Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Xuân Nam – Hà Tây.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (449.88 KB, 109 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Cuối năm 2006, Việt Nam đã chính thức trở thành một thành viên của
WTO, đánh dấu một bước tiến và một sự chuyển biến quan trọng về mọi mặt
của đất nước.Trong tiến trình gia nhập WTO, nước ta đã có những cải tổ hết
sức quan trọng, nhất là trong lĩnh vực kinh tế, đặc biệt là về thị trường tài
chính, ngân hàng. Có thể nói thị trường tài chính và hệ thống ngân hàng Việt
Nam chưa bao giờ có sự phát triển với tốc độ nhanh chóng như thời gian vừa
qua. Điều đó phù hợp với sự phát triển chung của thế giới cũng như để Việt
Nam có đủ điều kiện gia nhập WTO. Tuy nhiên, khi đã trở thành thành viên
chính thức WTO, khó khăn đối với thị trường tài chính và hệ thống ngân hàng
Việt Nam không những không giảm bớt mà còn tăng lên vì WTO không chỉ
đem đến cho nước ta cơ hội để phát triển mà còn đem đến rất nhiều những
thách thức phải đối đầu. Vận hội mới, thách thức mới đã đến đòi hỏi nền kinh
tế nói chung và thị trường tài chính, hệ thống ngân hàng nước ta nói riêng
phải liên tục đổi mới, phát triển.
Ra đời và phát triển trong giai đoạn đất nước đang có những biến chuyển
mạnh mẽ, hệ thống ngân hàng đang có nhiều cơ hội để phát triển cũng như
thách thức cần phải vượt qua như vậy, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Thanh Xuân Nam – một chi nhánh mới được thành lập không lâu
của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh Hà Tây – cũng luôn
ý thức được nhiệm vụ của mình. Công tác huy động vốn luôn được Ngân
hàng đặt lên hàng đầu. Trong hơn 7 năm hoạt động, công tác huy động vốn
của ngân hàng đã đạt được những kết quả hết sức khả quan, tuy nhiên cũng
còn một số hạn chế cần được tiếp tục cải thiện.
- 1 -
Chuyên đề tốt nghiệp
Sau một thời gian được thực tập tại NHNo&PTNT Thanh Xuân Nam -Hà
Tây, nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề huy động vốn tại ngân hàng,
em đã lựa chọn đề tài: “Một số giải pháp nhằm tăng cường công tác huy
động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn


Thanh Xuân Nam – Hà Tây” làm chuyên đề tốt nghiệp.
Nội dung của chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận, bao gồm ba
chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động huy động vốn của Ngân
hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng công tác huy động vốn tại Chi nhánh Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Xuân Nam – Hà Tây.
Chương 3: Giải pháp tăng cường công tác huy động vốn tại Chi nhánh
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Thanh Xuân Nam - Hà Tây.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các thầy cô giáo, các
cô chú, anh chị cán bộ, công nhân viên của Chi nhánh NHNo&PTNT Thanh
Xuân Nam, đặc biệt là của cô giáo: Th.s.Lê Hương Lan - người đã nhiệt tình
hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Vì kinh nghiệm thực tiễn cũng như kiến thức của em còn nhiều hạn chế
nên chuyên đề này của em không thể tránh khỏi những thiếu xót. Em rất
mong nhận được sự thông cảm và những lời góp ý quý báu của các thầy cô
giáo để em có thể hoàn thành tốt hơn nữa chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Em xin trân trọng cảm ơn!
- 2 -
Chuyên đề tốt nghiệp
Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG
HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Ngân hàng thương mại và vai trò của Ngân hàng thương mại trong
nền kinh tế thị trường
a) Khái niệm Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền
kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền
kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó Ngân hàng thương

mại thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng
các ngân hàng.
Theo các nhà kinh tế học thì sự ra đời của Ngân hàng thương mại trong
lịch sử là một tất yếu khách quan. Ngay từ thời kỳ xã hội chiếm hữu nô lệ đã
xuất hiện mầm mống sơ khai cho sự ra đời của Ngân hàng thương mại. Đó là
hoạt động cho vay nặng lãi. Sau đó nền sản xuất hàng hóa ra đời và khi phát
triển đến một mức độ nhất định vào đầu thế kỷ XV thì các NHTM chính thức
ra đời. Trong thời kỳ này, các NHTM hoạt động kinh doanh đa năng và đều
có các hoạt động như nhau, bao gồm: phát hành giấy bạc ngân hàng; kinh
doanh, nhận tiền gửi của khách hàng; chiết khấu và cho vay; thực hiện các
dịch vụ thanh toán khác…với mục tiêu vì lợi nhuận.Để tìm kiếm lợi nhuận,
các ngân hàng bắt đầu cạnh tranh nhau và trong quá trình cạnh tranh đó, nhều
ngân hàng bị phá sản, bị thôn tính cũng như có nhiều ngân hàng lớn dần lên.
Cùng với thời gian, sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa ngày càng phức
tạp hơn đòi hỏi các NHTM cũng phải có nhiều thay đổi phù hợp hơn để tồn
tại. Sự chuyên môn hóa trong lĩnh vực ngân hàng cũng như hậu quả của
những cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đã dẫn đến sự ra đời của Ngân hàng
- 3 -
Chuyên đề tốt nghiệp
trung ương – chuyên quản lý việc phát hành tiền và thực hiện điều tiết nền
kinh tế. Điều này đã tách các NHTM ra khỏi chức năng phát hành tiền và thực
hiện chuyên sâu vào việc kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ khác. Từ lúc này,
nói đến ngân hàng, người ta hiểu có nghĩa là nói đến các NHTM.
Nền kinh tế ngày càng phát triển đòi hỏi các NHTM phải cung cấp các
dịch vụ ngày càng đa dạng và phong phú hơn. Do vậy, các nghiệp vụ ngân
hàng cũng không ngừng được cải tiến và hoàn thiện hơn.
Tóm lại, Ngân hàng hay Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức
quan trọng đối với nền kinh tế. Có nhiều cách định nghĩa ngân hàng. Tiếp cận
theo các loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp thì ngân hàng được hiểu
như sau: Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch

vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh
toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức
kinh doanh nào trong nền kinh tế. Khi tiếp cận theo các hoạt động chủ yếu
của NHTM thì Luật các tổ chức tín dụng của nước ta ghi như sau: “Hoạt động
ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung
thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung
ứng các dịch vụ thanh toán”.
b) Đặc điểm của Ngân hàng thương mại
Tham gia kinh doanh trong một lĩnh vực hết sức nhạy cảm là tiền tệ - một
lĩnh vực mà các nhà kinh tế học coi là huyết mạch, cung cấp phương tiện lưu
thông, thanh toán và chi phối hầu hết các hoạt động của nền kinh tế - các
NHTM không chỉ trở thành một bộ phận quan trọng nhất trong guồng quay
của bộ máy tuần hoàn vốn của nền kinh tế mà còn trở thành công cụ để Nhà
nước có thể điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Bất kỳ một nền kinh tế nào muốn phát
triển mạnh và ổn định phải có một hệ thống ngân hàng phát triển và vững
mạnh.
- 4 -
Chuyên đề tốt nghiệp
Trong báo cáo chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta khẳng định: “Ngân hàng phải là ngành đi
đầu với tư cách là động lực và là công cụ tổ chức quản lý cho nền kinh tế ổn
định và phát triển…”.
Với những tính chất đặc thù trên, NHTM bao gồm các đặc điểm sau:
• Trung gian tài chính:
Ngân hàng là một trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển
tiết kiệm thành đầu tư. Trong nền kinh tế có hai loại cá nhân và tổ chức, đó là:
Các cá nhân, tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu và có nhu cầu bổ sung vốn;
các cá nhân, tổ chức thặng dư trong chi tiêu và có nhu cầu bảo toàn, sinh lời
vốn. Hai loại cá nhân và tổ chức này tạo thành cung cầu về vốn nhưng việc
gặp nhau của cung cầu vốn này bị cản trở bởi khoảng cách không gian, thời

gian, thông tin…nên khó có thể gặp nhau trực tiếp. Vì vậy, NHTM đứng ra
đóng vai trò là một trung gian để giúp cung cầu về vốn gặp nhau. Các NHTM
không chỉ khắc phục những khó khăn về không gian, thời gian, thông tin mà
còn có khả năng thẩm định thông tin và chia sẻ rủi ro với khách hàng. Đây là
một đặc điểm nổi bật của NHTM.
• Tạo phương tiện thanh toán:
Một trong những chức năng quan trọng của tiền là tạo phương tiện thanh
toán. Kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ nên các NHTM có chức năng tạo
phương tiện thanh toán.
Trước đây, khi chưa có Ngân hàng trung ương, các NHTM lớn, có uy tín,
có khả năng phát hành tiền của riêng mình và đưa vào lưu thông tạo ra
phương tiện thanh toán cho nền kinh tế. Khi Ngân hàng trung ương ra đời, các
NHTM không còn phát hành tiền nhưng vẫn có khả năng tạo ra phương tiện
thanh toán thông qua việc triển khai dịch vụ thanh toán qua số dư tài khoản
của khách hàng. Theo quan điểm hiện đại, khi ngân hàng cho vay, số dư trên
- 5 -
Chuyên đề tốt nghiệp
tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng
để mua hàng hóa dịch vụ. Do đó, bằng việc cho vay, các NHTM đã tạo ra
phương tiện thanh toán. Hơn nữa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra
phương tiện thanh toán lớn gấp bội thông qua các khoản tiền gửi được mở
rộng từ ngân hàng này sang ngân hàng khác theo công thức số nhân tiền tệ.
• Trung gian thanh toán:
Sự phát triển của nền kinh tế toàn cầu dẫn đến nhu cầu thanh toán liên
quốc gia, liên châu lục. Để tiến hành thanh toán được nhanh chóng, phù hợp,
chính xác, các cá nhân và tổ chức ở các nước thường thông qua ngân hàng.
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các
quốc gia. Thay mặt khách hàng, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng
hóa và dịch vụ. Ngân hàng còn cung cấp đa dạng các hình thức thanh toán
cho khách hàng như thanh toán bằng: Séc, ủy nhiệm chi, L/C, các loại

thẻ...Nhiều hình thức thanh toán được chuẩn hóa góp phần tạo tính thống nhất
trong thanh toán không chỉ giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn
giữa các ngân hàng trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được
thiết lập đã làm tăng hiệu quả thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng trở
thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho
nền kinh tế toàn cầu.
c) Vai trò của Ngân hàng thương mại
• Vai trò trung gian cung ứng vốn cho nền kinh tế:
NHTM tập trung các nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội thành quỹ cho vay
và sử dụng quỹ này để cung ứng cho những người có nhu cầu vốn. Thông qua
trình độ và kinh nghiệm của đội ngũ nhân viên được đào tạo cũng như của đội
ngũ quản lý, ngân hàng có thể khắc phục được hầu hết những khiếm khuyết
của thị trường tài chính. Ngoài ra bằng hoạt động giám sát, thẩm định trước,
trong và sau khi cho vay, ngân hàng có thể hạn chế được rủi ro đạo đức. Hơn
- 6 -
Chuyên đề tốt nghiệp
nữa, ngân hàng có thể tập trung được nhiều khoản tiền nhỏ và ngắn hạn để
cho vay những khoản lớn hơn, thời hạn dài hơn thông qua nghiệp vụ chuyển
hoán kỳ hạn nguồn. Từ đó, ta có thể thấy được vai trò quan trọng của NHTM
trong việc cung ứng vốn cho nền kinh tế.
• Vai trò trung gian cung ứng các dịch vụ thanh toán:
NHTM thực hiện việc thanh toán hộ cho các khách hàng thông qua các
dịch vụ thanh toán đa dạng, giúp cho việc thanh toán của khách hàng được
nhanh chóng, chính xác và tiện lợi. Nhờ có NHTM mà việc thanh toán, đặc
biệt là thanh toán quốc tế được thực hiện an toàn, tiết kiệm chi phí từ đó nâng
cao lợi ích xã hội và thúc đẩy thương mại trong nước và quốc tế phát triển, và
ngược lại khi thương mại phát triển thì sẽ thúc đẩy hệ thống NHTM phát triển
theo.
• NHTM là nguồn cung ứng các sản phẩm dịch vụ tài chính đa dạng nhất:
Khi xã hội phát triển thì nhu cầu của con người về các dịch vụ tài chính

