc
không ngang tầm với sự tăng trưởng.
Để phát triển bền vững, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng phải cân bằng cả ba mục
tiêu trên. Đây là bài toán thực sự của quản trị. Doanh nghiệp nào xem nhẹ một
trong ba mục tiêu trên thì sớm muộn cũng phải trả giá.
Kiểm toán nội bộ với vai trò đưa ra đảm bảo
Kiểm toán nội bộ sẽ cung cấp các dịch vụ mang tính đảm bảo cho hệ thống nội bộ
của các tổ chức, doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường với mức độ cạnh tranh
gay gắt như hiện nay, các doanh nghiệp đều hướng tới nhiều mục tiêu cùng một
lúc, bao trùm cả mảng quản trị, kinh tế, đạo đức kinh doanh, xã hội và môi
trường… Kiểm soát nội bộ cần phải có đủ các kỹ năng và kinh nghiệm cần thiết để
đưa ra được các đảm bảo cho doanh nghiệp về việc doanh nghiệp đã và đang vận
hành một cách hiệu quả nhằm đạt được đồng thời các mục tiêu đã đề ra. Các đảm
bảo do kiểm toán nội bộ mang lại chủ yếu tập trung vào quản trị doanh nghiệp
thông qua quản trị rủi ro, kiểm soát nội bộ các vấn đề về đạo đức kinh doanh, trách
nhiệm xã hội (bao gồm cả vấn đề môi trường, vấn đề tuân thủ pháp luật). Trong
khi ban giám đốc và lãnh đạo doanh nghiệp chịu trách nhiệm thiết lập và duy trì hệ
thống kiểm soát nội bộ thì kiểm toán nội bộ đưa ra đảm bảo cho ban giám đốc và
ủy ban kiểm toán (hoặc HĐQT) rằng hệ thống kiểm soát nội bộ được vận hành một
SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3
Trang
21
Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng
Minh
cách hiệu quả như được kỳ vọng. Để tránh xung đột về lợi ích và đảm bảo tính độc
lập, kiểm toán nội bộ thường chịu trách nhiệm trực tiếp trước HĐQT hoặc đại diện
của HĐQT, như ủy ban kiểm toán.
Tuy nhiên với thực trạng ở nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, do quy mô

cũng như tính phụ thuộc của kiểm toán nội bộ, doanh nghiệp cùng với các nhà đầu
tư chưa thể có được sự đảm bảo cần thiết về tính hiệu quả của toàn bộ hệ thống
kiểm soát nội bộ cũng như của việc kiểm soát rủi ro và việc tuân thủ các quy định
trong và ngoài đơn vị. Nếu đơn vị có bộ phận kiểm toán nội bộ thì cũng chỉ có thể
giúp một bộ phận quản lý cụ thể nào đó có được một sự tin tưởng nhất định về việc
vận hành của một số bước kiểm soát, chủ yếu là phê duyệt và tuân thủ về tài chính
kế toán, ghi chép và hạch toán hoặc về việc sử dụng và quản lý một số tài sản nhất
định. Doanh nghiệp cần phải tiến một bước dài mới có được sự đảm bảo với quy
mô và cấp độ lớn hơn từ Kiểm toán nội bộ trong các lĩnh vực có liên quan.
Kiểm toán nội bộ với vai trò tư vấn
Vai trò của kiểm toán nội bộ trong việc đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ cùng
với các bước kiểm soát rủi ro, các bước tuân thủ… bao trùm một phạm vi rất rộng
vì tất cả các cấp của doanh nghiệp đều có tham gia vào các quy trình đề ra. Kiểm
toán nội bộ đánh giá phương châm cũng như văn hóa quản lý rủi ro của một doanh
nghiệp, xem xét và báo cáo tính hiệu quả của việc thực hiện các chính sách quản
lý. Dựa vào kết quả đó, kiểm toán nội bộ sẽ đưa ra các khuyến nghị để hoàn thiện
các bộ phận có cơ hội phát triển hoặc có những khiếm khuyết cần khắc phục.
Thêm vào đó, kiểm toán nội bộ có thể cung cấp các dịch vụ tư vấn trợ giúp một
cách riêng biệt cho tất cả các cấp trong một đơn vị, từ HĐQT đến các nhân viên và
các cấp quản lý trong việc thực hiện trách nhiệm của mình một cách hiệu quả. Một
số ví dụ cụ thể về vai trò tư vấn của kiểm toán nội bộ như sau:
- Chức năng tư vấn cho HĐQT và ủy ban kiểm toán cũng như tư vấn cho ban giám
đốc: kiểm toán nội bộ có thể tư vấn cho các cấp này của doanh nghiệp trong việc
SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3
Trang
22
Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng
Minh
giám sát chung về báo cáo tài chính, kiểm soát nội bộ, quản lý rủi ro, đạo đức
doanh nghiệp… Ngoài ra, cũng có thể tư vấn sâu hơn về việc quản lý tài sản, các

