Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

CHIẾN LƯỢC ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH XÂY DỰNG ĐẾN NĂM 2010 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.86 KB, 31 trang )

BỘ XÂY DỰNG
CHIẾN LƯỢC ĐÀO TẠO NGUỒN
NHÂN LỰC NGÀNH XÂY DỰNG
ĐẾN NĂM 2010 VÀ TẦM NHÌN 2020
1
HÀ NỘI - THÁNG 01 NĂM 2002
MỞ ĐẦU
trang 1
Chương 1 :
THực trạng đào tạo nguồn nhân lực
ngành xây dựng dân dụng và công nghiệp việt nam
trang 5
Chương 2 :
nội dung chiến lược đào tạo nguồn nhân lực ngành
xây dựng đến năm 2010 và tầm nhìn 2020
trang 11
Chương 3 :
tổ chức thực hiện nội dung chiến lược
trang 23
2
mở đầu
1. Sự cần thiết phải xây dựng chiến lược
Sau trên 15 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế
nước ta đã có những chuyển biến tích cực rõ rệt với sự tăng trưởng GDP khoảng
7% hàng năm. Tuy vậy, nhìn chung nước ta vẫn ở vào hàng những nước kém phát
triển trên thế giới.
Các văn kiện Đại Hội IX của Đảng ghi rõ nhiệm vụ trong những năm đầu của thế
kỷ 21 là cần thiết phải nâng cao đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân,
tạo nền tảng để đến năm 2020, nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại.
Do đó cần thiết phải xây dựng chiến lược đào tạo nguồn nhân lực, trong đó có


nguồn nhân lực ngành xây dựng vì yêu cầu nhân lực cho thời kỳ mới rất cấp bách
mà việc đào tạo như hệ thống hiện nay không thể đáp ứng những yêu cầu đó.
Chiến lược phát triển nguồn lực này cần được nghiên cứu một cách có hệ thống
dựa theo một cách nhìn tổng thể, căn cứ trên thực trạng của đất nước đồng thời
với phân tích tình hình và triển vọng của sự phát triển tương lai trong nước cũng
như thế giới. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực ngành xây dựng phải đồng bộ,
hiện thực, tiên tiến, ngang bằng với khu vực và thế giới .
Việc tăng cường đầu tư vào phát triển con người phải thông qua phát triển mạnh
giáo dục và đào tạo cũng như nghiên cứu khoa học và công nghệ. Mặt khác, đảm
bảo nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải là sự đảm bảo cả về số
lượng và chất lượng, phải đặt sự nghiệp giáo dục và đào tạo trong môi trường sư
phạm lành mạnh, nhanh chóng tiếp cận trình độ khu vực và quốc tế.
3
2. Căn cứ xây dựng chiến lược
2.1 Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực phải dựa vào các chủ trương,
chính sách, chiến lược phát triển của Đảng, Nhà nước và của Ngành.
Văn kiện Đại hội IX của Đảng ghi rõ:
"Định hình qui mô giáo dục và đào tạo, điều chỉnh cơ cấu đào tạo, nhất là cơ
cấu cấp học, ngành nghề và cơ cấu theo lãnh thổ phù hợp với nhu cầu phát
triển nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế-xã hội. Nâng cao đội ngũ giáo
viên các cấp."
"Trong công nghiệp và xây dựng, tập trung nghiên cứu và ứng dụng nhanh
các công nghệ hiện đại, hàm lượng trí tuệ cao để tăng sức cạnh tranh của sản
phẩm hàng hoá, coi trọng nghiên cứu phát triển công nghệ thông tin viễn
thông, công nghệ tự động hoá, công nghệ vật liệu mới."
Nhu cầu của nhân lực ngành xây dựng những năm tới là to lớn vì nhiệm vụ phát
triển công nghiệp và xây dựng như Đại hội IX Đảng đã nêu ra:
"Chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng lao động cho sản xuất công
nghiệp, xây dựng từ 16% năm 2000 lên 20-21% năm 2005, lao động trong các
ngành dịch vụ từ 21% lên 22-23%."

2.2 Xây dựng chiến lược phát triển nguồn lực không thể tách rời tình hình thực tế
của hiện trạng:
Hiện nay (thống kê tháng 10 năm 2001) đang có trên 1,2 triệu người tham gia sản
xuất trong lĩnh vực xây dựng dân dụng và công nghiệp, trong đó có 1.150215
công nhân, 15.137 cán bộ kỹ thuật trình độ trung học, 34.648 người ở trình độ
cao đẳng, đại học và sau đại học.
Hệ thống đào tạo hiện nay của nước ta có 223 trường cao đẳng và đại học, 274
trường trung học chuyên nghiệp, 227 trường dạy nghề chính quy, trên 1000 cơ sở
dạy nghề bán công, khoảng 500 trung tâm dạy nghề tại các quận huyện và 190
trung tâm hướng nghiệp.
Chúng ta đã có nhiều thành tích trong đào tạo cán bộ và công nhân xây dựng. Hệ
thống các trường trong Bộ Xây dựng có 33 trường gồm 1 trường đại học, 4 trường
cao đẳng, 6 trường trung học xây dựng và 24 trường dạy nghề.
Nhìn chung số lao động đã đáp ứng được nhiệm vụ xây dựng của những năm vừa
qua. Nhưng thực tế cho thấy, lao động đã qua đào tạo còn chiếm tỷ lệ thấp. Theo
yêu cầu của việc phát triển công nhân kĩ thuật xây dựng trong những năm tới,
phải tăng số lao động thuộc ngành từ 1,2 triệu người hiện nay lên thành 1,5 triệu
người vào năm 2005.
Tình hình chất lượng công trình xây dựng là sản phẩm của lao động trong ngành
làm ra, những năm gần đây, được xem là khá nhưng nhận định một cách khách
quan thì chưa thật đáp ứng yêu cầu mà nguyên nhân chủ yếu do trình độ tay nghề
của CB,CN của ngành còn hạn chế.
4
Việc thực thi hiệp nghị AFTA đòi hỏi phải nâng trình độ nhân lực lên ngang tầm
khu vực để nước ta không bị tụt hậu cũng như làm cho lao động nước ta có thể
xâm nhập khu vực thuận lợi.
2.3 Xây dựng chiến lược phát triển nguồn lực phải dựa theo xu hướng phát triển
kinh tế thế giới và yêu cầu mới vể nguồn nhân lực
2.3.1 Sự xuất hiện nền kinh tế tri thức - bước phát triển nhảy vọt của lực lượng
sản xuất và những cơ hội đối với đất nước ta.