ngày càng đa dạng. NHTM là tổ chức có thể đáp ứng được điều đó. NHTM
giúp con người thỏa mãn nhu cầu về tài chính, thông qua đó nâng cao mức
sống cho người dân. Ngược lại, nhu cầu ngày càng cao của con người cũng
giúp NHTM ngày càng hoàn thiện hơn trong việc cung ứng dịch vụ và thu lợi
từ phí dịch vụ.
• Vai trò thực hiện các chính sách xã hội:
Thông qua hệ thống ngân hàng, Nhà nước có thể thực hiện điều tiết vĩ
mô nền kinh tế. Các chính sách tiền tệ và tài khóa như chính sách chiết khấu,
tái chiết khấu, chính sách dự trữ bắt buộc, chính sách lãi suất, nghiệp vụ thị
trường mở... được Ngân hàng trung ương thực hiện tác động trực tiếp vào hệ
thống NHTM làm thay đổi các chính sách của các NHTM, làm thay đổi lượng
vốn cung ứng ra nền kinh tế, từ đó tác động đến toàn bộ hoạt động tiết kiệm,
chi tiêu và đầu tư của nền kinh tế. Và như vậy thúc đẩy sự tăng trưởng hoặc
- 7 -
Chuyên đề tốt nghiệp
kìm hãm sự phát triển quá nóng của nền kinh tế và thực hiện các mục tiêu xã
hội khác.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
a) Hoạt động huy động vốn:
• Huy động vốn từ việc nhận tiền gửi
Nguồn vốn huy động thường xuyên chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng
nguồn vốn của NHTM và nó đóng một vai trò vô cùng quan trọng, không thể
thay thế để duy trì hoạt động kinh doanh của NHTM. Các NHTM thường
thực hiện huy động vốn thông qua việc nhận tiền gửi của khách hàng. Các
loại hình huy động vốn bằng tiền gửi bao gồm:
- Tiền gửi không kỳ hạn: Đây là nguồn vốn có chi phí thấp nhưng lại
không ổn định do khách hàng có thể rút tiền ra bất cứ lúc nào. Nguồn tiền này
chủ yếu được gửi vào nhằm sử dụng các dịch vụ thanh toán của ngân hàng,
tạo điều kiện cho ngân hàng phát triển các dịch vụ thanh toán và đem lại
nguồn thu từ phí dịch vụ cho ngân hàng.

- Tiền gửi có kỳ hạn: đây là nguồn vốn có kỳ hạn xác định nên tương đối
ổn định nhưng chi phí để có được và duy trì nguồn này tương đối cao. Mục
đích của khách hàng khi gửi tiền vào là để có được sự an toàn vốn và hưởng
lãi. Các NHTM đều mong muốn tăng trưởng nguồn này để có thể tiến hành
mở rộng khả năng kinh doanh của mình.
- Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: Đây cũng là nguồn có thời hạn xác định
nên ổn định nhưng chi phí cho nguồn này cũng cao. Mục đích của người dân
khi gửi tiền vào ngân hàng là an toàn vốn và có được khoản lợi nhuận từ lãi
ngân hàng chi trả. Đối với các NHTM thì đây thường là nguồn chiếm tỷ trọng
lớn nhất trong tổng nguồn vốn huy động được.
• Huy động vốn thông qua phát hành giấy tờ có giá
- 8 -
Chuyên đề tốt nghiệp
Giấy tờ có giá là các công cụ nợ do ngân hàng phát hành để huy động
vốn trên thị trường. Nghiệp vụ này đem lại nguồn vốn tương đối ổn định và
giúp ngân hàng có thể có được một khoản vốn lớn trong một thời gian ngắn.
Lãi suất của nguồn này phụ thuộc vào tính cấp thiết của việc huy động vốn
cũng như lãi suất trên thị trường nên nó thường có lãi suất cao để có thể thu
hút vốn được nhanh chóng.
• Huy động vốn thông qua nghiệp vụ đi vay
Nguồn vốn đi vay được ngân hàng chủ yếu sử dụng để đảm bảo khả
năng thanh khoản và tiện lợi trong việc giao dịch, thanh toán giữa các ngân
hàng. Nghiệp vụ này ngày càng trở nên phổ biến và chiếm tỷ trọng không nhỏ
đối với các NHTM. Tuy nhiên chi phí cho nguồn đi vay là cao nên nhiều ngân
hàng cũng không duy trì tỷ trọngnguồn này ở mức cao. Các NHTM thường đi
vay theo hai hình thức là vay từ Ngân hàng Trung ương (Ngân hàng nhà
nước) và vay từ các tổ chức tín dụng khác.
• Huy động vốn thông qua nghiệp vụ tạo vốn tự có
Vốn tự có thường là nguồn vốn chiếm tỷ trọng nhỏ nhất nhưng lại có
nghĩa quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của NHTM vì nó đóng vai trò

là tấm đệm bảo vệ cho các hoạt động đó và tạo điều kiện cho ngân hàng mở
rộng, phát triển các hoạt động của mình đồng thời góp phần nâng cao vị thế
của ngân hàng trên thương trường. Ngân hàng thường tạo vốn tự có thông qua
các nguồn sau: thông qua nguồn vốn nội bộ; thông qua phát hành cổ phiếu,
trái phiếu.
• Các nghiệp vụ nguồn vốn khác
Ngoài các nguồn vốn trên, NHTM còn có các nguồn vốn khác, đó là:
Vốn ủy thác đầu tư, vốn tài trợ, vốn trong thanh toán...
b) Hoạt động sử dụng vốn:
• Tín dụng:
- 9 -
Chuyên đề tốt nghiệp
Đây là nghiệp vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong các nghiệp vụ của
NHTM về mặt giá trị, đồng thời nó là nghiệp vụ đem lại nguồn thu, lợi nhuận
chủ yếu cho ngân hàng (chiếm từ 70 - 90% thu nhập của ngân hàng). Tuy
nhiên, các NHTM đang có xu hướng làm giảm tỷ trọng về lợi nhuận của hoạt
động tín dụng mà phát triển các loại hình dịch vụ khác, nhất là các dịch vụ
hiện đại để tăng doanh thu.
- Mặt khác, đây cũng là nghiệp vụ chứa đựng nhiều rủi ro nhất
đối với ngân hàng. Vì vậy, ngân hàng cần phải thực hiện tốt
công tác thẩm định trước, trong và sau khi cho vay để hạn chế
rủi ro xuống mức tối thiểu, đảm bảo sự an toàn của các khoản
tín dụng, tránh gây mất vốn, thất thoát vốn của ngân hàng.
• Quản lý ngân quỹ
Nghiệp vụ quản lý ngân quỹ của một NHTM thường bao gồm quản lý dự
trữ bắt buộc và quản lý đảm bảo khả năng thanh toán.
+ Quản lý dự trữ bắt buộc: Mục đích là để đáp ứng yêu cầu về mặt pháp lý
do Ngân hàng Trung ương đề ra. Ngân hàng Trung ương quy định tỷ lệ dự trữ
bắt buộc trên tổng tiền gửi đối với các NHTM, tỷ lệ này thay đổi theo chính
sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương. Mặt khác, mục đích mà Ngân hàng