yêu cầu tuân thủ… Để tránh xung đột về lợi ích và đảm bảo tính độc lập thì Kiểm
toán nội bộ sẽ không được trao chức năng tham gia vào việc ra các quyết định
quản lý khi đã được trao chức năng tư vấn. Kiểm toán nội bộ cũng sẽ không thay
mặt ban giám đốc đưa ra các quyết định kinh doanh.
- Chức năng đào tạo: Kiểm toán nội bộ với kiến thức chuyên môn và kỹ năng của
mình có thể tham gia công tác đào tạo cho các bộ phận và phòng, ban trong doanh
nghiệp về các mảng liên quan đến công nghệ thông tin trong quản lý, thủ tục kiểm
soát nội bộ và quản lý rủi ro, báo cáo tài chính, các quy định tuân thủ… Thông
quan các hỗ trợ đào tạo này, Kiểm toán nội bộ sẽ góp phần tăng cường năng lực
của nhân sự trong một doanh nghiệp và giúp các vị trí thực hiện chức năng của
mình một cách hiệu quả hơn.
Việc tư vấn của Kiểm toán nội bộ ở nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện nay (nếu
có) thường chỉ dừng lại ở các khuyến nghị xuất phát từ kết quả của công tác kiểm
tra, kiểm soát cụ thể. Rất hạn hữu chức năng tư vấn riêng biệt của Kiểm toán nội
bộ (gồm cả đào tạo) được sử dụng một cách chính thức, Kiểm toán nội bộ chưa thể
cung cấp các dịch vụ tư vấn của mình trong nội bộ một doanh nghiệp. Tính độc lập
giữa vai trò tư vấn và kiểm toán cũng chưa được đặt thành vấn đề với chức năng
Kiểm toán nội bộ.
4. Vai trò của Kiểm toán Nhà nước
Kiểm toán Nhà nước là công cụ kiểm tra tài chính công quan trọng của Nhà nước.
Hoạt động của Kiểm toán Nhà nước góp phần phân bổ, quản lý, sử dụng các nguồn
lực tài chính Nhà nước và tài sản công một cách hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả.
Kiểm toán Nhà nước góp phần ngăn ngừa các hành vi tiêu cực, lãng phí công quỹ
SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3
Trang
23
Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng
Minh
quốc gia. Ở Việt Nam, Kiểm toán Nhà nước được thành lập và hoạt động theo Luật
Ngân sách Nhà nước, Luật Ngân hàng Nhà nước và một số văn bản pháp luật của

