Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

Báo cáo “Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác xuất khẩu lao động ở Việt Nam” pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.55 KB, 77 trang )

Báo cáo
Một số giải pháp nhằm tăng
cường công tác xuất khẩu lao
động ở Việt Nam
2
Mục Lục
Lời nói đầu 3
CHƯƠNG 1 – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XUẤT KHẨU LAO
ĐỘNG Ở VIỆT NAM 5
1.1 – Vai trò của xuất khẩu lao động 5
1.1.1 – Khái niệm về xuất khẩu lao động 5
1.1.2 – Xuất khẩu lao động - những điểm tích cực và tiêu cực 8
1.2 – Sự cần thiết của xuất khẩu lao động ở Việt Nam 14
1.2.1 – Kinh nghiệm xuất khẩu lao động ở các nước 15
1.2.2 – Vấn đề xuất khẩu lao động ở Việt Nam trong thời gian qua 17
CHƯƠNG 2 – TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU LAO
ĐỘNG CỦA VIỆT NAM 20
2.1 – Thực trạng xuất khẩu lao động ở Việt Nam 20
2.1.1 – Những thành tựu của xuất khẩu lao động trong những năm
qua 20
2.1.2 – Những hạn chế của xuất khẩu lao động ở Việt Nam 24
2.2 – Thị trường xuất khẩu lao động 41
2.2.1 - Thị trường truyền thống 42
2.2.2 - Thị trường mới 47
CHƯƠNG 3 - ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ MỘT SỐ GIẢI
PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC XUẤT KHẨU LAO
ĐỘNG Ở VIỆT NAM 53
3.1 - Định hướng phát triển XKLĐ 53
3.1.1 - Quan điểm của Đảng và nhà nước 53
3.1.2 - Mục tiêu trong những năm tới 55
3.2 - Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác XKLĐ Ở VIỆT NAM.


60
3.2.1 - Giải pháp đối với cơ quan quản lý nhà nước 61
3.2.2 - Giải pháp đối với doanh nghiệp XKLĐ 65
3.2.3 - Giải pháp đối với người lao động 71
Kết luận 75
Tài liệu tham khảo 78
Lời nói đầu
Trong những năm qua, thế giới đã chứng kiến sự phục hồi của các nước bị
khủng hoảng tài chính giai đoạn 1997 – 1998. Nền kinh tế thế giới đang trên đà
phát triển mạnh mẽ. Tuy nhiên, tình trạng thất nghiệp trên toàn cầu vẫn còn tràn
lan tạo ra sức ép mạnh mẽ về lao động và việc làm, do đó di cư lao động quốc tế
tiếp tục trở thành thành tố quan trọng trong thời gian tới. Nắm bắt được đặc điểm
3
vận động của thị trường lao động quốc tế, trong thời gian qua Việt Nam đã đưa ra
những chính sách, giải pháp cụ thể để mở rộng thêm một số thị trường lao động
mới. Đặc biệt xuất khẩu lao động và chuyên gia được Đảng và nhà nước ta xác
định là một lĩnh vực kinh tế đối ngoại quan trọng, một bộ phận của chính sách
giải quyết việc làm được Quốc Hội đưa vào chỉ tiêu kế hoạch hàng năm. Việc
mở rộng thị trường xuất khẩu lao động là hướng phát triển kinh tế phù hợp với lộ
trình hội nhập mở cửa, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động trong
nước. Xuất khẩu lao động đã góp phần xóa đói giảm nghèo và thu thêm ngoại tệ (
xấp xỉ 1.6tỷ USD/năm ) cho gần nửa triệu lao động, bao gồm cả lao động kỹ
thuật và lao động giản đơn hiện đang ở 40 nước và vùng lãnh thổ. Trong những
năm qua xuất khẩu lao động đã gia tăng mạnh và đã góp phần tích cực vào chiến
lược giải quyết việc làm, tăng thu nhập, tạo sự ổn định và phát triển đất nước.
Tuy nhiên, yêu cầu về xuất khẩu lao động ngày càng khắt khe về trình độ lao
động, kỹ năng tay nghề, về kỹ luật lao động và ngoại ngữ, nhất là đối với công
việc trong các công xưởng, nhà máy. Hiện lao động của nước ta ra nước ngoài cơ
bản đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp nước sở tại tuy nhiên tay nghề, trình độ
còn hạn chế, gây khó khăn khi thâm nhập vào thị trường lao động của các nước

có nền kinh tế phát triển.Vậy chúng ta phải làm gì để cho lao động Việt Nam
ngày càng đứng vững và khẳng định được thương hiệu trên thương trường lao
động quốc tế. Để giải quyết tốt vấn đề trên không hề dễ dàng.Chúng ta đòi hỏi sự
nhập cuộc của những nhà quản lý ,các doanh nghiệp cũng như những người lao
động đang quan tâm tới XKLĐ…Trên cơ sở đó chúng tôi đi tới xây dựng đề tài:
“Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác xuất khẩu lao động ở Việt Nam”.
Đề tài được hình thành dựa trên nhiều tài liệu tham khảo cùng với tư liệu
của Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động
ở việt Nam, những đánh giá của một số chuyên gia về thực tế vấn đề xuất khẩu
lao động đang diễn ra trong những năm gần đây. Đề tài cung cấp một số thông
tin về quan điểm về xuất khẩu lao động, thực trạng và đặc biệt là một số biện
pháp tăng cường công tác xuất khẩu lao động ở Việt Nam.
Với mục tiêu trên đề tài được xây dựng với các nội dung chính như sau:
Chương 1 – Một số vấn đề lý luận về xuất khẩu lao động ở Việt Nam.
Chương 2 – Tổng quan về tình hình xuất khẩu lao động ở Việt Nam.
Chương 3 – Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác xuất khẩu lao động
ở Việt Nam.
4
CHƯƠNG 1 – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM
1.1 – Vai trò của xuất khẩu lao động.
1.1.1 – Khái niệm về xuất khẩu lao động.
Trong thời đại toàn cầu hóa kinh tế và kinh tế thị trường mở rộng, các
dòng di chuyển lao động qua biên giới phức tạp và ngày càng mang đậm chất
toàn cầu hóa. Theo cách đánh giá của tổ chức di dân quốc tế (IOM) có khoảng
5
185 triệu người,tức gần 3% dân số thế giới đang ở ngoài lãnh thổ quốc gia mình,
trong số đố có 85 triệu người di chuyển vì mục đích làm việc (Theo tạp chí lao
động và xã hội số 319). Tuy tất cả những người di chuyển qua biên giới để làm
việc đều được coi là lao động, nhưng căn cứ vào danh nghĩa và tính chất thì việc

di chuyển theo những con đường chính thức và hợp pháp có 3 dạng chính sau:
Dạng thứ nhất là xuất khẩu lao động. Đây là dạng di chuyển lao động từ
một nước này sang nước khác theo sự thu xếp chính thức giữa hai quốc gia để
tham gia vào thị trường lao động ở nước đó căn cứ để quyết định số lao động,
ngành nghề, thậm chí giới tính, độ tuổi là từ nhu cầu từ thị trương lao động của
các nước đến. Lao động Việt Nam đang làm việc tại Malaysia, Đài Loan, Hàn
Quốc thuộc đối tượng này. Những người này làm việc có thời hạn và về
nguyên tắc sẽ trở về nước sau khi hết hạn hợp đồng. Trong nhiều năm nữa, về cơ
bản, Việt Nam vẫn tiếp tục là nước xuất khẩu lao động chứ chưa là nước nhập
khẩu lao động.
Dạng thứ hai là di chuyển lao động tự do trong một thị trường lao động
thống nhất của một khối nước. Để có được thị trường thống nhất thì cần phải có
sự nhất thể hoá về không gian kinh tế giữa các nước. Quá trình nhất thể hóa này
cần thực hiện qua 5 bước. Thứ nhất là các nước trong khối dành cho nhau ưu đãi
thương mại, thứ hai là xây dựng một khu vực mậu dịch tự do, thứ ba là tiến hành
liên minh hải quan, thứ tư là thành lập thị trường chung và cuối cùng là thành lập
liên minh kinh tế. Hiện nay, EU là khối duy nhất đã đạt được mức độ nhất thể
hóa kinh tế đến bước thứ tư là thành lập thị trường chung, nghĩa là tất cả các thị
trường bao gồm cả thị trường lao động của các nước thành viên đã trở thành thị
trường chung, thống nhất, được điều chình bởi một hệ thống luật pháp chung áp
dụng cho toàn khối. Di chuyển lao động dạng này chỉ có trong nội khối kinh tế
nào đó, còn trong WTO không có cam kết nào liên quan tới dạng di chuyển lao
động này. Như vậy, dù Việt Nam đã gia nhập WTO thì loại di chuyển theo kiểu
này vẫn là tương lai xa.
Dạng thứ ba là di chuyển thể nhân để thực hiện thương mại dịch vụ. Đây
là một trong những cam kết bắt buộc khi gia nhập WTO, vấn đề không phải là có
hay không có cam kết đối với loại di chuyển thể nhân mà là mức độ cam kết
6
“mở” của ta là bao nhiêu và theo lộ trình nào? Đây chính là câu chuyện nóng
nhất liên quan tới di chuyển lao động giữa ta và tây trong các năm tiếp theo. Vấn