Trung ương đề ra tỷ lệ dự trữ bắt buộc này là để đảm bảo khả năng thanh toán
của ngân hàng cũng như sự an toàn cho vốn của khách hàng khi gửi tiền vào
ngân hàng. Lượng dự trữ bắt buộc này thường được gửi tại Ngân hàng Trung
ương.
+ Quản lý ngân quỹ đảm bảo khả năng thanh toán: Dựa vào kinh nghiệm
quản lý ngân quỹ trong quá trình hoạt động của chính mình cũng như của các
ngân hàng khác mà NHTM xác định một tỷ lệ dự trữ phù hợp, dôi ra ngoài so
với dự trữ bắt buộc. Khoản dự trữ này thường được duy trì tại chính ngân
- 10 -
Chuyên đề tốt nghiệp
hàng đó hoặc gửi tại các NHTM khác. Mục đích của khoản mục này là để đáp
ứng nhu cầu thanh toán, rút tiền của khách hàng.
Tóm lại, quản lý ngân quỹ của NHTM mục đích chủ yếu là để duy trì khả
năng thanh khoản của ngân hàng. Tuy nhiên, lượng tiền được sử dụng trong
quản lý ngân quỹ có khả năng sinh lời rất kém, nhiều khi là khoản tiền chết
nên các ngân hàng thường không muốn duy trì khoản mục này ở tỷ lệ cao.
Như vậy ngân quỹ là khoản không thể thiếu để hạn chế rủi ro thanh khoản
nhưng lại có thể gây lãng phí nguồn lực của ngân hàng. Cân đối hai yếu tố
này là nhiệm vụ của ngân hàng.
• Đầu tư tài chính
Các NHTM thường đầu tư tài chính vào nhiều lĩnh vực nhưng chủ yếu là
đầu tư vào chứng khoán. Mục đích của việc đầu tư này là vì mục tiêu thanh
khoản và đa dạng hóa tài sản, cũng như để tăng thu nhập cho ngân hàng. Các
loại giấy tờ có giá mà ngân hàng lựa chọn thường là những loại chứng khoán
rất có giá trị trên thị trường, tức là khả năng thanh khoản và sinh lời lớn như
chứng khoán Chính phủ, chứng khoán của các ngân hàng khác, chứng khoán
của các công ty tài chính và chứng khoán của các công ty lớn, có uy tín khác.
• Mua bán ngoại tệ
Đây là nghiệp vụ được ngân hàng thực hiện nhằm đề phòng và hạn chế rủi
ro hối đoái, tỷ giá cũng như để tạo thêm thu nhập cho ngân hàng. Việc mua

bán ngoại tệ thường được ngân hàng thực hiện với các loại ngoại tệ mạnh và
thực hiện ở thị trường liên ngân hàng trong nước và thế giới. Nghiệp vụ này
đòi hỏi ngân hàng phải có chuyên môn cao cũng như sự nhanh nhạy với thị
trường.
• Tài trợ cho các hoạt động của Chính phủ
- 11 -
Chuyên đề tốt nghiệp
Trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình, các NHTM cũng thường
tài trợ cho các hoạt động của Chính phủ theo sự yêu cầu của Chính phủ hoặc
có sự tự nguyện từ phía ngân hàng.
c) Các hoạt động khác:
• Bảo quản vật có giá.
• Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán.
• Cho thuê thiết bị trung và dài hạn.
• Cung cấp các dịch vụ ủy thác và tư vấn đầu tư.
• Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán.
• Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm.
• Cung cấp các dịch vụ đại lý.
1.2. Nguồn vốn của Ngân hàng thương mại
Để có thể tiến hành hoạt động kinh doanh, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng
phải có vốn. NHTM cũng vậy, NHTM thực hiện kinh doanh trong lĩnh vực
tiền tệ nên đòi hỏi phải có một lượng vốn lớn, đa dạng hơn các doanh nghiệp
khác. Vốn đối với NHTM rất quan trọng. Nó quyết định quy mô, khả năng
sinh lời, xu hướng hoạt động và phát triển của ngân hàng. Một NHTM thường
có các loại vốn sau:
1.2.1. Vốn chủ sở hữu
a) Khái niệm
Để bắt đầu hoạt động ngân hàng, chủ ngân hàng phải có một lượng vốn
nhất định. Đây là loại vốn mà ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành
nên trang thiết bị, nhà cửa của ngân hàng.

Vốn chủ sở hữu là vốn thuộc sở hữu của NHTM, được hình thành từ
nguồn vốn hình thành ban đầu, nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động
và các quỹ của ngân hàng.
b) Vai trò của vốn chủ sở hữu
- 12 -
Chuyên đề tốt nghiệp
Vốn chủ sở hữu (VCSH) của một NHTM đóng vai trò quan trọng sống
còn trong việc duy trì các hoạt động thường nhật và đảm bảo cho ngân hàng
khả năng phát triển lâu dài.
Thứ nhất, VCSH là điều kiện bắt buộc để ngân hàng có được giấy phép
tổ chức và hoạt động trước khi nó có thể huy động được các khoản tiền gửi
đầu tiên. Khi mới thành lập, một ngân hàng luôn cần vốn để mua sắm đất đai,
xây dựng cơ sở hạ tầng, trang bị những thiết bị, điều kiện làm việc cần thiết,
thuê nhân viên...
Thứ hai, VCSH đóng vai trò là một tấm đệm giúp chống lại rủi ro phá
sản vì VCSH giúp trang bị những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ cho tới khi
ban quản lý có thể tập trung giải quyết các vấn đề, đưa ra các biện pháp hữu
hiệu giúp ngân hàng trở lại trạng thái hoạt động bình thường và sinh lời.
Thứ ba, VCSH tạo niềm tin cho công chúng và là sự đảm bảo đối với chủ
nợ của ngân hàng về sức mạng tài chính của NHTM. Ngân hàng cần phải đủ
mạnh để đảm bảo với những người đi vay rằng ngân hàng có thể đáp ứng
được các nhu cầu tín dụng cua rhọ ngay cả trong điều kiện nền kinh tế đang
gặp khó khăn.
Thứ tư, VCSH cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát
triển của các hình thức dịch vụ mới, cho những chương trình và trang thiết bị
mới. Khi một ngân hàng phát triển, nó cần bổ sung vốn để thúc đẩy sự tăng
trưởng và có thể chống đỡ được rủi ro gắn với sự ra đời của các sản phẩm
dịch vụ mới.
Cuối cùng, VCSH được xem như một phương tiện điều tiết sự tăng
trưởng, giúp đảm bảo rằng sự tăng trưởng của ngân hàng có thể được duy trì