Công nghệ cao và sự dịch chuyển mạnh cơ cấu kinh tế thế giới làm cho sự tăng
trưởng kinh tế toàn thế giới đạt tới mức chưa từng có. Trong kinh tế tri thức, yếu
tố quan trong nhất không còn là tài nguyên thiên nhiên hoặc tiền vốn, mà là con
người có tri thức. Tri thức trở thành yếu tố quyết định của lực lượng sản xuất, là
ngưồn lực hàng đầu tạo lên sự tăng trưởng, trong đó sản xuất công nghệ trở thành
lực lượng quan trọng nhất và đem lại giá trị gia tăng cao nhất. Trong nền kinh tế
hiện đại, sự đổi mới công nghệ diễn ra nhanh chóng đòi hỏi người làm việc phải
ứng phó linh hoạt với những thay đổi của công nghệ, của thị trường và không
ngừng nắm bắt, học hỏi và trang bị những tri thức mới. Vấn đề hình thành "xã hội
học tập" và "học tập suốt đời" trở thành một yêu cầu cấp bách bảo đảm cho sự
phát triển bền vững.
Với truyền thống hiếu học và trí thông minh, con người Việt Nam có tiềm năng trí
tuệ không thua kém các nước. Tuy nhiên, sự khác biệt về trình độ công nghệ của
Việt Nam so với các nước phát triển là rất lớn. Khoảng cách tụt hậu hiện nay có
thể từ 50 đến 100 năm. Chỉ có thể rút ngắn bằng cách tăng nhanh đầu tư cho phát
triển con người và nhanh chóng tiếp cận nền kinh tế tri thức.
2.3.2 Xu thế toàn cầu hoá kinh tế và chiến lược phát triển nguồn nhân lực có
trình độ trí tuệ và tay nghề cao.
Trong thế kỷ 21, toàn cầu hoá kinh tế là xu thế tất yếu khách quan do sự phát triển
vũ bão của khoa học, công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao và sự phát triển của
kinh tế thị trường. Lợi thế cạnh tranh nghiêng về những quốc gia có nguồn nhân
lực chất lượng cao, nhất là đội ngũ nhân tài. Việc phát huy bản sắc văn hoá là
động lực và là nguồn gốc sức mạnh của mỗi dân tộc, đó cũng là nội dung xuyên
suốt mọi hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội, khoa học, nghệ thuật, ngoại giao, an
ninh, quốc phòng của mỗi quốc gia.
5
chương I
THực trạng đào tạo nguồn nhân lực
ngành xây dựng dân dụng và công nghiệp việt nam
1.1 Mạng lưới trường

Các trường đại học đào tạo ngành xây dựng tập trung tại ba thành phố lớn là Hà
Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh. Các trường này tổ chức việc đào tạo tại
các địa điểm khác nhau trong nước, như Đại học Kiến trúc Hà Nội mở các trạm
đào tạo tại Tuy Hoà, Huế, Vinh, Uông Bí. Đại học Xây dựng mở các trạm đào
tạo tại Lai Châu, Quảng Ninh, Hải Phòng, Vinh, Tuy Hoà, Nha Trang. Đại học
6
Kỹ thuật Đà Nẵng tại Nha trang, Qui Nhơn. Việc các trường với ra phạm vi hoạt
động quá xa và quá lâu là do chưa có sự liên kết đào tạo và sẽ đưa đến làm giảm
chất lượng đào tạo.
Tại Hà Nội có các trường Đại học Xây dựng, Đại học Kiến trúc là trường Đại học
công lập có các ngành kiến trúc và xây dựng. Ngoài ra có các trường ngoài công
lập như Đại học dân lập Đông Đô, Đại học Phương Đông cũng có các ngành xây
dựng và Kiến trúc.
Tại Đà Nẵng, trường Đại học Kỹ thuật (công lập) và trường Dân lập Duy Tân có
đào tạo các ngành kiến trúc và xây dựng.
Tại thành phố Hồ Chí Minh, trường Đại học Kiến trúc t.p. HCM, trường Đại học
Bách Khoa t.p. HCM và trường Đại học dân lập Văn Lang, đại học Văn Hiến, đại
học Hồng Bàng có đào tạo ngành kiến trúc và xây dựng.
Hiện nay việc đào tạo các hình thức sau đại học Thạc sỹ và Tiến sỹ thuộc các lĩnh
vực liên quan đến kiến trúc và xây dựng, chỉ được thực hiện ở trường Đại học
Kiến trúc Hà Nội, Đại học Kiến trúc thành phố Hồ chí Minh, Đại học Xây dựng,
đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh.