đề khó nhất có lẽ là làm thế nào phân biệt được ai là diện xuất khẩu lao động và
ai là diện di chuyển thể nhân? Đó chính là công việc của những nhà làm chính
sách. Một đối tượng được điều chỉnh bởi “luật chơi” về lao động còn đối tượng
kia được điều chỉnh bởi “luật chơi” về thương mại. Hai đối tượng này không thể
nhập làm một vì mục đích, tính chất, cương vị di chuyển qua biên giới quốc gia
của họ là khác nhau, nên cũng không thể có một “luật chơi” chung cho cả hai đối
tượng trên. Vì vậy khi bàn về xuất khẩu lao động cần lưu ý phân biệt hai hiện
tượng di chuyển này.
Quan điểm về xuất khẩu lao động ở những nước khác nhau cũng có những
nét riêng. Với Việt Nam, xuất khẩu lao động xét về mặt kinh tế là một loại hình
dịch vụ cung cấp loại hàng hóa đặc biệt đó là sức lao động. Nó chứa đựng đầy đủ
tính chất, yêu cầu của loại hàng hóa đặc biệt đó là hoạt động của con người, tổng
hòa các mối quan hệ xã hội. Giá cả của sức lao động này phụ thuộc vào chất
lượng của lao động trước hết là các yếu tố về trình độ chuyên môn, tay nghề
được đào tạo, mức độ giao tiếp về ngôn ngữ, văn hóa, phẩm chất của cá nhân như
tính cần cù, kỹ năng, tinh xảo, khéo léo và khả năng hội nhập, giao lưu với các
nền văn hóa, tôn giáo khác. Giá cả của sức lao động còn phụ thuộc vào nhu cầu
của nước nhập khẩu lao động. Xuất khẩu lao động về mặt chính trị là tiến hành
hợp tác góp phần hỗ trợ, xây dựng, phát triển kinh tế - xã hội của nước nhập khẩu
lao động. Khác với các loại hình hàng hóa dịch vụ khác,đối với người đi xuất
khẩu lao động, ngoài yếu tố cơ bản về phẩm chất cá nhân, trình độ chuyên môn,
trình độ văn hóa, ngoại ngữ, thì khả năng hòa đồng cũng hết sức quan trọng để
đảm bảo cho tương lai của người lao động Việt Nam ở nước ngoài. Bởi vậy,
người lao động cần phải thực sự tôn trọng luật pháp và hòa hợp tốt với cộng đồng
dân cư nước sở tại. Điều đó sẽ bảo đảm cho vị trí cá nhân được khẳng định, được
quý mến, góp phần nâng cao uy tín, vị thế quốc gia, góp phần củng cố, tăng
cường tình hữu nghị, đoàn kết, thân thiện cộng đồng quốc tế giữa hai nước.
Xuất khẩu lao động là một hoạt động hết sức nhạy cảm vì nó liên quan
trực tiếp đến con người. Cho nên vấn đề về xuất khẩu lao động cũng gây ra một
7

số quan điểm bất đồng. Tùy theo những quan niệm và cách tiếp cận khác nhau
mà những ý kiến đánh giá về vấn đề này cũng khác nhau. Ở đề tài này chúng tôi
xem xét xuất khẩu lao động theo quan điểm “xuất khẩu lao động là một loại hình
dịch vụ cung cấp loại hàng hoá đặc biệt đó là sức lao động. Nó chứa đựng đầy đủ
tính chất, yêu cầu của loại hàng hóa đặc biệt đó là hoạt động của con người, tổng
hoà các mối quan hệ xã hội” và xuất khẩu lao động là một kênh giải quyết việc
làm rất hữu hiệu, và là một nguồn để thu lượng ngoại tệ cho đất nước trong
những thời gian tới.
1.1.2 – Xuất khẩu lao động - những điểm tích cực và tiêu cực
Một trong những vấn đề thời sự sôi động và nóng bỏng nhất thuộc lĩnh
vực kinh tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay trước hết phải kể đến vấn đề “xuất khẩu
lao động” - vấn đề tìm kiếm công ăn việc làm cho người lao động ở nước ngoài.
Từ cả thập niên nay, nhất là trong giai đoạn hiện nay: sau khi nhà nước ta mở cửa
hội nhập vào đời sống kinh tế toàn cầu, Việt Nam chính thức được tiếp nhận vào
tổ chức thương mại thế giới (WTO), là thành viên khối ASEAN, hơn nữa lại
được chính phủ Mỹ tuyên bố muốn tuyển chọn một số công nhân Việt Nam sang
làm việc tại Mỹ, và được chính nhà nước khuyến khích nên vấn đề xuất khẩu lao
động càng bùng nổ dữ dội hơn. Trong những ngày tháng này,tại nhiều thành phố
trong cả nước, đặc biệt là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, người ta không
ngạc nhiên khi trông thấy hàng trăm thanh niên tuổi từ 19 đến 30 chen chúc trước
các văn phòng dịch vụ trung gian “giới thiệu việc làm” mà nhiều nhất là làm việc
ở nước ngoài tức là “xuất khẩu lao động”. Có không ít người phải ăn chực nằm
chờ suốt đêm hay từ sáng tinh mơ trước các văn phòng dịch vụ với hy vọng mình
sẽ may mắn có được một công việc ở nước ngoài. Bởi hầu hết các thanh niên này
đều mang trong mình một hoài bão, một mục đích là bằng mọi giá phải xây dựng
cho mình một tương lai tươi sáng hơn cha mẹ của mình. Bởi cảnh sống nông
nghiệp truyền thống ở nông thôn làm nhiều mà được ăn ít, có khi còn không đủ
ăn. Hơn nữa do quá trình đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ ở nhiều địa phương
trong nước nên đất canh tác cũng bị thu hẹp, thêm vào đó là các công ty lớn nhỏ
đua nhau mở các cơ sở sản xuất kinh doanh mới nên người dân cũng đua nhau

bán đất để kiếm ít vốn để ra thành phố lập nghiệp chứ không chịu cảnh “con trâu
8
đi trước chiếc cày theo sau”. Còn những người ở thành thị cũng cảm thấy tương
lai không được triển vọng hơn là bao nhiêu vì: đời sống thì giá cả ngày càng leo
thang vùn vụt, đắt đỏ tốn kém đủ bề mà đi làm cho các công ty trong nước thì
tiền công quá rẻ. Do đó, lối thoát tốt hơn là tìm cách để được xuất khẩu đi làm
việc ở nước ngoài. Vì ai nấy đều tin rằng ở ngoại quốc lương thưởng dù có thấp
đi chăng nữa thì cũng còn cao hơn ở trong nước. Chính vì vậy mà rất nhiều người
đổ xô đến các trung tâm giới thiệu việc làm để mong có cơ hội được làm việc ở
nước ngoài. Chúng ta sẽ xem xét một cách khách quan về vấn đề đã được nêu ở
trên đó là vấn đề “xuất khẩu lao động” để xem xét đâu là những điểm tích cực và
đâu là những điểm tích cực.
Những điểm tích cực
Về vấn đề này, chắc chắn chúng ta cũng đã nghe những ý kiến phê bình
chống đối. Những ý kiến này cho rằng xuất khẩu lao động là một hình thức bắt
dân mang thân đi làm nô lệ cho ngoại quốc. Tuy nhiên, những ý kiến này không
phải là hoàn toàn chủ quan và thiếu cơ sở. Thật vậy, nhìn vào hiện tình đời sống
của một số lao động Việt Nam ở các nước như: Indonesia, Malaisia, Thái lan,
Libăng quá thiếu thốn về đủ mọi phương diện: thiếu sự chăm sóc sức khỏe, bị
chèn ép, bị bóc lột, thậm chí có khi nhân vị và phẩm giá của họ còn bị những
người chủ xúc phạm trắng trợn và không ít trường hợp xảy ra thật đáng thương
tâm. Nhưng nếu chúng ta nhìn vấn đề một cách khách quan và toàn diện hơn
chúng ta sẽ thấy vấn đề xuất khẩu lao động là một diễn biến kinh tế rất bình
thường, nên không những đúng, tích cực mà còn cần thiết nữa. Còn nếu chỉ dừng
lại ở chi tiết vấn đề thì chúng ta khó có thể tiến xa hơn được. Bất cứ quốc gia nào
đang trong giai đoạn chuyển tiếp từ một “nền kinh tế bao cấp” hay “kinh tế kế
hoạch” độc đoán và cứng nhắc bước sang nền “kinh tế thị trường” tự do và linh
động, từ nông nghiệp bước sang công nghiệp, từ cảnh “buôn thúng bán mẹt”
bước sang thị trường “siêu thị”; từ thị trường bán lẻ bước sang thị trường tập
trung Do đó chúng ta không thể tránh khỏi thời gian loạng choạng và khủng