ổn định và bền vững. VCSH của ngân hàng cần phải được phát triển tương
xứng với sự tăng trưởng của danh mục cho vay và những tài sản rủi ro khác
cũng như quy mô của ngân hàng. Do đó, VCSH - tấm đệm dùng để chống đỡ
- 13 -
Chuyên đề tốt nghiệp
những thua lỗ - cần phải được củng cố, bổ sung tương xứng với quy mô và rủi
ro của ngân hàng.
c) Nguồn hình thành vốn chủ sở hữu
Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành loại vốn này đa dạng tùy theo
tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát
triển của thị trường, nhìn chung bao gồm:
• Vốn điều lệ (nguồn vốn hình thành ban đầu):
Cũng như hầu hết các doanh nghiệp khác, để thành lập và đi vào hoạt
động, chủ sở hữu NHTM phải bỏ ra vốn đầu tư ban đầu và được ghi vào điều
lệ doanh nghiệp, được gọi là vốn điều lệ. Vốn điều lệ của NHTM phải lớn
hơn hoặc bằng vốn pháp định, mức vốn tối thiểu mà luật pháp quy định để
thành lập ngân hàng. Tùy theo tính chất của ngân hàng mà nguồn gốc hình
thành vốn ban đầu khác nhau. Nếu là ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước, vốn
do ngân sách Nhà nước cấp (vốn của Nhà nước). Nếu là ngân hàng cổ phần,
vốn do các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ phần hoặc cổ phiếu. Nếu là
ngân hàng liên doanh, vốn do các bên liên doanh góp. Nếu là ngân hàng tư
nhân, vốn do tư nhân bỏ ra.
Vốn điều lệ của mỗi ngân hàng không được nhỏ hơn vốn pháp định. Ở
Việt Nam, mức vốn pháp định do Ngân hàng Nhà nước quy định. Còn số vốn
điều lệ sẽ khác nhau tùy thuộc vào chủ sở hữu của ngân hàng đó. Vốn điều lệ
của ngân hàng thuộc sở hữu và ngân hàng có toàn quyền sử dụng và định đoạt
theo quy định của pháp luật.
• Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động:
Trong quá trình hoạt động, ngân hàng gia tăng vốn của chủ theo nhiều
phương thức khác nhau tùy thuộc vào điều kiện cụ thể.

Nguồn từ lợi nhuận: Trong điều kiện thu nhập ròng lớn hơn không, chủ
ngân hàng có xu hướng gia tăng vốn của chủ bằng cách chuyển một phần thu
- 14 -
Chuyên đề tốt nghiệp
nhập ròng thành vốn đầu tư. Tỷ lệ tích lũy tùy thuộc và cân nhắc của chủ ngân
hàng về tích lũy và tiêu dùng. Những ngân hàng lâu năm, thu nhập ròng lớn,
nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận sẽ cao so với vốn của chủ hình thành ban đầu.
Nguồn vốn bổ sung từ việc phát hành thêm cổ phiếu, góp thêm, cấp
thêm...để mở rộng quy mô hoạt động, để đổi mới trang thiết bị, hoặc để đáp
ứng nhu cầu gia tăng vốn của chủ do Ngân hàng Nhà nước quy định...Đặc
điểm của hình thức huy động này là không thường xuyên, song giúp cho ngân
hàng có được lượng vốn sở hữu vào lúc cần thiết.
• Các quỹ:
Ngân hàng có nhiều quỹ. Mỗi quỹ có mục đích riêng. Trước hết là quỹ dự
phòng tổn thất. Quỹ này được trích lập hằng năm và được tích lũy lại nhằm
bù đắp những tổn thất xảy ra. Tiếp theo là quỹ bảo toàn vốn, được lập nhằm
bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của lạm phát. Còn có quỹ thặng dư, là
phần đánh giá lại tài sản của ngân hàng và chênh lệch giữa mệnh giá và thị
giá cổ phiếu của ngân hàng khi phát hành cổ phiếu mới. Tùy theo quy định cụ
thể của từng nước, các ngân hàng còn có thể có quỹ khen thưởng, quỹ phúc
lợi, quỹ giám đốc...Những quỹ này được trích từ lợi nhuận hàng năm theo luật
định, do vậy tỷ lệ trích, nội dung sử dụng phải theo đúng quy định.
Các quỹ của ngân hàng thuộc sở hữu của chủ ngân hàng. Nguồn hình thành
các quỹ này là từ thu nhập của ngân hàng. Tuy nhiên một số quỹ ngân hàng
không thể sử dụng lâu dài.
• Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần:
Các khoản vay trung và dài hạn của NHTM mà có khả năng chuyển đổi
thành vốn cổ phần có thể được coi là một bộ phận của vốn chủ sở hữu của
ngân hàng (nguồn bổ sung) do nguồn này có một số đặc điểm như sử dụng lâu
dài, có thể đầu tư vào nhà cửa, đất đai và có thể không phải hoàn trả khi đến

hạn.
- 15 -
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2.2. Vốn huy động
a) Khái niệm:
Hoạt động huy động vốn là hoạt động cơ bản nhất của ngân hàng, không
một ngân hàng nào có thể tồn tại và phát triển nếu không có hoạt động huy
động vốn. Bởi NHTM là một tổ chức kinh doanh tiền tệ nên nguồn vốn của
ngân hàng là một yếu tố quyết định tới quy mô hoạt động. Uy tín và khả năng
cạnh tranh trên thị trường của ngân hàng. Hoạt động huy động vốn được ví
như nguồn nguyên liệu đầu vào cho quá trình tạo ra các sản phẩm của ngân
hàng.
Thực chất, hoạt động huy động vốn là hoạt động thu hút nguồn vốn nhàn
rỗi của các cá nhân, các tổ chức kinh tế - xã hội dưới dạng tiền gửi tiết kiệm,
tiền gửi thanh toán hoặc phát hành các chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các
giấy tờ có giá khác. Trong đó, hoạt động nhận tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn nhất
và đóng vai trò quan trọng nhất trong tổng nguồn vốn huy động của ngân
hàng.
b) Vai trò của huy động vốn
• Đối với nền kinh tế
Vai trò to lớn nhất của hoạt động huy động vốn của NHTM đối với nền
kinh tế là nâng cao được hiệu quả sử dụng các nguồn vốn thông qua động tác
tập hợp các nguồn vốn nhỏ lẻ, nhà rỗi hoặc tạm thời nhàn rỗi, hoạt động chưa
hiệu quả thành các nguồn vốn có quy mô lớn, đáp ứng các yêu cầu về sử dụng
vốn của các chủ thể có dự án hoặc kế hoạch sử dụng vốn với hiệu quả kinh tế
cao hơn. Thực hiện nghiệp vụ huy động vốn kết hợp với sự phân bổ lại các
nguồn vốn vào nền kinh tế, NHTM đã đảm bảo hiệu quả hoạt động của nền
- 16 -
Chuyên đề tốt nghiệp
kinh tế, đồng thời giảm thiểu chi phí vốn cho nền kinh tế. Mức độ giảm thiểu