Hệ cao đẳng thuộc Bộ Xây dựng có 3 trường mới phát triển mấy năm gần đây.
Tại Hà Nội có trường Cao đẳng Xây dựng số 1. Tại T.P. HCM có trường số 2. Tại
Tuy Hoà có trường CĐXD số 3. Trong thời gian tới một số trường THXD được
nâng cấp lên CĐ.
Hệ trung học xây dựng thuộc Bộ XD hiện có 4 trường là các trường THXD số 2
tại Nam Định, trường THXD Miền Tây tại Vĩnh Long, trường THXD Công trình
Đô thị tại Hà Nội và THXD số 4 tại Xuân Hoà Vĩnh Phúc. Ngoài ra, còn một số

trường THXD tại Hà Nội và các trường THXD có đào tạo ngành xây dựng tại một
số tỉnh, thành phố khác.
Các trường công nhân kỹ thuật thuộc ngành Xây dựng có 22 cơ sở, phân bố tập
trung ở khu vực phía Bắc. Ngoài ra, những trường cao đẳng xây dựng và trung
học xây dựng cũng tham gia đào tạo công nhân kỹ thuật. Bên cạnh các trường dạy
nghề công lập, tại những thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải
Phòng có một số cơ sở dạy nghề ngoài công lập. Các trường có đào tạo nghề của
ngành XD hàng năm đào tạo được khoảng 12.000 người CNKT.
Trường Đào tạo, Bồi dưỡng Cán bộ ngành Xây dựng thuộc Bộ XD có chức năng
bồi dưỡng chính trị, nghiệp vụ, ngoại ngữ cho cán bộ thuộc Ngành.
Mạng lưới trường thuộc Ngành phân bố không hợp lý theo lãnh thổ, chưa tương
ứng với dân số và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của từng vùng. Hầu hết các cơ
sở đào tạo tập trung ở các vùng, các khu công nghiệp và kinh tế phát triển mạnh
như đồng bằng Bắc bộ ( 42,3%), Đông Nam bộ (30,6%). Vì vậy, cần phải có giải
pháp tích cực để mở thêm một số trường ở các khu vực chưa có trường.
7
1.2 Quy mô đào tạo
Quy mô giáo dục đào tạo tăng nhanh và đã tạo dựng được cơ sở vững chắc cho
mở rộng đào tạo nguồn nhân lực, đặc biệt là ở cấp cao đẳng, đại học và dạy nghề
ngắn hạn. Năm 2000 ước tính cả nước có 7,5 triệu lượt người lao động đã qua đào
tạo, tăng trung bình 8,3%/năm, trong đó ĐH-CĐ có 1,3 triệu, THCN có 1,6 triệu
và CNKT và những người đã qua dạy nghề có 4,6 triệu người.
Riêng ngành xây dựng có những tiến bộ khả quan. Hàng năm khối các trường đại
học tuyển sinh khoảng 6000 người
Khu vực phía Bắc có hai trường công lập lớn là Đại học Kiến trúc Hà Nội và Đại
học Xây dựng với lượng tuyển sinh mỗi trường hàng năm trên dưới 1000 sinh
viên. Trường Đại học Mở (Bộ Giáo dục và Đào tạo) hàng năm tuyển sinh trên 200
sinh viên. Đại học Đông Đô có khoa kiến trúc, và khoa xây dựng, hàng năm tuyển
sinh trên 500 sinh viên, Đại học Phương Đông có khoa Kiến trúc Công trình
tuyển sinh đến 350 sinh viên. Khu vực miền Trung, trường Đại học Kỹ thuật Đà

Nẵng đào tạo các ngành xây dựng đến 500 sinh viên hàng năm, Đại học Duy Tân
tuyển sinh xây dựng đến 400 sinh viên hàng năm. Tại thành phố Hồ Chí Minh có
hai cơ sở đào tạo đại học là trường Đại học Bách khoa hàng năm tuyển sinh ngành
xây dựng đến 600 sinh viên, Đại học Kiến trúc thành phố Hồ Chí Minh hàng năm
tuyển sinh 700 sinh viên. Ngoài ra có các trường đại học dân lập có ngành xây
dựng và kiến trúc như Đại học Văn Lang tuyển sinh hàng năm cho ngành xây
dựng tới 500 sinh viên. Ba trường có đào tạo sau đại học về kiến trúc, xây dựng,
hàng năm tuyển sinh khoảng 500 người phân chia theo cấp cao học khoảng 450
người và nghiên cứu sinh gần 50 chỉ tiêu.
Khối trường cao đẳng tuyển sinh hàng năm trên 3000 người. Trường Cao đẳng
XD số 1 tuyển sinh hàng năm đến 400 sinh viên. Trường Cao đẳng Xây dựng số 3
tại Tuy Hoà, hàng năm có khả năng tuyển sinh 400 sinh viên.Trường Cao đẳng số
2 tại Thủ Đức hàng năm tuyển sinh khoảng 400 sinh viên. Nhiều trường Cao đẳng
kỹ thuật dân lập khác có ngành xây dựng tuyển sinh hàng năm đến 2000 người.
Hiện nay các trường có đào tạo trung học chuyên nghiệp thuộc Bộ Xây dựng gồm
7 trường hàng năm tuyển sinh khoảng 3000 học sinh.
Các trường có đào tạo nghề xây dựng thuộc ngành xây dựng gồm 30 trường, hàng
năm tuyển sinh khoảng 12.000 công nhân kỹ thuật.
Công tác xã hội hoá đào tạo nguồn nhân lực đã đem lại kết quả bước đầu. Các lực
lượng xã hội tham gia ngày càng tích cực vào việc xây dựng cơ sở vật chất trường
học, đóng góp kinh phí cho đào tạo dưới nhiều hình thức khác nhau và huy động
mọi người dân tham gia đào tạo .
Số lượng người được đào tạo nghề nghiệp có tăng , nhưng chưa đáp ứng nhu cầu
phát triển của ngành và không cân đối giữa các trình độ đào tạo: Đào tạo cao
đẳng, đại học tăng quá nhanh trong khi dạy nghề (khối chính quy) và trung học
tăng chậm hơn làm cho cơ câú nguồn nhân lực theo trình độ càng thêm bất hợp lý.
8
Qui mô đào tạo theo các cấp chưa đáp ứng nhu cầu học tập của thanh niên và nhu
cầu lao động có chuyên môn kỹ thuật cho phát triển đất nước trong bối cảnh
chung. Tình hình chung trong cả nước cũng như trong ngành xây dựng, tỷ lệ học