hoảng buổi đầu như: thiếu vốn, thiếu nhân lực có năng lực chuyên môn, nhưng
lại thặng dư quá nhiều nhân lực không có khă năng chuyên môn, phải đối mặt
với những cạnh tranh khắt khe trên thương trường quốc tế, với các công ty nước
9
ngoài mạnh về tài chính, giàu về chuyên môn và kinh nghiệm từ hình thức, mẫu
mã cho đến chất lượng. Trong khi đó hoàn cảnh cụ thể của một đất nước đang
trên đường hội nhập và phát triển như Việt Nam, với trên 80 triệu dân, mà quá
bán là thuộc tầng lớp trẻ dưới 30 tuổi, thì việc tự đào tào và huấn nghiệp trong
nước là hoàn toàn quá tải, nếu không nói là một điều bất khả thi. Bởi vậy, những
câu hỏi khẩn trương được đặt ra là : Làm thế nào để tạo ra được nguồn vốn cho
công cuộc phát triển kinh tế của nước nhà? Phải giải quyết công ăn việc làm cho
hằng triệu người lao động, nhất là tầng lớp lao động trẻ ra sao? Làm thế nào để
có thể học hỏi được những kỷ thuật chuyên môn của các nước bạn? Và làm thế
nào để giúp cho đội ngũ công nhân trẻ có dịp tiếp cận, học hỏi được những kinh
nghiệm về kỷ thuật của nước ngoài? v.v… Ðó là những bức xúc mà “xuất khẩu
lao động” có thể nói được là một trong những cách giải quyết tạm thời. Trong
công cuộc phát triển kinh tế, chúng ta cần đến sự trợ giúp kinh tế của nước ngoài,
cần đến vốn liếng đầu tư của các công ty ngoại quốc, đó là vấn đề quan trọng và
cần thiết. Nhưng một vấn đề khác cũng không kém phần quan trọng và cần thiết,
đó là chính chúng ta cũng phải “tự túc tự cường” nữa, chứ không thể “ngồi chơi
xơi nước” và chỉ “há miệng chờ sung” được. Nếu những ai đã từng sống ở các
nước kỷ nghệ tân tiến, những nơi mà thời gian được coi là quý hơn vàng bạc mà
phải chứng kiến cảnh trong các quán cà-phê và các quán nhậu ở Hà Nội, ở
Saigon hay ở các thành phố khác trong nước, vào các buổi sáng, từ 8,9 giờ đến
10,11 giờ, tức giờ làm việc cao điểm, luôn luôn đầy ắp tầng lớp thanh niên ngồi
đọc báo và tán gẫu, thì chắc chắn sẽ không tránh khỏi những tư tưởng bi quan
cho một viễn tưởng kinh tế tiến bộ và phát triển. Chúng ta cần phải làm một cái
gì đó,cần phải thay đổi thì mới mong nền kinh tế nước nhà có cơ may tiến lên
được, hay ít ra bớt tụt hậu so với các nước phát triển. Trong những băn khoăn
toan tính đó, phải kể đến việc “xuất khẩu lao động”. Và trước hết, ít ra cần phải

tạm thời giải quyết được phần nào tình trạng thất nghiệp của nước nhà, nhằm
giảm bớt đi tình trạng “nhàn cư vi bất thiện”, từ đó làm giảm thiểu những tệ nạn
trong xã hội. Mặt khác, như đã nói trên,xuất khẩu lao động là một diễn biến kinh
tế rất bình thường. Tại Châu Âu cũng đã từng xảy ra trước đây : Sau trân Thế
chiến II, tuy nước Ðức bị thua trận và bị bom đạn đồng minh phá tan tành, nhưng
10
nhờ chương trình viện trợ kinh tế Marchal của Hoa Kỳ, nhất là nhờ có tiềm năng
kinh tế sẵn có, ý chí sắt đá của người dân và có được các nhà lãnh đạo tài ba và
liêm khiết, mà điển hình nhất là : thủ tướng Konrad Adenauer, bộ trưởng kinh tế
Ludwig Erhard, v.v…, những người đã “làm phép lạ kinh tế” tại Ðức, và vì thế
hàng triệu nhân công từ các nước nghèo khác như Ý, Tân Ban Nha, Bồ Ðào Nha,
Nam Tư, Thổ Nhĩ Kỳ, đã đổ xô vào Ðức kiếm công ăn việc làm. Và dĩ nhiên
hoàn cảnh sống cụ thể xưa kia của những công nhân ngoại kiều này không hề
may mắn hơn. Tuy thiếu thốn vất vả, nhưng so với tình trạng đói khổ ở quê
hương họ lúc bấy giờ, cảnh sống “ăn nhờ ở đậu” tại Ðức vẫn tốt hơn gấp bội. Họ
cũng đóng góp một phần rất lớn vào nền kinh tế thịnh vượng nước Ðức cũng như
nền kinh tế phồn thịnh của quê hương họ mà chúng ta chứng kiến ngày nay. Giữa
hai lựa chọn- hoặc ở nhà để nhìn cả gia đình và quê hương đói khổ hay đi làm
kinh tế ở nước ngoài dù cơ cực, vất vả, nhưng ít nhất còn có chút điều kiện để
cải thiện được phần nào đời sống gia đình, và qua đó phát triển nền kinh tế quê
hương - đương nhiên chúng ta sẽ chọn cái có lợi hơn. Ðể chờ một ngày không xa
sau đó, khi nền kinh tế ở trong nước đã ổn định và tiến cao, bấy giờ lực lượng lao
động không cần phải xuất khẩu nữa.
Những điểm tiêu cực
Tuy nhiên, nếu việc tổ chức và khuyến khích phong trào “xuất khẩu lao
động” chỉ hoàn toàn nhắm tới mục đích duy nhất là muốn tẩy “của nợ” thất
nghiệp và thu nhập số ngoại tệ khổng lồ cụ thể trước mắt do những người Việt
Nam đi lao động hàng tháng hay hàng năm gửi về trong nước, qua thuế lợi tức họ
đóng cho nhà nước hay số tiền họ gửi về tiếp tế cho gia đình mà thôi, thì chúng ta
sẽ vấp phải những sai lầm nghiêm trọng. Nếu xác định rõ “xuất khẩu lao động” là