chi phí vốn có thể thấy được khi chúng ta tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra trong
hoạt động vay mượn khi thiếu đi sự có mặt của NHTM nói riêng và các trung
gian tài chính nói chung: người cho vay sẽ gặp những người đi vay có nhu
cầu vốn phù hợp với vốn liếng của mình, sau đó phải mất công thẩm định độ
tin cây đối với người vay.
Hoạt động huy động của NHTM đem lại thu nhập cho những người gửi
tiền dưới hình thức lãi tiền gửi. Những khách hàng nắm giữ kỳ phiếu, trái
phiếu ngân hàng ngoài thu nhập từ việc trả lãi của ngân hàng còn có cơ hội
sinh lời từ sự chênh lệch giữa giá mua và giá bán chúng.
Bên cạnh vai trò chủ yếu trên, hoạt động huy động vốn của NHTM
cũng góp phần hình thành nên tỉ suất lợi nhuận tối thiểu của các doanh
nghiệp. Nó buộc các doanh nghiệp phải hoạt động với tỉ suất lợi nhuận lớn
hơn so với lãi suất huy động của ngân hàng. Một doanh nghiệp hoạt động với
tỉ suất lợi nhuận không đạt yêu cầu trên (trừ những lý do đặc biệt) nên dừng
việc sản xuất kinh doanh lại để lấy vốn vào ngân hàng lấy lãi, như vậy có lợi
hơn cho bản thân doanh nghiệp và cho nền kinh tế.
Ngoài ra, hoạt động huy động vốn của NHTM tạo điều kiện cho khách
hàng tiếp xúc với ngân hàng, có điều kiện sử dụng các dịch vụ của ngân hàng
và do đó hình thành nên thói quen và phong cách làm việc hiện đại cho khách
hàng.
• Đối với bản thân NHTM
Vốn huy động chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng nguồn vốn của NHTM,
lên tới 70-80%, vì vậy nó đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động
của NHTM. Hoạt động huy động vốn là cơ sở để ngân hàng thực hiện các
hoạt động kinh doanh của mình. Nhu cầu vốn của nền kinh tế là rất lớn và liên
tục gia tăng. Không có bất kỳ một ngân hàng nào có đủ sức thực hiện cho vay
- 17 -
Chuyên đề tốt nghiệp
chỉ bằng vốn chủ sở hữu của mình. Mặt khác, bản chất của NHTM là làm
trung gian tài chính - đi vay để cho vay. Do đó, nguồn vốn huy động đương

nhiên là nguồn vốn chủ yếu quan trọng nhất, giúp ngân hàng thực hiện các
hoạt động kinh doanh của mình. Quy mô, cơ cấu vốn huy động sẽ trực tiếp
quyết định khả năng cho vay của một ngân hàng. Các ngân hàng không thể
cho vay lớn, kỳ hạn dài trong điều kiện vốn huy động nhỏ, ngắn hạn, không
ổn định.
Hoạt động huy động vốn của NHTM góp phần tạo nên uy tín, sức mạnh
của ngân hàng. Một trong những chỉ tiêu để đánh giá khả năng cạnh tranh của
ngân hàng là tổng nguồn vốn, trong đó có vốn huy động. Nguồn vốn càng lớn,
ngân hàng càng có điều kiện để tăng khả năng cạnh tranh, có sức để duy trì
các chiến lược cạnh tranh của mình. Dưới con mắt của hầu hết khách hàng ,
tổng nguồn vốn của ngân hàng lớn có nghĩa là ngân hàng đó lớn và đáng tin
cậy. Do vậy, ngân hàng có vốn lớn thường rất thuận lợi trong các hoạt động
của mình vì chiếm được lòng tin của công chúng.
Hoạt động huy động vốn giúp tăng cường và mở rộng mối quan hệ giữa
khách hàng với ngân hàng. Qua mối quan hệ này, ngân hàng có cơ hội tìm
hiểu về khách hàng của mình và cũng có cơ hội tuyên truyền, quảng bá về
ngân hàng của mình cho khách hàng. Điều này sẽ tạo cơ hội cung cấp các
dịch vụ ngân hàng cho nhiều khách hàng hơn với độ thỏa dụng ngày càng
cao.
Tóm lại, hoạt động huy động vốn của NHTM có quan hệ chặt chẽ và
mang tính hai chiều với tất cả các hoạt động khác của ngân hàng. Hoạt động
huy động vốn được làm tốt sẽ tác động tích cực tới các hoạt động khác của
ngân hàng và ngược lại. Do vậy cần đảm bảo tất cả các hoạt động của ngân
hàng phải được thực hiện tốt và kết hợp được với nhau một cách tối ưu nếu
muốn NHTM hoạt động hiệu quả.
- 18 -
Chuyên đề tốt nghiệp
c) Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại
Huy động vốn là một hoạt động vô cùng quan trọng đối với bất kỳ một
NHTM nào. Để huy động được vốn, các ngân hàng thương mại áp dụng rất

nhiều các hình thức huy động đa dạng khác nhau. Tùy theo đặc điểm và tình
hình kinh doanh của mình, mỗi ngân hàng sẽ áp dụng các hình thức huy động
phù hợp. Nhưng nhìn chung, huy động vốn thường thông qua các hình thức
sau:
• Vốn huy động từ tiền gửi:
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của NHTM.
Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản
tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy
động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và cá nhân trong nền kinh tế.
Như vậy, tiền gửi là một khoản mục nguồn vốn được tạo ra do nghiệp vụ
nhận tiền gửi hay nghiệp vụ nợ của NHTM.
Tiền gửi là nguồn tiền chiếm tỷ trọng lớn nhất (hơn 50%) trong tổng
nguồn tiền và là mục tiêu tăng trưởng của ngân hàng. Tiền gửi là đối tượng
phải dự trữ bắt buộc, do vậy chi phí tiền gửi thường cao hơn lãi phải trả cho
tiền gửi. Ỏ nhiều nước, ngân hàng phải mua bảo hiểm cho tiền gửi.
Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có nguồn tiền có
chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình
thức huy động khác nhau. Đối với người gửi tiền, mục đích của họ khá đa
dạng như bảo toàn và sinh lợi, sử dụng dịch vụ thanh toán. Còn đối với ngân
hàng, mục đích của họ là huy động được nguồn vốn rẻ, chất lượng tốt, đa
dạng giúp ngân hàng tìm kiếm được lợi nhuận cao.
- Tiền gửi của các tổ chức kinh tế:
Đây là số tiền tạm thời nhàn rỗi phát sinh trong quá trình sản xuất, kinh
doanh của các tổ chức này và được gửi tại ngân hàng. Nó bao gồm một bộ
- 19 -
Chuyên đề tốt nghiệp
phận vốn tiền tệ nhàn rỗi được giải phóng ra khỏi quá trình luân chuyển vốn
nhưng nhu cầu sử dụng (vốn lưu động) hoặc sử dụng cho các mục tiêu định
sẵn vào một thời điểm nhất định (các quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự trữ tài
chính, quỹ khen thưởng).