sinh tham gia đào tạo nghề các loại so với tổng số thanh niên 18 - 23 tuổi tuy có
tăng nhưng vẫn còn rất thấp, mới chỉ từ 5% ( 1989) lên 7,56% ( 1995 ) và 14,3% (
2000 ) ( kể cả dạy nghề ngắn hạn ) có nghĩa là vẫn còn khoảng 80% thanh niên
bước vào thị trường sức lao động mà chưa được đào tạo nghề nghiệp chuyên môn.
Việc đào tạo nhân lực về các cấp trình độ, ngành nghề và vùng miền không hợp
lý, không đáp ứng yêu cầu của người sử dụng nên có tình trạng nhiều người đã
qua đào tạo không kiếm được việc làm hoặc làm việc không đúng với trình độ tay
nghề đã được đào tạo trong khi phải sử dụng khá nhiều dạng nhân lực không qua
đào tạo.
1.3. Ngành nghề đào tạo
Những năm vừa qua, các trường đã có nhiều cố gắng làm cho cơ cấu ngành nghề
đào tạo sát với yêu cầu sử dụng, tuy chưa đáp ứng được sự thích nghi, nhạy bén
với yêu cầu thực tế thì chưa đáp ứng.
Cơ cấu ngành nghề được hình thành từ những năm 1954-1955, khi mới bắt đầu
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta sau kháng chiến chống Pháp.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và xây dựng nước Việt
nam thống nhất do yêu cầu của thực tế sản xuất và sử dụng người mà điêù chỉnh
thêm , bớt một số ngành nghề.
Về đại học từ ban đầu đã hình thành các ngành kiến trúc sư và kỹ sư xây dựng.
Trong khoảng 10 năm trở lại đây thì ngành kiến trúc tách thành kiến trúc sư công
trình và kiến trúc sư qui hoạch. Về kỹ sư xây dựng, ban đầu chỉ có một ngành
chung là kỹ sư xây dựng dân dụng và công nghiệp. Từ năm 1969 đến 1984 bắt
đầu tách thành hai loại kỹ sư xây dựng dân dụng & công nghiệp và kỹ sư kết
cấu.Từ năm 1971 bắt đầu có kỹ sư vật liệu xây dựng, kỹ sư cấp thoát nước , kỹ sư
thông gió ra trường. Một số ngành điều chỉnh mục tiêu đào tạo và tên ngành cho
hợp với sự phát triển của xã hội như ngành cấp, thoát nước đổi thành ngành môi
trường nước, ngành thông gió đổi thành ngành môi trường khí. Ngành kỹ sư đô
thị cũng là những mô hình mới trong đào tạo. Một số ngành nghề đại học xuất
hiện hoặc mất đi phụ thuộc yêu cầu sử dụng cán bộ thực tế, nói lên sự cố gắng của
các trường đại học. Tuy nhiên, nhiều ngành mới có, mà các trường chưa kịp thời

cung cấp được cán bộ, như các ngành về vật liệu mới, về môi trường, về ngành
ứng dụng tin học, ngành xây dựng công trình ngầm, ngành xây dựng các công
trình đặc biệt, ngành quản lý dự án. . .
Về trung học có các ngành kỹ thuật xây dựng (sau năm 1970 tách thành các lớp
trung học kỹ thuật thi công, trung học kỹ thuật thiết kế), vật liệu xây dựng, cơ khí,
điện xây dựng. Một số ngành nghề được đào tạo do nhu cầu thực tế nhưng vướng
9
vào khung chung và không có giáo viên chuyên môn nên đào tạo không đáp ứng
được yêu cầu của sản xuất.
Về đào tạo công nhân, không chú trọng và phân cấp công nhân mà các trường
nghề chỉ cung cấp công nhân gọi là thợ mà xếp hạng thì làm được các việc qui
định cho thợ bậc ba ( trước đây ) là tối đa . Việc nâng bậc, nâng cấp do doanh
nghiệp công nhận qua thời gian công tác và các qui định về yêu cầu công tác hoàn
thành của bậc lương chứ không toàn diện theo cấp bậc thợ.
Về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức và đào tạo lại chưa có qui định thành hệ
thống mang tính bắt buộc. Do chưa có tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ chuyên
môn, nghiệp vụ ở các đơn vị sản xuất.
Hiện nay có sự mất cân đối nghiêm trọng giữa tỷ lệ người đuợc đào tạo ở các cấp
học. Phần lớn học sinh đều muốn theo học ở cấp đại học, cao đẳng mà không học
các cấp thấp hơn. Chỉ khi đã thi trượt nhiều năm ở bậc đại học mới vào trung học
hay trường dạy nghề.
Sự mất cân đối đó đòi hỏi cần phải có chính sách thoả đáng để khuyến khích lao
động trực tiếp. Điều này góp phần nhanh chóng điều chỉnh cơ cấu đào tạo hợp lý
hơn.
1.4 Đội ngũ giáo viên
Chất lượng đào tạo phụ thuộc nhiều vào chất lượng thày giáo.
Tình hình chung của các trường đại học và cao đẳng trong cả nước thì tỷ lệ số
sinh viên trên số giảng viên đã từ 4,88 sinh viên/thày (1990) lên 30,1/1 thày
(1998) cao gấp 3 lần định mức cho phép. Trong đó 50-60% số giáo viên đã ở tuổi
50-60 cần dần dần được thay thế nhưng hầu hết các trường không có đội ngũ kế