một việc làm quan trọng, cần thiết và rất hữu ích, thì có thể nói rằng đó không
còn là một phong trào tùy tiện nữa, mà phải coi đó là một quốc sách. Nói cách
khác, vấn đề phải được nhà nước và các bộ ngành của nhà nước công khai đưa ra
bàn thảo, phân tích và đặt thành kế hoạch hẳn hoi. Và chính các cơ quan nhà
nước phải đứng ra điều hợp vấn đề một cách nghiêm chỉnh, đúng đắn và công
bằng, ngay trong khâu tuyển chọn người cho xuất khẩu cho tới việc chăm sóc lo
lắng cho các công nhân trong suốt thời gian lao động ở nước ngoài, nhất là bênh
11
vực cho người công nhân trước những áp bức, chèn ép và bóc lột sức lao động
một cách bất công từ phía các chủ nhân ở nước sở tại, để người công nhân có thể
vui vẻ, khõe mạnh và an tâm làm việc. Ðó là điều mà hiện tại chúng ta hầu như
chưa thực hiện. Thật vậy, qua hoàn cảnh sống và làm việc thực tiễn của người lao
động Việt Nam hiện nay ở nước ngoài, người ta có cảm giác là những cơ sở dịch
vụ làm môi giới việc làm - ở trong cũng như ngoài nước - chỉ là những cơ sở
“đưa con bỏ chợ”; nói cách khác, họ chỉ nhắm tới cái lợi vật chất trước mắt cho
chính họ - từ việc thu lệ phí, tiền bồi dưỡng, tiền thế chân của người lao động,
tiền thuế người lao động phải đóng; nguyên tiền bồi dưỡng và thế chân có người
đã phải trả tới cả chục ngàn USD - chứ số phận người lao động ở ngoại quốc
trong suốt thời gian làm việc ra sao, họ không cần quan tâm. Vì thế, những người
được xuất khẩu lao động muốn sống là họ phải dựa vào nhau, chứ họ không còn
biết nương nhờ vào ai được nữa. Họ cảm thấy bị bỏ rơi. Nếu như thế thì việc cho
xuất khẩu lao động là một việc làm hoàn toàn tiêu cực và vô trách nhiệm. Mỗi
người công nhân xuất khẩu lao động là một nhân vị với đầy đủ nhân phẩm và
mọi giá trị mà “Thượng Ðế” đã ban cho họ, nên chẳng những bất khả xâm phạm
mà còn đòi chúng ta phải tôn trọng và bảo vệ nữa! Vã lại họ còn là những người
công dân, những người đồng bào của chúng ta. Vì thế, không ai có quyền lợi
dụng sức lao động của người khác nói chung và của những người anh em đồng
bào mình nói riêng, để trục lợi, để thu vén lợi ích cho riêng mình. Nhất là thái độ
vô trách nhiệm “sống chết mặc bay” hiện nay của một số cơ quan, ban ngành liên
hệ đối với tầng lớp công nhân được gửi đi lao động ở nước ngoài là một điều

không thể chấp nhận được. Sau cùng, nếu như đã nói trên là chúng ta xuất khẩu
lao động không chỉ nhắm tới số lợi tức bằng ngoại tế do các công nhân chúng ta
mang lại như là mục đích chính, nhưng là nhắm tới việc phát huy sự hiểu biết và
các tài năng của người công nhân – theo kinh nghiệm: “đi một ngày đàng học
một tràng khôn”, cũng như việc đào tạo những công nhân có được kinh nghiệm
về kỹ thuật tân tiến, có tay nghề cao cho tương lai của nền kinh tế nước nhà, thì
chúng ta chỉ nên gửi các công nhân đi làm việc tại các công ty và các cơ sở kỹ
nghệ chuyên môn. Còn những công nhân nữ đi xuất khẩu chỉ để “giúp việc nhà”
trong các tư gia thì nên hạn chế và dần dần xóa bỏ, vì thực tế cụ thể chứng mình
12
cho thấy rằng đó là một vấn đề quá phức tạp và nhạy cảm: phẩm giá của những
người công nhân nữ đó thường bị xúc phạm nặng nề. Nhưng vì hoàn cảnh éo le
“tiến thoái lưỡng nam” nên họ đành “chịu đấm ăn xôi” một cách tủi nhục. Ở đây,
chúng ta cũng không nên bỏ qua một điểm quan trọng khác nữa, đó là theo cách
thực hành hiện nay, thì một khi các công nhân đã được tuyển cho xuất khẩu thì
khi đã tới nơi, người ta thu tất cả các giấy tờ tùy thân của họ, cốt tránh cảnh xé lẻ
bỏ ra ngoài làm riêng và như thế nhà nước có thể quản lý được số lợi tức ngoại tệ
do các công nhân mang lại, chứ không để bị tẩu tán đi, và tránh được cảnh vừa
mất người vừa mất của. Ðây cũng là một chiến lược đúng đắn, không ai phủ nhận
được. Thêm vào đó, hành động như thế sẽ tránh cho những người công nhân trẻ
khi làm việc tại các nước Hồi Giáo không bị thâm nhiễm những ý thức hệ quá
khích, và tại các nước Âu Mỹ không bị lây nhiễm những cách sống phóng đãng
của một số lớn các thanh thiếu niên tại đây, hầu cho sau này nước nhà không
phải gánh chịu những hậu họa nạn khủng bố như trường hợp của các nước Thái
Lan, Phi Luật Tân, v.v… hiện nay. Tuy nhiên, người ta cũng không vì thế mà
biến các công nhân thành những “tù nhân kinh tế” hay những bộ phận sản xuất
thuần túy được. Trái lại, người ta phải tôn trọng nhân phẩm của họ và đối xử với
họ một cách hợp lý.
13
1.2 – Sự cần thiết của xuất khẩu lao động ở Việt Nam.

Theo giáo sư Trần Văn Thọ Đại Học Waseda, Tokyo: “ Một nước xuất
khẩu nhiều lao động giản đơn hầu hết nếu không nói là tất cả, là những nước
nghèo, và do đó hình ảnh của các nước này không mấy sáng sủa trên vũ đài thế
giới…”
Trong thời đại toàn cầu hóa, lao động di chuyển từ nước này sang nước
khác đã trở thành hiện tượng khá phổ biển. Tuy không nhộn nhịp như tư bản và
công nghệ, nhưng lao động cũng là một yếu tố sản xuất ngày càng vượt biên giới
tìm nơi có mức thù lao cao hơn. Tuy nhiên, khác hẳn với sự di chuyển của lao
động trí thức đã có từ trước, xuất và nhập khẩu lao động giản đơn hay lao động
chân tay là hiện tượng tương đối mới. Vấn đề này cũng phức tạp, không thể xét ở
khía cạnh thuần kinh tế. Câu hỏi đặt ra là Việt Nam cần suy nghĩ như thế nào về
vấn đề xuất khẩu lao động? XKLĐ là việc làm phù hợp với xu thế của thời đại.
Philippines là quốc gia có 10% lao động làm việc ở nước ngoài, đã có đóng góp
đáng kể cho bản thân, gia đình và xã hội. Nhưng có phần khác với VN, họ không
xuất khẩu Thực tập sinh (TTS), mà là những lao động có tay nghề.
Hơn hai năm trước, Liên hiệp Các doanh nghiệp lớn Nhật Bản (Nippon
Keidanren) đã đề nghị chính phủ cho phép sử dụng hợp pháp người lao động
nước ngoài, song chưa có phản hồi. Theo dự kiến: Luật Lao động cho người
nước ngoài, kể cả luật nhập cư, sẽ được Chính phủ Nhật quan tâm nhiều hơn
trong thời gian tới. Lâu nay, người Nhật có cuộc sống đầy đủ, chưa ý thức được
việc thiếu lao động. Mặt khác, họ không muốn có nền văn hóa khác xen vào làm
xáo trộn xã hội Nhật. Nhưng trước xu thế toàn cầu hóa, họ sẽ thấy cần tạo ra xã
hội đa văn hóa mới phát triển được. Nếu không, lao động nước ngoài sẽ đến các
thị trường EU, Bắc Mỹ; trong khi Nhật Bản tiếp tục đối diện với nguy cơ thiếu
lao động.
Tháng 6-2006, “Project Team cấp thứ trưởng về vấn đề người lao động
nước ngoài” đã đề ra chính sách nhận người nước ngoài. Về cơ bản, những người
có chuyên môn, kỹ thuật, tay nghề cao hoặc y tế xã hội và những du học sinh
được khuyến khích ở lại làm việc. Lao động phổ thông thì khó được nhận vào.
14