Các tổ chức kinh tế thường gửi tiền vào ngân hàng dưới hai hình thức:
+ Tiền gửi không kỳ hạn:
Đây là loại tiền gửi mà khi gửi tiền vào, người gửi tiền có thể rút tiền ra
bất cứ lúc nào để sử dụng và ngân hàng luôn có trách nhiệm phải thỏa mãn
nhu cầu rút tiền đó một cách nhanh chóng, chính xác và đầy đủ. Nếu không
thực hiện được, ngân hàng sẽ bị coi là vi phạm hợp đồng và phải bồi thường
thiệt hại theo quy định của pháp luật.
Đối với tổ chức gửi tiền thì mục đích chính là để thông qua đó sử dụng
các dịch vụ thanh toán của ngân hàng. Ngoài ra loại tiền gửi này vẫn được
hưởng một mức lãi nhất định nên cũng góp phần tăng thu nhập cho người gửi
tiền. Mặt khác, người gửi tiền được chủ động trong việc rút tiền nên vẫn đáp
ứng được nhu cầu về vốn kinh doanh khi cần thiết.
Đối với NHTM, tiền gửi không kỳ hạn có chi phí trả lãi thấp nhưng chi
phí phi trả lãi cao (chi phí quản lý...) nên ngân hàng thường thu phí cho các
dịch vụ thanh toán qua tiền gửi không kỳ hạn này. Tỷ trọng của nguồn tiền
gửi trong các NHTM thường cao nên ngân hàng nào thu hút được nhiều tiền
gửi không kỳ hạn thì sẽ có được chênh lệch lãi suất lớn. Vì vậy, trên thực tế,
các NHTM thường lôi kéo các khách hàng lớn như bảo hiểm, dầu khí, kho
bạc... mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng mình để thu hút được một lượng
tiền khổng lồ với lãi suất thấp và khi thực hiện thanh toán sẽ thu được nhiều
phí dịch vụ. Mặc dù tiền gửi không kỳ hạn là nguồn có thời hạn rất ngắn
nhưng giữa việc gửi vào và rút ra vấn có sự chênh lệch về thời gian và thực tế
- 20 -
Chuyên đề tốt nghiệp
ở các NHTM tài khoản này luôn có số dư nên ngân hàng vẫn có thể sử dụng
nguồn này, tiến hành chuyển hoán kỳ hạn nguồn để kinh doanh.
Loại tiền gửi không kỳ hạn này được huy động dưới hai hình thức:
 Huy động vốn qua các tài khoản tiền gửi phi giao dịch:
Đây là các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi của khách hàng được gửi vào
ngân hàng nhưng không nhằm mục tiêu giao dịch mà chủ yếu là để bảo toàn

vốn. Với loại tài khoản này, người gửi tiền được hưởng một khoản tiền lãi
nhưng không được phát hành Séc cho nhu cầu thanh toán.
 Huy động vốn qua tài khoản giao dịch của khách hàng:
Đây là tài khoản mà người mở tài khoản được quyền sử dụng các dịch vụ
thanh toán của ngân hàng để phục vụ cho hoạt động thanh toán của mình như
ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, các loại Séc, L/C...Do đặc điểm của loại tài
khoản này cho phép người gửi có thể thực hiện thanh toán nên ngân hàng
thường yêu cầu người gửi tiền thực hiện một tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhất định
theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.Khi thực hiện giao dịch thì phải trả
phí giao dịch cho ngân hàng.
+ Tiền gửi có kỳ hạn:
Tiền gửi có kỳ hạn là loại tiền gửi có sự thỏa thuận giữa ngân hàng và tổ
chức gửi tiền về thời hạn gửi tiền, thường là khách hàng đã xác định được
khoảng thời gian mà vốn nhàn rỗi. Trong khoản thời gian đó, ngân hàng tùy ý
sử dụng khoản tiền này, đến hạn khách hàng sẽ được rút tiền và hưởng một
mức lãi suất cao hơn mức lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn và tùy thuộc vào
kỳ hạn gửi tiền, thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao. Khi chưa đến thời
điểm rút tiền, nếu khách hàng muốn rút trước hạn thì phải báo trước cho ngân
hàng, phải được sự đồng ý của ngân hàng. Trên thực tế, để cạnh tranh, thu hút
khách hàng nên các ngân hàng vẫn cho phép khách hàng rút trước hạn nhưng
- 21 -
Chuyên đề tốt nghiệp
khách hàng không được hưởng lãi hoặc chỉ thu được một khoản tiền với mức
lãi suất không kỳ hạn.
Đối với các tổ chức gửi tiền thì tài khoản tiền gửi có kỳ hạn nhằm mục
đích chủ yếu để thu lời, nó rât thuận tiện khi đã xác định được khoảng thời
gian mà vốn nhàn rỗi. Hơn nữa, nếu cần thì tổ chức gửi tiền vẫn có thể rút
được tiền để sử dụng.
Đối với ngân hàng, tổng lượng tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức thường
có quy mô không lớn nhưng rất ổn định. Ngân hàng có thể sử dụng nguồn này

một cách chủ động để kinh doanh. Tuy nhiên đây là một nguồn tương đối đắt
do lãi suất phải chi trả cho nguồn này thường cao. Để thu hút thêm nguồn
này, các NHTM thừong đưa ra rất nhiều các loại kỳ hạn khác nhau như: 3
tháng, 6 tháng, 12 tháng, 18 tháng, 24 tháng, 3 năm, 5 năm với mức lãi suất
hấp dẫn tăng theo kỳ hạn gửi.
- Tiền gửi của dân cư:
Đây là khoản tiền nhàn rỗi của các tầng lớp dân cư gửi tại ngân hàng.
Loại tiền gửi này chủ yếu bao gồm các loại sau:
+ Tiền gửi tiết kiệm:
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền nhàn rỗi của dân cư gửi vào ngân hàng
với mục đích bảo toàn và sinh lời. Loại tài khoản này không được sử dụng các
dịch vụ thanh toán của ngân hàng. Đây là hình thức huy động truyền thống
của ngân hàng và chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn huy động của
ngân hàng. Trong hình thức này, người gửi tiền được trao một quyển sổ tiết
kiệm, sổ này được coi là giấy chứng nhận có tiền gửi vào quỹ tiết kiệm của
ngân hàng, đồng thời cũng là chứng từ xác nhận khoản nợ của ngân hàng đối
với người gửi tiền. Sổ tiết kiệm này không dùng để thanh toán tiền hàng hóa
dịch vụ nhưng có thể sử dụng để vay vốn nếu được ngân hàng cho phép.
- 22 -
Chuyên đề tốt nghiệp
Đối với người gửi tiền thì đây là một cơ hội để bảo toàn vốn và sinh lời
mà không cần phải thực hiện đầu tư và mức độ rủi ro không cao. Người gửi
tiền mong muốn đến một khoảng thời gian nhất định sẽ tích góp, dành dụm
được một số tiền để đảm bảo cho những vấn đề của cuộc sống.
Đối với ngân hàng, đây là một nguồn huy động lớn, độ ổn định thường
cao bởi vì kỳ hạn thường dài và khi hết kỳ hạn khách hàng thường có xu
hướng mở tiếp một kỳ hạn mới. Nó tạo điều kiện thuận lợi cho kỹ thuật
chuyển hoán kỳ hạn nguồn, cho phép ngân hàng chủ động kinh doanh và đầu
tư vào những dự án có thời hạn dài. Tuy nhiên đây là một nguồn đắt và lãi
suất của nó cao, cao hơn mức lãi suất trả cho tiền gửi của các tổ chức.