cận. Đời sống giáo viên còn khó khăn nên chưa an tâm nghiên cứu và tập trung trí
tuệ cho giảng dạy và đào tạo mà còn làm nhiều việc khác nhằm giải quyết tăng
thu nhập cá nhân.
Năm năm trở lại đây, các trường Đại học bắt đầu có chủ trương thu nhận và đào
tạo lớp cán bộ trẻ nhưng thực tế đã bị thiếu hẫng khoảng 10 năm giữa hai thế hệ.
Việc tổ chức nâng cao trình độ thày hiện nay dựa chính vào việc cho đi học ở cấp
cao hơn như kỹ thuật viên sẽ đưa đi học đại học tại chức, là kỹ sư thì nâng cao
bằng cách cho đi học cao học và sau đó là làm nghiên cứu sinh. Những người
không hội đủ điều kiện đi học thì giữ nguyên bằng cấp và uy tín nghề nghiệp chủ
yếu là đếm năm công tác. Còn thiếu hình thức đào tạo lại ngắn hạn, cập nhật
thông tin thường xuyên, khi công nghệ mới trên thế giới và trong nước phát triển
như vũ bão làm cho những năm tích luỹ kinh nghiệm giảm ý nghĩa.
Tình hình đội ngũ giáo viên ở các trường cao đẳng và trung học còn rất căng
thẳng. Một trong những khó khăn là trong thời gian qua, các trường không có chỉ
tiêu tuyển dụng biên chế để bổ sung lực lượng thày giáo. Lớp thày có tuổi vẫn
10
phải đảm nhiệm những nhiệm vụ chủ trì trong nhiều công tác đáng lẽ việc ấy phải
chuyển giao cho lớp kế cận.
Ơ nhiều cơ sở đào tạo thực tế đòi hỏi có sự thay đổi chiến lược là thay thế hàng
loạt giáo viên không đủ năng lực và trình độ. Điều này vượt quá khả năng của cơ
sở, phải có sự kiên quyết và những biện pháp mạnh hỗ trợ tích cực từ cấp trên.
1.5 Nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo và quản lý đào tạo
Nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo thực tế đã được một số trường
tiến hành soát xét tổng thể để tăng tính thực tiễn, phù hợp với hiện trạng phát triển
cũng như làm tiền đề cho nguồn lực đi vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tuy chưa
làm được bao nhiêu.
Các trường Đại học như Kiến trúc Hà Nội, Kiến trúc thành phố Hồ Chí Minh,
Xây dựng có một số cải tiến như học theo tín chỉ, học theo xưởng và có cải tiến
từng bộ phận chương trình. Kết quả phải có thời gian mới khẳng định được.
Phương pháp dạy và học cải tiến chưa nhiều. Các phương pháp dạy học cũ, lạc

hậu, nặng về truyền đạt kiến thức lý thuyết mà không chú ý đến việc rèn luyện
cho học sinh phương pháp học tập, cách suy nghĩ và phương pháp ứng xử trong
cuộc sống, trong lao động. Việc học của sinh viên phần lớn là thụ động. Chúng ta
chưa có đủ cơ sở vật chất, hệ thống sách tham khảo, sách giáo khoa đáp ứng cũng
như hệ thống phòng thí nghiệm tương ứng nên tình trạng học chay là phổ biến.
Số giờ trên lớp của sinh viên là nhiều, có nơi lên tới trên 30 tiết/ tuần nên sinh
viên ít thời giờ triển khai bài học tại nhà. Nhiều sinh viên phải đi làm thêm để
kiếm sống trong giờ không phải lên lớp.
Nói chung, nội dung chương trình và mô hình đào tạo các cấp còn lạc hậu, chậm
được cập nhật những kiến thức mới và còn tách rời thực tế nên chất lượng đào tạo
thấp, không đáp ứng nhu cầu thị trường sức lao động và có xu hướng chất lượng
đào tạo tỉ lệ nghịch với tăng qui mô đào tạo Việc quản lý đào tạo chưa linh hoạt
theo từng chuyên ngành mà còn cứng nhắc. Khâu đào tạo từ xa và từ các địa điểm
xa trường sở có nhiều khó khăn, thiếu xót làm giảm sút kết quả học tập.
1.6. Cơ sở vật chất phục vụ đào tạo
Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật và kinh phí đào tạo nguồn nhân lực cho ngành
xây dựng tuy có được đầu tư và tăng đáng kể, nhưng nhìn chung vẫn còn lạc hậu,
chậm được cải thiện. Sự đầu tư cho cơ sở vật chất của các trường chưa tương
xứng với tăng quy mô học sinh, sinh viên, đặc biệt là ký túc xá, phòng thí nghiệm,
công cụ học tập, sân bãi thực hành và sách giáo khoa, tài liệu tham khảo và các
điều kiện khác cho học sinh, sinh viên học tập còn thiếu nghiêm trọng.
Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề còn thiếu thốn, lạc hậu, thiếu đồng bộ,
trong khi chương trình mục tiêu đầu tư cho trang thiết bị dạy nghề còn hạn hẹp,
11
chưa đáp ứng được với nhu cầu của các trường. Bộ Xây dựng có đầu tư cho các
trường trong Bộ nhưng lực bất tòng tâm, chưa tạo được một tổng thể phát triển
mạnh mẽ.
Nguồn ngân sách đầu tư cho đào tạo nghề còn thấp, từ 8% của tổng chi phí cho
đào tạo một năm vào năm 1987 xuống còn 3,7%/năm vào năm 1998. Chưa có
khoản mục ngân sách giành riêng cho dạy nghề.