Từ những nội dung cơ bản này, Việt Nam cần hoạch định chính sách phù hợp để
XKLĐ vào thị trường Nhật Bản một cách căn cơ hơn.
1.2.1 – Kinh nghiệm xuất khẩu lao động ở các nước.
Theo Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), hiện nay ở châu Á có 54 triệu
lao động xuất khẩu và lực lượng này đang góp phần giảm bớt tình trạng đói
nghèo ở các nước trong khu vực, vì vậy các chính phủ cần tạo điều kiện thuận lợi
về đi lại và làm việc cho họ. Trong báo cáo thường niên công bố ngày 2/4, ADB
cho biết trong năm 2007 các lao động xuất khẩu ở châu Á đã gửi về quê nhà
108,1 tỷ USD, chiếm hơn 1/3 tổng lượng tiền này trên toàn thế giới. Tuy nhiên,
theo đánh giá của ADB, các quy định ở châu Á đối với lực lượng lao động xuất
khẩu vẫn khá chặt chẽ, các chính phủ trong khu vực cần tăng cường hợp tác để
mở rộng thị trường lao động, quản lý luồng lao động và giảm thiểu phí tổn cho
lao động xuất khẩu (Theo báo điện tử - Thời báo kinh tế ngày 13/04/2008).
Hiện những điểm đến đang rất hấp dẫn đối với lao động xuất khẩu châu Á,
đặc biệt từ Đông Nam Á, là Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc và Singapore.
Những nước cần nhập khẩu lao động có hai loại: một là những nước dân số ít mà
giàu tài nguyên như ở Trung Đông, ở đây thiếu lao động trong các ngành xây
dựng, dịch vụ, nhất là dịch vụ tại tư gia; hai là những nước đã phát triển, kể cả
những nước công nghiệp mới như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Malaysia.
Trong nhóm thứ hai, cơ cấu kinh tế chuyển dịch nhanh sang những ngành dùng
nhiều tư bản, công nghệ và lao động trí thức, và chuyển sang nước ngoài đầu tư
trực tiếp, những ngành có hàm lượng lao động giản đơn cao. Tuy nhiên, tại
những nước công nghiệp mới, những ngành dùng nhiều lao động giản đơn có quy
mô khá lớn nên không thể chuyển hết ra nước ngoài. Thêm vào đó, trong những
ngành đang phát triển mạnh tại những nước này, nhiều công đoạn còn dùng lao
động giản đơn nên nhu cầu nhập khẩu lao động tăng. Tại những nước phát triển
như Tây Âu, Bắc Mỹ, Nhật nhu cầu lao động tăng trong ngành xây dựng, dịch
vụ ẩm thực, dịch vụ săn sóc người cao tuổi, một số nước cần lao động trong nông
nghiệp. Ở đây, cần lưu ý một điểm là tại các nước đã phát triển không phải là
không còn tồn tại lao động giản đơn. Vẫn còn một bộ phận không nhỏ số người

mới ở trình độ giáo dục cưỡng bách. Tuy nhiên vì tiền lương nói chung đã tăng
15
cao theo mức sống của xã hội, các xí nghiệp có khuynh hướng thuê mướn lao
động nước ngoài để giảm chi phí. Mặt khác, lao động bản xứ có xu hướng tránh
những loại công việc mà môi trường lao động không tốt dễ gặp tai nạn, như ở các
công trình xây dựng. Tại Nhật 3 loại công việc mà tiếng Nhật gọi là 3k, phải
nhập khẩu lao động nước ngoài vì không thuê mướn được lao động bản xứ :
nguy hiểm (kiken), môi trường làm việc không sạch sẽ (kitanai) và điều kiện lao
động khắc nghiệt (kitsui) như nóng bức, ngột ngạt.
Về khía cạnh các nước xuất khẩu lao động, nói chung đây là những nước
kém phát triển hoặc phát triển với tốc độ chậm mà không ưu tiên đầy mạnh các
ngành dùng nhiều lao động. Cho đến nay, những nước xuất khẩu lao động vừa
nhiều về số lượng lao động vừa có tỷ lệ cao trong tổng dân số của nước đó là
Lebanon, EL Salvador, Columbia, Pakistan và Philipin. Riêng Philipin hiện nay
có khoảng 8 triệu người làm việc ở nước ngoài, bằng khoảng 10% dân số nước
này. Hằng năm ngoại hối do lao động xuất khẩu gửi về qua đường chính thức
khoảng 10 tỉ USD, xấp xỉ 10% GDP. Nhìn chung có thể thấy một số đặc điểm cơ
bản liên quan đến những nước xuất khẩu lao động và đặc điểm lao động xuất
khẩu là:
Thứ nhất, lao động giản đơn xuất khẩu sang các nước phát triển nhất là
các nước công nghiệp mới thông thường làm việc trong môi trường khó khăn,
quyền lợi của ngưòi lao động dễ bị xâm phạm nếu việc xuất khẩu lao động không
được tổ chức chu đáo, không có sự cam kết của xí nghiệp dùng lao động và sự
giám sát của các cơ quan nước sở tại.
Thứ hai, vì là lao động giản đơn, trình độ học vấn, trình độ văn hóa của
ngưòi đi lao động nước ngoài thấp nên khó thích nghi với điều kiên văn hóa xã
hội nước ngoài. Không ít người thất vọng với hoàn cảnh sống và làm việc ở nơi
đất khách quê người, và có nhiều trường hợp phạm pháp xảy ra, gây ra hình ảnh
xấu cho nước xuất khẩu lao động. Ngoài ra, cùng với điểm thứ nhất, lao động có
trình độ văn hóa thấp thường dễ bị bóc lột tại xứ người.

Thứ ba, nước xuất khẩu lao động hầu hết là những nước không thật thành
công trong các chiến lược phát triển kinh tế. Với trình độ văn hóa thấp, người
dân nước này không khỏi lo âu khi rời xa xứ sở ra nước ngoài làm việc. Tại Á
16
châu, ngay cả việc rời khỏi nông thôn để ra thành thị đối với họ cũng không phải
là sự lựa chọn dễ dàng. Thành ra, nếu trong nước có công ăn việc làm thì ít người
muốn tham gia xuất khẩu lao động.
Thứ tư, cho đến nay, trong những nước xuất khẩu lao động chưa thấy
nước nào đưa vấn đề này vào trong chiến lược phát triển kinh tế chung, trong đó
lao động được đưa đi sẽ bảo đảm rèn luyện được tay nghề khi trở về, ngoại hối
thu được sẽ được dùng một cách hiệu quả trong việc du nhập công nghệ tư
bản và có kế hoạch giảm bớt xuất khẩu lao động trong tương lai. Chỉ thấy có
trường hợp (như Malasia đã làm 20 năm trước) tích cực đưa thực tập sinh sang tu
nghiệp ngắn hạn tại các nước tiên tiến để sau đó về làm với năng suất cao hơn tại
các nhà máy hoặc cơ sở kinh tế khác, nhằm thực hiện thành công chiến lược phát
triển chung. Nhưng thực tập sinh khác về chất với vấn đề xuất khẩu lao
động.XKLĐ là việc làm phù hợp với xu thế của thời đại. Philippines là quốc gia
có 10% lao động làm việc ở nước ngoài, đã có đóng góp đáng kể cho bản thân,
gia đình và xã hội. Nhưng có phần khác với VN, họ không xuất khẩu TTS, mà là
những lao động có tay nghề.
1.2.2 – Vấn đề xuất khẩu lao động ở Việt Nam trong thời gian qua.
Việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài là một chủ trương lớn
của Đảng và Nhà nước ta nhằm tạo việc làm, tăng thu nhập, nâng cao trình độ tay
nghề, tiếp cận công nghệ tiên tiến cho người lao động. Nước ta đã hợp tác đưa
lao động đi làm việc ở nước ngoài từ năm 1980. Trong thời kỳ từ năm 1980 đến
1990, hợp tác lao động của nước ta chủ yếu thông qua các Hiệp định Chính phủ
với Liên Xô (trước đây), một số nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và một số
nước ở Trung Đông. Trong giai đoạn này, hợp tác lao động được thực hiện theo
kế hoạch của Nhà nước do các cơ quan Nhà nước tổ chức thực hiện. Từ năm
1991 đến nay, hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài được thực

hiện theo cơ chế thị trường, Nhà nước chủ yếu làm chức năng quản lý, mở thị
trường, các doanh nghiệp ký kết hợp đồng và trực tiếp đưa, quản lý người lao
động làm việc ở nước ngoài. Quy định hiện hành của pháp luật về xuất khẩu lao
động, ngoài tám điều trong Bộ luật Lao động, chủ yếu được quy định trong các
Nghị định của Chính phủ.Theo đó, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân
17
Việt Nam có đủ điều kiện đi làm việc ở nước ngoài; bảo hộ quyền, lợi ích hợp
pháp của người lao động đi làm việc ở nước ngoài; hỗ trợ đầu tư mở thị trường
lao động mới, thị trường có thu nhập cao, thị trường tiếp nhận nhiều người lao
động; hỗ trợ đào tạo cán bộ quản lý, dạy nghề, ngoại ngữ cho người lao động;
Nhà nước có chính sách tín dụng ưu đãi cho các đối tượng chính sách xã hội đi
làm việc ở nước ngoài; khuyến khích đưa nhiều người lao động có trình độ
chuyên môn, kỹ thuật đi làm việc ở nước ngoài, đưa người lao động đi làm việc ở
thị trường có thu nhập cao; khuyến khích đưa người lao động đi làm việc tại công
trình, dự án, cơ sở sản xuất, kinh doanh do doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trúng
thầu, nhận thầu, đầu tư thành lập ở nước ngoài. Không kể thời kỳ quan hệ kinh tế
mật thiết với các nước Đông Âu, xuất khẩu lao động của Việt Nam tăng nhanh từ
cuối thập niên 1990 và chủ yếu sang các nước Đông Á, Nhất là Malaisia, Đài
Loan và Hàn Quốc. Gần đây, thị trường xuất khẩu lao động mở rộng sang Trung
Đông, Tây Âu và Mỹ. Từ năm 2001, bình quân mỗi năm có 70.000 lao động
được đưa ra nước ngoài. Hiện nay có xấp xỉ 500.000lao động Việt Nam đang làm
việc tại hơn 40 nước và lãnh thổ, trong đó riêng tại Malaisia có hơn 100.000
người, chiếm khoảng 10% tổng số lao động nhập khẩu của nước này.
Từ những phân tích ở trên ta cũng hiểu được phần nào vấn đề này. Cùng
với hiện tượng ngày càng nhiều phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài
chỉ vì mục đích giải quyết khó khăn về kinh tế, biến việc xuất khẩu lao động trở
thành vấn đề bức xúc của xã hội ta, xúc phạm lòng tự trọng của người Việt. Đặc
biệt xuất khẩu lao động ồ ạt làm cho hình ảnh của Việt Nam trên thế giới không
mấy sáng sủa. Tổn thất này có bù đắp được bởi mấy tỉ USD ngoại hối hay
không? Trong nước đang bàn về dự thảo đưa người lao động đi làm việc ở nước