Chính phủ. Qua nhiều năm hoạt động, Kiểm toán Nhà nước đã khẳng định được vị
trí vai trò của mình trong cơ cấu bộ máy Nhà nước, khẳng định được sự cần thiết
và tính tất yếu khách quan của công cụ kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh tế - tài
chính Nhà nước. Kiểm toán Nhà nước đã thực hiện hàng nghìn cuộc kiểm toán với
quy mô lớn nhỏ khác nhau tại các đơn vị có sử dụng ngân sách trên hầu khắp các
lĩnh vực. Kết quả kiểm toán đến niên độ ngân sách năm 2002 đã phát hiện nhiều vi
phạm chính sách, chế độ quản lý kinh tế, tài chính, kiến nghị tăng thu, tiết kiệm chi
cho ngân sách Nhà nước hàng nghìn tỷ đồng. Qua kiểm toán đã giúp các Bộ,
ngành, các tỉnh, thành phố và các đơn vị được kiểm toán nhìn nhận và đánh giá
đúng đắn thực trạng tình hình tài chính, khắc phục được những yếu kém sơ hở
trong quản lý kinh tế và sản xuất kinh doanh; phòng ngừa tiêu cực tham nhũng, cải
tiến và hoàn thiện hệ thống quản lý và kiểm soát nội bộ.
Chính phủ cho rằng, trong điều kiện nền kinh tế nước ta đang trong quá trình
chuyển đổi nên rất cần cơ quan Kiểm toán Nhà nước giúp Chính phủ quản lý, điều
hành kịp thời, có hiệu quả hơn nền kinh tế từ kiểm toán việc quản lý và sử dụng
ngân sách Nhà nước đến kiểm toán các lĩnh vực khác của tài chính công và tài
chính Nhà nước như ngân hàng và tín dụng Nhà nước, các quỹ tài chính tập trung
của Nhà nước ngoài ngân sách Nhà nước như Quỹ Bảo hiểm Xã hội, Quỹ Bảo
hiểm Y tế , tài chính doanh nghiệp Nhà nước, các công trình xây dựng cơ bản của
Nhà nước. Mặt khác, dự án Luật quy định nghĩa vụ của Kiểm toán Nhà nước trong
việc thực hiện kiểm toán theo yêu cầu của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
và Chủ tịch nước, thực hiện trách nhiệm báo cáo kết quả kiểm toán và kết quả thực
hiện kiến nghị kiểm toán với Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch
nước đảm bảo phục vụ Quốc hội trong việc thực hiện quyền giám sát các hoạt
SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3
Trang
24
Tiểu luận cá nhân GVHD: Th.S Nguyễn Thị Hồng
Minh
động kinh tế tài chính đất nước. Các quy định của dự thảo Luật cũng đảm bảo cho

Kiểm toán Nhà nước thực hiện nguyên tắc độc lập trong hoạt động thông qua việc
chủ động lập và tổ chức thực hiện chương trình kế hoạch kiểm toán hàng năm.
Quốc hội và xã hội giao phí việc điều hành và quản lý các nguồn lực công của một
Nhà nước cho Chính phủ và các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm sử dụng các
nguồn lực đó một cách tiết kiệm, hiệu quả, đúng mục tiêu đề ra. Chính vì vậy, mà
trách nhiệm giải trình của Chính phủ được xác định là mục tiêu, cách thức và hiệu
quả của việc sử dụng các nguồn lực công. Thông qua việc thực hiện các cuộc kiểm
toán tính tuân thủ, kiểm toán hoạt động và các loại hình kiểm toán khác, cơ quan
Kiểm toán nhà nước sẽ giúp cho Chính phủ giải tỏa trách nhiệm của mình trước
Quốc hội và toàn xã hội, cụ thể:
- Đánh giá việc xây dựng và thực thi các chính sách và chương tình hoạt động của
Chính phủ.
- Kiểm toán các hoạt động của các cơ quan Chính phủ nhằm đánh giá tính kinh tế,
tính hiệu lực và tính hiệu quả trong việc chi tiêu công quỹ và sử dụng tài sản Nhà
nước.
- Điều tra các hành vi gian lận và sai phạm góp phần tích cực vào cuộc chiến
chống tham nhũng, ngăn ngừa các hành vi lạm dụng công quỹ và tài sản quốc gia.
- Tư vấn cho các đơn vị được kiểm toán trong công tác điều hành và quản lý tài
chính, kế toán.
Kiểm toán Nhà nước (còn gọi là Cơ quan kiểm toán tối cao) với các chức năng cơ
bản là kiểm tra, xác nhận, đánh giá và tư vấn, hoạt động Kiểm toán Nhà nước góp
phần bảo đảm minh bạch, phân bổ, quản lý, sử dụng các nguồn lực tài chính nhà
nước và tài sản công một cách hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả. Mọi hoạt động liên
quan đến tài chính nhà nước và tài sản nhà nước, mọi cơ quan, tổ chức, đơn vị có
SVTH: Nguyễn Thị Thúy Hằng – Lớp K13KKT3
Trang
25

×