Các trường thuộc doanh nghiệp và địa phương, do ngân sách doanh nghiệp và địa
phương hạn chế chỉ được đầu tư cho cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học
không đáng kể. Trang bị cho giảng dạy và học tập ở các trường thuộc địa phương
khá là thiếu thốn, lạc hậu.
12
Chương ii
nội dung chiến lược đào tạo nguồn nhân lực ngành
xây dựng đến năm 2010 và tầm nhìn 2020
2.1 Bối cảnh thị trường xây dựng thế giới và nhu cầu nhân lực ngành xây
dựng trong nước.
2.1.1 Bối cảnh thị trường xây dựng thế giới.
Hiện nay nền kinh tế thế giới, trong đó có thị trường xây dựng thế giới đang
hướng mạnh vào hội nhập khu vực và quốc tế trên cơ sở phát triển nền kinh tế tri
thức. Xu hướng hội nhập quốc tế và phát triển kinh tế tri thức vừa tạo nên thời cơ
và đặt ra những thách thức lón đối với đào tạo nguồn nhân lực ngành xây dựng
của nước ta. Đó là cơ hội giao lưu hợp tác, học tập kinh nghiệm trong đào tạo để
có thể thực hiện đi tắt đón đầu, rút ngắn khoảng cách, tránh nguy cơ tụt hậu so với
các nền kinh tế tiên tiến trên thế giới. Ngành xây dựng Việt Nam đứng trước đòi
hỏi cấp thiết về đào tạo nhanh chóng nguồn nhân lực đủ năng lực tiếp cận, áp dụng
và làm chủ công nghệ xây dựng hiện đại, tiên tiến, có khả năng hội nhập quốc tế
và tham gia vào nền kinh tế tri thức.
Điểm xuất phát của nền kinh tế Việt Nam thấp, thu nhập bình quân trên đầu
người chỉ bằng 1/12 mức trung bình của thế giới, trong khi Việt Nam là nước đông
dân 78 triệu người năm 2001. Nhu cầu xây dựng tăng nhanh, đặt ra mâu thuẫn
giữa khối lượng lớn công trình cần xây dựng và vốn, nhất là trình độ và số lượng
nguồn nhân lực trong xu thế cạnh tranh ngày càng gay gắt.
2.1.2 Nhu cầu thị trường xây dựng trong nước
Chính sách CNH và HĐH đất nước đòi hỏi chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế trong
những năm tới theo hướng tăng nhanh tỷ trọng của khu vực công nghiệp và xây
dựng. Kế hoạch ngân sách nhà nước dự kiến dành cho xây dựng cơ bản đến năm

2010 là 150 tỷ USD, trong đó đến năm 2005 là 60 tỷ USD. Chỉ số đô thị hoá
khoảng 45 % năm 2010 thúc đẩy thị trường xây dựng phát triển mạnh với tỷ lệ
tăng trưởng ước tính khoảng trên 20%.
Riêng các lĩnh vực thuộc Bộ Xây dựng quản lý, đến năm 2010, tốc độ phát triển
về xây lắp dự kiến tăng 9-10%, về vật liệu xây dựng tăng trên 20%/năm, về cơ khí
xây dựng, đến năm 2005 chế tạo 50-60% phụ tùng vật liệu xây dựng, 40-45% với
13
khối lượng giá trị 15% thiết bị công nghiệp xi măng, 50-55 % thiết bị ngành gốm
sứ.
Thị trường xây dựng trong nước có sự tham gia đầy đủ theo hướng cạnh tranh của
ba khu vực kinh tế nhà nước, nước ngoài và tư nhân.
Nhà ở là thị trường lớn về khối lượng và đa dạng về loại hình xây dựng. Bình
quân diện tích sàn nhà ở trên đầu người hiện nay ở các đô thị Việt Nam còn rất
thấp khoảng 3-5m2/người. Chỉ tiêu phấn đấu đến năm 2010 là 100% số hộ có nhà
ở với mức bình quân là khoảng 12m2/người tương đương khoảng 6-7 triệu m2 nhà
ở mới và hàng triệu m2 nhà cải tạo với tổng số vốn ước tính khoảng 120.000 tỷ
đồng.
Nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng kĩ thuật và công nghiệp ở nước ta là rất lớn. Đây
là những công trình quan trọng, quyết định sự phát triển kinh tế-xã hội của đất
nước, có quy mô lớn, đòi hỏi kĩ thuật và công nghệ thi công hiện đại, sử dụng
nhiều vốn, vật tư và nhân lực có trình độ và chất lượng chuyên môn cao.
Nhu cầu phát triển lĩnh vực tư vấn, thiết kế là cấp bách. Đến năm 2005, tư vấn Việt
Nam phải đảm nhận khoảng 50% giá trị tư vấn của các dự án nước ngoài. Hiện tại
mới đạt tỷ lệ khoảng 12-25%, do đó cần tăng nhanh số cán bộ đầu đàn có trình độ
khu vực và quốc tế, đủ sức cạnh tranh trong thị trường tư vấn.
Tóm lại, nhu cầu thị trường xây dựng ở nước ta trong những năm tới là rất lớn và
phát triển theo hướng nâng cao dần chất lượng sản phẩm, kéo theo sự phát triển
tương ứng của thị trường tư vấn, thiết kế, thị trường vật liệu, thị trường công nghệ
và khoa học xây dựng.
2.1.3 Xu hướng hội nhập quốc tế, xuất khẩu lao động và cạnh tranh trong thị