ngoài và đã được thông qua vào cuối năm 2006. Việc tổ chức có hệ thống này hy
vọng sẽ cải thiện tốt hơn tình hình xuất khẩu lao động hiện nay. Trong điều kiện
kinh tế khó khăn, xuất khẩu lao động có thể cải thiện đáng kể đời sống của người
lao động, mang lại nguồn ngoại tệ đóng góp cho ngân sách nhà nước, góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Dó đó xuất khẩu lao động là
một biện pháp hữu hiệu trong hoàn cảnh hiện nay và trong thời gian tới. Tuy
nhiên có những người bất đồng quan điểm đã lên tiếng phê bình và chống đối
18
không phải là vô căn cứ. Vì vậy chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng phải làm thế
nào để hạn chế bớt những điểm tiêu cực của xuất khẩu lao động thì nó phải nhằm
tới mục đích thật rõ ràng như:
Mục đích gần: Giải quyết công ăn việc làm cho tầng lớp công nhân trẻ;
tránh đi cho họ cảnh “nhàn cư vi bất thiện”, không bị rơi vào các tệ nạn xã hội;
và nhất là thu về cho ngân sách nhà nước một số ngoại tệ to lớn mà nhà nước
đang cần để giao dịch thương mại với ngoại quốc.
Mục đích xa: Trong khi làm việc ở ngoại quốc, các công nhân Việt Nam
có dịp tiếp cận và học hỏi được các kỹ thuật, chuyên môn của nước bạn. Như thế,
dưới một hình thức nào đó, các công nhân xuất khẩu lao động hiện nay cũng có
thể gọi là “du học sinh” và do đó là một tiềm năng đầy triển vọng trong việc xây
dựng nền kinh tế nước nhà sau này. Người ta không được phép quên rằng mỗi
người công nhân là một nhân vị có đầy đủ phẩm giá thiêng liêng, cao cả mà tạo
hóa đã ban cho họ, nên không bất cứ ai có quyền coi họ như những bộ phận
thuần túy kinh tế nhất là lợi dụng sức lao động của họ để trục lợi riêng. Trái lại,
các cơ quan và ban ngành liên quan có bổn phận phải săn sóc, chăm lo đời sống
cụ thể của người công nhân xuất khẩu về vật chất cũng như tinh thần, nhất là bảo
vệ và bênh vực cho họ trước sự đàn áp và bóc lột của các chủ nhân cũng như
những công chức thoái hóa của các nước sở tại. Được như vậy các ban ngành và
các giới chức liên quan mới tránh cho người công nhân xuất khẩu lao động cái
mặc cảm “một cổ hai tròng” và cảnh “làm tôi hai chủ”, chủ nhân của nước sở tại
và các giới chức Việt Nam phụ trách họ. Và có được như thế thì phong trào “xuất

khẩu lao đông” mới có đầy đủ lý hữu và có ý nghĩa đích thực của nó, tránh được
những suy nghĩ tiêu cực về vấn đề này.
19
CHƯƠNG 2 – TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH XUẤT
KHẨU LAO ĐỘNG CỦA VIỆT NAM
2.1 – Thực trạng xuất khẩu lao động ở Việt Nam.
2.1.1 – Những thành tựu của xuất khẩu lao động trong những năm qua.
Đối với một nước dân số vào khoảng 84 triệu dân, với trên một nữa là số
người trong độ tuổi lao động, nhưng số người thất nghiệp ở thành thị lên đến
5,6% và số thời gian chưa được sử dụng ở nông thôn lên đến trên 20%, thì xuất
khẩu lao động là một kênh giải quyết việc làm cho người lao động rất có ý nghĩa.
Xuất khẩu lao động cũng là một kênh đem lại nguồn thu nhập cho đất nước. Hơn
nữa, nó còn tạo điều kiện cho người lao động học hỏi được những kinh nghiệm
làm việc trong nền công nghiệp, nâng cao tay nghề và tác phong làm việc cho
người lao động Những người này, với những kinh nghiệm học hỏi được cùng
với số vốn mà họ tích lũy được sau khi hoàn thành hợp đồng sẽ trở về quê hương
đầu tư xây dựng nhà cửa, lập ra các doanh nghiệp vừa và nhỏ, góp phần xóa đói
giảm nghèo và thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Vì vậy, xuất
khẩu lao động là một hình thức đang được Đảng và nhà nước rất quan tâm.
Trong mấy năm gần đây, số lao động đi làm việc ở nước ngoài ngày một tăng lên
rõ rệt về cả chất lượng và số lượng. Theo báo cáo của Bộ lao động - thương binh
và xã hội với Ủy ban thường vụ Quốc hội về tình hình xuất khẩu lao động từ năm
2003 đến hết tháng 06/2005, cả nước đã đưa được trên 173.000 lao động đi làm
việc ở nước ngoài. Và cho đên thời điểm này nước ta có hơn 400.000 lao động
Việt Nam đang làm việc tại hơn 40 nước và vùng lãnh thổ với tổng thu nhập
hàng năm khoảng 1.5tỷ USD. Báo cáo khẳng định công tác xuất khẩu lao động
và chuyên gia trong những năm qua đã góp phần đào tạo nghề, giải quyết việc
làm, xóa đói giảm nghèo, cải thiện đời sống cho một bộ phận người lao động,
chủ yếu ở nông thôn và người nghèo.
(Theo thời báo kinh tế Việt Nam 22/02/2007). Năm 2006, xuất khẩu lao

động ở Việt Nam đã tiếp tục được giữ vững, ổn định các thị trường truyền thống,
mở thêm được các thị trường mới. Kết quả xuất khẩu lao động và chuyên gia cả
20
nước đạt 78.855 người, bằng 105,1% kế hoạch, vượt 12% so với năm 2005.
Riêng 9 tháng đầu năm 2007, cả nước đưa được 62760 lao động sang nước
ngoài, đạt 78.5% kế hoạch cả năm. Trong đó đông nhất là Malaysia với 21313
người, thứ hai là thị trường Đài Loan với 16554 người, tiếp đó là Hàn Quốc với
8536 người, Quatar 4350 người, Nhật Bản là 3047 người, Macao là 1631 người
và các thị trường khác là 7032 người. Nếu năm 1995 nước ta mới có 29vạn lao
động làm việc ở tại 15nước thì đến nay đạt gần 60vạn lao động làm việc ở trên
40nước và vùng lãnh thổ. Hiện nay, lao động Việt Nam đang làm việc chủ yếu ở
các thị trường: Malaysia trên 100.000 người, thu nhập bình quân 2-3triệu
đồng/tháng, một số nghề thu nhập 5-7triệu đồng/tháng; Đài Loan có trên 90.000
người thu nhập 300-500 USD/tháng; Hàn Quốc có trên 30.000 người, thu nhập
bình quân khoảng 900-1000 USD/tháng; Nhật Bản khoảng 19.000 tu nghiệp sinh
với thu nhập bình quân trên 1000USD/tháng. Ngoài ra, các tiểu vương quốc Ả
Rập thống nhất có khoảng 3000 lao động và tại Quatar co trên 7000 người.
Chúng ta đang bắt đầu đầu tư vào kế hoạch đưa lao động sang các thị trường mới
như Cộng hòa Sec, Úc, Bruney, Macao, Nga, Canada Hàng năm, số lao động
làm việc ở nước ngoài đã gửi về nước một lượng ngoại tệ khoảng 1.6 tỷ USD, đó
là con số khá đáng kể. Đặc biệt cho đến hết năm 2007, xuất khẩu lao động chúng
ta đã hoàn thành vượt mức kế hoạch là đã đưa được trên 85.000 lao động đi làm
việc có thời hạn ở nước ngoài, người lao động gửi về 1.7tỷ USD.
Mặt khác, các doanh nghiệp xuất khẩu lao động cũng không ngừng tăng
lên về cả số lượng và chất lượng. Theo thông tin từ Hiệp Hội Xuất khẩu lao động
Việt Nam (trang thông tin điện tử - Bộ lao động - Thương binh và xã hội ngày
20/2/2008), trong năm 2007, Hiệp hội biểu dương 19 doanh nghiệp có thành tích
xuất sắc trong việc đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài. Trong đó công ty AIC
đã xuất khẩu trên 5.000 lao động, còn lại các công ty khác đã đưa được hơn
1.000 lao động / năm như các công ty TRAENCO, công ty TTLC…Đạt được kết