Có hai loại tiền gửi tiết kiệm:
 Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn:
Loại tiền gửi này mang đặc tính chung của tiền gửi không kỳ hạn là cho
phép người gửi tiền có thể rút tiền bất cứ lúc nào, lãi suất của nó thấp hơn lãi
suất của tiền gửi có kỳ hạn.
 Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn:
Tương tự, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn cũng mang đặc tính chung của
tiền gửi có kỳ hạn là khách hàng chỉ được rút tiền khi đến hạn thanh toán.
Nếu rút trước hạn phải thông báo cho ngân hàng, được sự đồng ý của ngân
hàng và hưởng mức lãi suất bằng lãi suất không kỳ hạn hoặc không được
hưởng lãi.
Đây là nguồn huy động ổn định nhất, rất quan trọng trong chiến lược
kinh doanh của ngân hàng. Tuy nhiên, lãi suất mà ngân hàng chi trả cho loại
tiền này là cao nhất trong các loại tiền gửi, nên nguồn này có chi phí huy động
lớn nhất.
+ Tài khoản tiền gửi cá nhân:
- 23 -
Chuyên đề tốt nghiệp
Đây là loại tài khoản mà cá nhân mở để có thể thực hiện các giao dịch
thanh toán, sử dụng dịch vụ thanh toán của ngân hàng. Đời sống vật chất của
người dân ngày càng được nâng cao, do đó nhu cầu được thực hiện thanh
toán qua ngân hàng, đặc biệt là các phương tiện thanh toán hiện đại như visa
card, master card...ngày càng tăng. Đây chính là xu thế thanh toán mới và
cũng là hướng phát triển mới của dịch vụ ngân hàng.
- Tiền gửi khác:
Ngoài hai loại tiền gửi của tổ chức và cá nhân nói trên, tại các NHTM còn
có các loại tiền khác như:
 Tiền gửi bằng vốn chuyên dùng.
 Tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác.
 Tiền gửi của Kho bạc Nhà nước.

• Vốn huy động từ tiền vay:
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của NHTM. Tuy nhiên, khi cần ngân
hàng thường vay mượn thêm. Tại nhiều nước, Ngân hàng Trung ương thường
quy định tỷ lệ giữa nguồn huy động và vốn của chủ. Do vậy, nhiều ngân hàng
vào những giai đoạn cụ thể phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả
khi khả năng huy động bị hạn chế.
Tỷ trọng của loại nguồn vốn này trong tổng nguồn thường thấp hơn nguồn
tiền gửi. Các khoản đi vay thường với thời hạn và quy mô xác định trước, do
vậy tạo thành nguồn ổn định cho ngân hàng. Khác với nhận tiền gửi, ngân
hàng không nhất thiết phải đi vay thường xuyên mà ngân hàng chỉ vay lúc cần
thiết. Ngân hàng hoàn toàn chủ động quyết định khối lượng vay phù hợp với
nhu cầu sử dụng. Nguồn vay có thể không phải chịu dự trữ bắt buộc và bảo
hiểm tiền gửi. Tuy nhiên, do rủi ro lớn hơn nên lãi suất phải trả cho tiền vay
thường lớn hơn lãi suất trả cho tiền gửi cùng kỳ hạn.
Các nguồn vay mà NHTM có thể huy động là:
- 24 -
Chuyên đề tốt nghiệp
- Vay từ Ngân hàng Nhà nước (Ngân hàng Trung ương):
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả của
NHTM. Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ (dự trữ bắt buộc hoặc dự trữ thanh
toán), NHTM thường vay Ngân hàng Nhà nước. Hình thức cho vay chủ yếu
của Ngân hàng Nhà nước là tái chiết khấu (hoặc tái cấp vốn). Các thương
phiếu đã được các NHTM chiết khấu (hoặc tái chiết khấu) trở thành tài sản
của họ. Khi cần tiền, ngân hàng mang các thương phiếu này lên tái chiết khấu
tại Ngân hàng Nhà nước. Nghiệp vụ này làm thương phiếu của NHTM giảm
đi và dự trữ (tiền mặt hoặc tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước) tăng lên. Ngân
hàng nhà nước điều hành việc vay mượn này một cách chặt chẽ, NHTM phải
thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định. Thông thường Ngân
hàng Nhà nước chỉ tái chiết khấu cho những thương phiếu có chất lượng (thời
gian đóa hạn ngắn, khả năng trả nợ cao) và phù hợp với mục tiêu của Ngân

hàng Nhà nước trong từng thời kỳ. Trong điều kiện chưa có thương phiếu,
Ngân hàng Nhà nước cho các NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn theo hạn
mức tín dụng nhất định. Thông qua lãi suất chiết khấu mà Ngân hàng Nhà
nước có thể điều chỉnh được cung tiền tệ cũng như cơ cấu nguồn vốn của
NHTM.
Các khoản vay Ngân hàng Nhà nước tuy có lãi suất thấp song thường thời
hạn ngắn, chỉ đảm bảo thanh toán tức thời khi nhu cầu thanh toán của khách
hàng lên cao. Vay Ngân hàng Nhà nước phụ thuộc rất lớn vào chính sách tiền
tệ trong từng thời kỳ.
- Vay từ các tổ chức tín dụng khác:
Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay của các tổ chức tín
dụng khác trên thị trường liên ngân hàng trong và ngoài nước. Các ngân hàng
đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết số dư gia tăng bất ngờ về các khoản
tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ có thể sẵn lòng cho các ngân hàng khác
- 25 -

×