trường xây dựng
Trong thị trường xây dựng ở Việt Nam mức độ cạnh tranh tăng dần và trở nên
quyết liệt. Trong cạnh tranh, yếu tố chất lượng công trình đạt tiêu chuẩn quốc tế có
vai trò quyết định.
Ngành xây dựng phải đối diện với yêu cầu hội nhập khu vực và quốc tế, cạnh
tranh với các doanh nghiệp xây dựng nước ngoài ngay tại Việt Nam và phấn đấu
xuất khẩu lao động và kĩ thuật xây dựng ra nước ngoài.
Chú trọng việc hợp tác quốc tế trong đào tạo và nghiên cứu khoa học, công nghệ
xây dựng, kể cả việc nghiên cứu thị trường xây dựng khu vực và quốc tế. Tích cực
chuẩn bị xây dựng nguồn nhân lực đủ trình độ theo tiêu chuẩn chất lượng quốc tế,
tạo lợi thế cạnh tranh, hội nhập trên cơ sở khai thác những thế mạnh của trí tuệ và
bản sắc văn hoá của người Việt Nam để nắm vững và tạo ra sản phẩm, công nghệ
xây dựng mũi nhọn, đặc thù đòi hỏi hàm lượng tri thức cao, vốn đầu tư ít.
2.1.4 Xu hướng sử dụng lao động ngành xây dựng.
14
Nhu cầu phát triển nhanh và đa dạng của thị trường xây dựng tất yếu đòi hỏi
nguồn nhân lực tương ứng đủ về số lượng và chất lượng, đồng thời phát triển theo
hướng phân cấp sử dụng mạnh mẽ.
Dân số nước ta năm 2020 khoảng 98 triệu người, số người trong độ tuổi lao động
khoảng 50 triệu, mỗi năm cần có 1,5 triệu việc làm, trong đó lao động ngành công
nghiệp và xây dựng chiếm khoảng 30% tương đương khoảng gần 0,5 triệu việc
làm/năm. Riêng ngành xây dựng cần khoảng 100.000 việc làm/năm.
Đến năm 2005 số lượng công nhân kỹ thuật tăng gấp đôi, nhất là công nhân kỹ
thuật lành nghề thuộc các chuyên ngành mới. Đồng thời cần có một lực lượng cán
bộ đầu đàn về chuyên môn và nghiệp vụ quản lý đủ năng lực tổ chức và đi đầu
làm chủ công nghệ xây dựng hiện đại, đáp ứng nhu cầu sản xuất, kinh doanh và
tham gia cạnh tranh có hiệu quả trong thị trường xây dựng.
Xu hướng sử dụng lao động ngành xây dựng diễn ra đồng thời ở ba khu vực phát
triển chính: khu vực đô thị, khu vực kinh tế trong điểm và khu vực nông thôn. ổ
mỗi một khu vực có yêu cầu khác nhau về sử dụng nguồn nhân lực, nhưng đều

bao gồm 4 lĩnh vực cơ bản là: xây dựng cơ sở hạ tầng kĩ thuật, xây dựng công
nghiệp, xây dựng công trình dịch vụ công cộng và xây dựng nhà ở.
Nguồn nhân lực tập trung tại khu vực đô thị và kinh tế trọng điểm là nguồn nhân
lực được đào tạo chủ yếu theo hướng có đủ năng lực tiếp cận, lựa chọn áp dụng và
tiến tới sáng tạo các công nghệ xây dựng tiên tiến.
Nguồn nhân lực tại khu vực nông nghiệp, nông thôn là nguồn nhân lực được đào
tạo có đủ năng lực chủ yếu để cải tiến, phát triển các công nghệ xây dựng truyền
thống và áp dụng các công nghệ xây dựng mới.
2.1.5 Xu hướng đa dạng hoá ngành nghề và xuất hiện ngành nghề mới
Nhu cầu thị trường xây dựng tăng nhanh, đòi hỏi sự đa dạng về loại hình ngành
nghề. Xuất hiện nhiều ngành nghề mới trong các lĩnh vực của ngành xây dựng, là
những ngành đòi hỏi áp dụng kĩ thuật và công nghệ xây dựng cao như tin học xây
dựng, công nghệ thi công chính xác, công trình đặc biệt, tự động hoá trong một số
công tác khảo sát, thiết kế, cơ khí , sản xuất vật liệu mới và thi công xây lắp,
2.2 Quan điểm chỉ đạo xây dựng chiến lược
2.2.1 Hiện đại hoá đào tạo.
Hiện đại hoá đào tạo nguồn nhân lực nói chung và ngành xây dựng nói riêng là
triển khai quốc sách của Đảng và Nhà nước ưu tiên đầu tư trước một bước ngành
giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ, nhằm thực hiện chiến lược đi
tắt, đón đầu để khắc phục nguy cơ tụt hậu so với các nền kinh tế tiên tiến ở khu
vực và quốc tế.
Hiện đại hoá đào tạo nguồn nhân lực ngành xây dựng phải gắn với định hướng
phát triển các lĩnh vực của ngành xây dựng và các ngành liên quan, gắn với thực tế
15
sử dụng và nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế, nhằm đáp ứng kịp thời
những đòi hỏi thực tế sản xuất, kinh doanh của ngành trong giai đoạn trước mắt và
tương lai. Đó là các lĩnh vực đào tạo: quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn,
kiến trúc, kĩ thuật hạ tầng và môi trường, tư vấn thiết kế, thi công xây lắp, cơ khí
xây dựng, sản xuất vật liệu, công nghệ thông tin trong xây dựng. Phấn đấu từng
bước hiện đại hoá hệ thống đào tạo các lĩnh vực của ngành ở mọi cấp và hình thức