quả trên, những công ty này, trong năm phải vượt qua rất nhiều khó khăn như thị
trường lao động cạnh tranh gay gắt, nguồn tuyển lao động khan hiếm, đã góp
phần cùng 150 doanh nghiệp xuất khẩu lao động của cả nước đưa được hơn 85
nghìn lao động đi làm việc ở nước ngoài. Trong năm 2007, Trung tâm Lao động
21
Ngoài nước đã hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu, nhiệm vụ được
Bộ giao về công tác tuyển chọn, đào tạo và đưa người lao động đi làm việc ở
nước ngoài. Đây là năm thứ hai Trung tâm phối hợp với phía Hàn Quốc tổ chức
thành công 2 đợt kiểm tra tiếng Hàn cho hơn 16 nghìn lao động; phối hợp với các
đơn vị liên quan và các địa phương hướng dẫn người lao động thi đạt chứng chỉ
làm hồ sơ dự tuyển và gửi hồ sơ qua mạng để chủ sử dụng lao động Hàn Quốc
lựa chọn. Tính đến ngày 31/12/2007, Trung tâm đã đưa được 10.490 lao động đi
làm việc tại Hàn Quốc (tăng gần 5000 người so với năm 2006 và là con số cao
nhất trong 4 năm thực hiện Chương trình EPS), đưa Việt Nam trở thành nước có
tỷ lệ lao động được chọn và số lượng người đi làm việc tại Hàn Quốc lớn nhất
trong 10 quốc gia phái cử (năm 2007, các nước Thái Lan, Philippin chỉ đưa đi
được trên 5000 lao động). Chất lượng lao động được tuyển chọn cơ bản đáp ứng
được yêu cầu về tiếng Hàn và tay nghề, tạo được uy tín đối với chủ sử dụng lao
động trong những năm tới. Ngoài ra, đơn vị còn chủ trì, phối hợp với Tổ chức
Phát triển nguồn nhân lực Hàn Quốc và Trường Cao đẳng Kỹ thuật công nghệ tổ
chức 4 đợt kiểm tra tay nghề, thể lực và phỏng vấn cho 1046 lao động trong
ngành xây dựng, trong đó có 465 người đã được lựa chọn ký hợp đồng trực tiếp
với chủ sử dụng lao động. Cũng trong năm qua, Trung tâm đã tổ chức 248 lớp
học giáo dục định hướng cho 9867 lao động. Việc giáo dục định hướng được tổ
chức ở 3 miền Bắc, Trung, Nam đã giúp người lao động giảm chi phí đi lại trong
thời gian đào tạo và tiếp tục củng cố tiếng Hàn trong thời gian chờ xuất cảnh,
nâng cao nhận thức của người lao động trước khi sang làm việc ở nước ngoài.
Bên cạnh công tác tuyển chọn và đưa lao động sang Hàn Quốc, Trung tâm cũng
phối hợp với Cục Quản lý Lao động Ngoài nước, Hiệp hội Phát triển nhân lực
quốc tế các doanh nghiệp vừa và nhỏ Nhật Bản (IMM Japan) tổ chức tốt việc

tuyển chọn và đào tạo cho tu nghiệp sinh Việt Nam sang Nhật Bản theo Bản Ghi
nhớ giữa Bộ trưởng Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội và Chủ tịch IMM
Japan ngày 11/10/2005. Nhờ đó, trong năm đã đưa được 138 tu nghiệp sinh sang
Nhật Bản theo chương trình này, được phía bạn đánh giá cao, tạo cơ sở mở rộng
chương trình với quy mô và số lượng lớn hơn (riêng năm 2008, chỉ tiêu Nhật Bản
dành cho Việt Nam khoảng 350 tu nghiệp sinh). Ngoài ra, Trung tâm cũng tiếp
22
tục thực hiện việc tiếp nhận thẩm định và xác nhận cho gần 7000 lao động đi làm
việc tại Đài Loan theo hợp đồng thứ hai. Trung tâm cũng tiếp tục kiện toàn tổ
chức bộ máy; đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị đáp ứng yêu cầu công tác; tăng
cường phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng tuyên truyền sâu rộng đến
các cơ quan chức năng và người lao động về Chương trình EPS, cảnh báo kịp
thời những hành vi cò mồi, môi giới, lừa đảo người lao động. Năm 2008, Trung
tâm Lao động Ngoài nước sẽ tập trung thực hiện tốt công tác tuyển chọn lao
động; chú trọng công tác đào tạo, giáo dục định hướng nhằm nâng cao chất
lượng lao động và tu nghiệp sinh; đơn giản hoá thủ tục và rút ngắn thời gian chờ
xuất cảnh; phối hợp chặt chẽ với Ban Quản lý Lao động Việt Nam tại Hàn Quốc
để quản lý người lao động; đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, quản lý tài
chính, tăng cường công tác kiểm tra và kiện toàn tổ chức bộ máy. Những đóng
góp của trung tâm trong thời gian qua là rất đáng ghi nhận. Và để trung tâm ngày
một phát triển và có những đóng góp tích cực hơn nữa thì trong thời gian tới
trung tâm cần làm một số việc sau:
Thứ nhất, nghiên cứu, tham mưu đề xuất với Bộ về quy trình tuyển chọn
lao động đi làm việc tại Hàn Quốc bảo đảm công khai, minh bạch và hạn chế các
hành vi tiêu cực, trong đó có cơ chế tăng thêm chỉ tiêu đối với những tỉnh làm tốt,
giảm chỉ tiêu đối với những địa phương thực hiện không hiệu quả, chỉ trông chờ
vào chỉ tiêu đi làm việc tại Hàn Quốc mà không chú trọng tới các thị trường khác.
Thứ hai, phối hợp tốt với IMM Japan làm tốt chương trình đưa tu nghiệp
sinh sang Nhật Bản, trong đó cần chú trọng nâng cao trình độ tiếng Nhật cho
người lao động.

Thứ ba, nâng cao hiệu quả công tác đào tạo giáo dục định hướng, phối
hợp chặt chẽ với các cơ sở đào tạo hiện có, đồng thời nghiên cứu mở rộng thêm
cơ sở tại miền Trung; phối hợp với Cục Quản lý Lao động Ngoài nước để thống
nhất nội dung giáo trình đào tạo cho lao động đi làm việc tại Hàn Quốc.
Thứ tư, đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, tăng cường cường kiểm
tra và xử lý vi phạm ở địa phương.
Thứ năm, nhanh chóng nghiên cứu, đề xuất hoàn thiện cơ chế tài chính
của trung tâm.
23
Thứ sáu, tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy.
Trên đây là một số thành tựu mà xuất khẩu lao động Việt Nam nói chung
và doanh nghiệp xuất khẩu lao động đạt được trong thời gian qua. Bên cạnh đó
xuất khẩu lao động cũng còn những vấn đề hạn chế và chúng ta sẽ tìm hiểu nó
trong phần tiếp theo đây.
2.1.2 – Những hạn chế của xuất khẩu lao động ở Việt Nam.
Mặc dù xuất khẩu lao động đã đạt được những thành tựu kể trên nhưng
vấn đề này vẫn tồn tại môt số hạn chế. Công tác xuất khẩu lao động trong thời
gian qua vẫn chưa ổn định, chưa tương xứng với tiềm năng lao động trong nước.
So với các nước trong khu vực thì số lượng lao động xuất khẩu lao động của
nước ta vẫn còn nhỏ bé. Như Philipin nước có cùng trình độ và tương đương về
quy mô dân số, đến nay đã đưa được 7,5 triệu lao động ra nước ngoài làm việc
với số ngoại tệ đưa về nước hàng năm vào khoảng 8,5tỷ USD. Indonesia thì đưa
được 8vạn lao động sang làm việc ở nước ngoài và lượng ngoại hối đưa về nước
theo con đường chính thức là 4,6tỷ USD. Còn Ấn Độ thì đã đưa được 50.000 lao
động đi làm việc ở ngoại quốc và lượng ngoại hối là 11tỷ USD. Hơn nữa, phần
lớn lao động Việt Nam thường rơi vào ở các thị trường có thu nhập thấp, công
việc đơn giản, môi trường làm việc nặng nhọc, độc hại, kém hấp dẫn. Một số thị
trường cần nhiều lao động biết ngoại ngữ, có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao
thì chưa đáp ứng được yêu cầu. Đáng báo động là tình trạng lao động vi phạm
hợp đồng bỏ trốn đang là vấn đề nổi cộm, búc xúc trong công tác xuất khẩu lao

động hiện nay.
(Theo báo HÀ NỘI MỚI điện tử ngày 30/07/2006). Bộ LĐ-TB-XH, mục
tiêu đặt ra là đến năm 2010, nâng tỉ lệ lao động xuất khẩu có nghề lên mức tối
thiểu 75% trong tổng số lao động đưa đi hằng năm, trong đó lao động có trình độ
từ trung cấp nghề trở lên chiếm 40%; đến năm 2015, chủ yếu XKLĐ có nghề, lao
động có trình độ chuyên môn kỹ thuật và chuyên gia; 100% lao động xuất khẩu
được đào tạo ngoại ngữ, giáo dục định hướng. Bộ LĐ-TB-XH đã xây dựng xong
đề án nói trên và đang tiến hành các bước triển khai.
Tuy nhiên, theo các chuyên gia XKLĐ, các mục tiêu đề ra là rất khó hoàn
thành. Các số liệu cho biết từ năm 1998-2005, cả nước đưa được 360.959 lao
24
động đi làm việc ở nước ngoài (riêng 6 tháng đầu năm 2006 là 35.171 lao động),
trong đó 61.300 lao động có nghề chuyên môn, chiếm 27,5%. Điều đáng nói là
nếu như năm 1998, tuy số lượng lao động đi XKLĐ chỉ có 12.240 người, nhưng
tỉ lệ lao động có nghề chiếm tới 39,9%; trong khi năm 2003 tỉ lệ lao động có nghề
giảm 16.17% trong số 75.000 lao động được đưa đi. Riêng trong 2 năm 2004 và
2005, ước tỉ lệ lao động có nghề đi XKLĐ cũng chỉ chiếm khoảng dưới 20% trong
tổng số 140.000 lao động được đưa đi. Cái lo là XKLĐ chỉ mới tập trung giải
quyết việc làm trước mắt cho lao động nghèo, trình độ thấp, còn việc liên kết đào
tạo, chuẩn bị nguồn nhân lực có nghề cho XKLĐ thì chưa được chú trọng.
Chưa khai thác hết tiềm năng
Số lượng lao động được đưa đi làm việc ở nước ngoài của VN tăng đều
hằng năm (xem bảng). Trong 5 năm trở lại đây, bình quân mỗi năm cả nước có
trên 50.000 lao động đi XKLĐ, nguồn thu ngoại tệ tính theo thu nhập thực tế do
người lao động chuyển về nước đạt khoảng 1,5 tỉ USD/năm. Mặc dù đóng góp
không nhỏ cho tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm xã hội, nhưng XKLĐ vẫn
chưa được xem là ngành kinh tế mũi nhọn. Nếu so với tiềm năng lao động dồi
dào với khoảng 25 triệu người ở độ tuổi từ 18 đến 35 thì XKLĐ của VN vẫn
chưa khai thác hết. Còn nếu nhìn sang các nước, VN vẫn còn thua xa về năng lực
XKLĐ. Philippines. Hiện có hơn 700 doanh nghiệp XKLĐ (trong khi VN chỉ có

160), hằng năm đưa được khoảng 800.000 người ra nước ngoài, dòng kiều hối do
người lao động gửi về đạt trên 10 tỉ USD/năm. Nguồn thu từ XKLĐ đóng góp
8% vào tăng trưởng kinh tế của đất nước. Một số liệu rất đáng lưu ý khác đó là
trái ngược với nỗ lực chung về khai thác thị trường mới, bản đồ XKLĐ của VN
đang dần bị thu hẹp. Từ năm 2000 trở về trước, lao động VN được đưa đi làm
việc ở 38 quốc gia và vùng lãnh thổ, hiện chỉ còn 18. Trong nhiều năm liền,
XKLĐ của VN chỉ quanh quẩn với 4 thị trường Đài Loan, Malaysia, Hàn Quốc
và Nhật Bản, trong khi tỉ lệ lao động sang các thị trường mới chiếm chưa tới 5%.
Về chất lượng lao động
Do lao động Việt Nam vốn xuất thân từ nông thôn, đa số không nghề,
không ngoại ngữ, không tác phong công nghiệp, mà chúng ta vẫn thường gọi là
lao động “3không”, rất bất lợi khi muốn ra nước ngoài làm việc. Thông thường
25
những lao động “3không” bao giờ cũng rất khó được tuyển chọn và thu nhập
thấp. Đối tượng lao động này cũng rất khó tiếp cận và học hỏi công việc cũng
như phong tục tập quán, văn hóa của nước sở tại nếu được tuyển dụng. Thời gian
kéo dài sẽ dẫn đến tâm lý chán việc, tệ hơn là góp phần vào số lượng lao động bỏ
trốn. Đó là những vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến bản thân người lao động.
Ngoài ra, thực trạng này còn ảnh hưởng rất lớn đến thương hiệu, uy tín lao động
Việt Nam trên thị trường thế giới. Thực tế thì cho đến thời điểm này, thị trường
lao động ngoài nước vẫn cần chấp nhận một bộ phận lao động giản đơn, chưa
qua đào tạo nghề hoặc trình độ nghề thấp. Tuy nhiên, ở hầu hết các thị trường,
nhu cầu về lao động có tay nghề đang gia tăng mạnh mẽ, đặc biệt là những lao
động có tay nghề cao. Cụ thể, những thị trường như Mỹ, Canada, Australia.
Singapore được coi là thị trường cao nhất kể cả thu nhập và điều kiện nhập cảnh.
Muốn có một tấm visa vào những thị trường này, người lao động phải có kỹ năng
tay nghề cao, kinh nghiệm làm việc thực tế và phải đạt trinh độ tiếng Anh 4.5
điểm IELTS trở lên…
Một trong số những nguyên nhân chính của tình hình trên là do chưa có sự
gắn kết chặt chẽ, hợp tác chiến lược giữa cơ sở dạy nghề với doanh nghiệp xuất

khẩu lao động. Thực tế các trường dạy nghề khá nhiều nhưng phần lớn vẫn chưa
bắt bén được nhu cầu thị trường cả trong ngành nghề lẫn công nghệ. Nhiều học
viên học nghề xong không biết sử dụng những thiết bị hiện đại. Còn việc dạy
ngoại ngữ trong các trường dạy nghề hầu hết chưa đáp ứng được yêu cầu của xã
hội, các hoc viên học theo kiểu ứng phó “học cho có”,vì vậy học viên ra trường
không đủ trình độ ngoại ngữ để đi làm việc ở nước ngoài. Vì thế, từ trước đến
nay, phần lớn các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đều tự tạo nguồn và tự đào
tạo lấy lao động. Tuy nhiên, các doanh nghiệp chủ yếu là đào tạo ngoại ngữ và
giáo dục định hướng. Doanh nghiệp nào có cơ sở dạy nghề thì chủ yếu dạy nghề
ngắn hạn. Số doanh nghiệp xuất khẩu lao động có trường dạy nghề rất ít, và cũng
không thể đào tạo được nhiều nghề để đáp ứng yêu cầu đa dạng về nghề của thị
trường lao động quốc tế. Ngoài ra, lao động khi có nguyện vọng đi làm việc ở
nước ngoài đều muốn đi băng con đường nhanh nhất, việc họ không đủ kiên trì
và kinh phí để theo học một lớp chính quy từ 12-24 tháng cũng là một nguyên
26

×