đào tạo về nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo và cơ sở vật chất, trang
thiết bị phục vụ đào tạo theo tiêu chuẩn tiên tiến; ưu tiên các cơ sở đào tạo trọng
điểm, một số ngành mới, đặc thù, mũi nhọn, nhằm nhanh chóng cung cấp nguồn
nhân lực đạt chuẩn chất lượng tiên tiến trong khu vực vào năm 2010 và quốc tế
vào năm 2020.
2.2.2 Chuẩn hoá đào tạo
Nguồn nhân lực được đào tạo là một trong những cơ sở và động lực hàng đầu đảm
bảo thành công sự nghiệp CNH và HĐH đất nước. Vì vậy, chuẩn hoá đào tạo
nhằm góp phần quan trọng nâng cao năng lực và chất lượng của quá trình đào tạo
để người được đào tạo có đủ điều kiện phát huy cao nhất năng suất và hiệu quả lao
động trong thực tế.
Trong xu thế cạnh tranh, hội nhập khu vực và quốc tế diễn ra ngày càng gay gắt,
để có đủ nguồn nhân lực đáp ứng một cách hiệu quả nhu cầu sản xuất, kinh doanh
của ngành, nhất thiết phải tiến hành chuẩn hoá từng bước hệ thống đào tạo trên cơ
sở đảm bảo chất lượng đào tạo theo tiêu chuẩn chất lượng tiên tiến của khu vực và
thế giới ở mọi cấp, hình thức và ngành nghề đào tạo thuộc các lĩnh vực chuyên
môn và quản lý của ngành xây dựng. Tiến tới bằng cấp đào tạo của Việt Nam
được khu vực và quốc tế công nhận là tương đương, nhân lực xây dựng được đào
tạo của Việt Nam đủ điều kiện tham gia trực tiếp vào thị trường khu vực và quốc
tế.
2.2.3 Xã hội hoá đào tạo
Xã hội hoá đào tạo góp phần mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng, đáp ứng yêu
cầu ngày càng cao của thời kỳ CNH, HĐH đất nước, yêu cầu xuất khẩu lao động
và hội nhập khu vực và quốc tế.
Xã hội hoá đào tạo là phát huy nội lực, là tạo thế chủ động trong đào tạo, phát huy
truyền thống hiếu học, kĩ năng khéo léo, năng động, cần cù, ý thức tự chủ, ham
hiểu biết của người lao động Việt Nam.
Việc đào tạo nguồn nhân lực ngành xây dựng nhất thiết phải huy động sự tham
gia, sự kết hợp của nhiều thành phần kinh tế, tổ chức xã hội và cá nhân khác nhau,
cho phép hiệu chỉnh hợp lý quy mô và cơ cấu ngành nghề phù hợp với nhu cầu sử

dụng thực tế của thị trường và phân bố nguồn nhân lực theo địa dư.
Thực hiện xã hội hoá đào tạo ở mọi cấp, mọi hình thức đào tạo, đặc biệt là đào tạo
công nhân kĩ thuật và công nhân bậc cao, nhằm tăng nhanh số lượng, nâng cao
chất lượng lao động được đào tạo; đồng thời hạn chế tình trạng mất cân đối trong
phân bổ nguồn nhân lực xây dựng hiện nay.
16
2.3 Mục tiêu của chiến lược đào tạo nguồn nhân lực ngành xây dựng đến năm
2010
2.3.1 Mục tiêu chung của chiến lược
Phát triển đội ngũ lao động thuộc các lĩnh vực của ngành xây dựng một cách đồng
bộ, đủ trình độ và hợp lý về cơ cấu ngành nghề, có khả năng tiếp cận và làm chủ
kỹ thuật, công nghệ và khoa học xây dựng hiện đại, tiên tiến, đáp ứng yêu cầu
ngày càng tăng của ngành xây dựng trong nước và tham gia cạnh tranh có hiệu
quả trong thị trường xây dựng khu vực và quốc tế; góp phần hoàn thành thắng lợi
sự nghiệp CNH và HĐH Đất nước.
2.3.2 Mục tiêu cụ thể của chiến lược
2.3.2.1 Mở rộng quy mô và cơ cấu hợp lý đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực ngành
xây dựng dân dụng và công nghiệp.
Cung cấp đủ số lượng và đồng bộ nguồn nhân lực hoạt động trong các lĩnh vực
của ngành, bao gồm: quy hoạch đô thị và nông thôn, kiến trúc, kĩ thuật hạ tầng và
môi trường, tư vấn, thiết kế, thi công xây lắp, cơ khí xây dựng, sản xuất vật liệu,
Điều chỉnh hợp lý và cân đối cơ cấu ngành nghề đào tạo theo hướng tăng tỷ lệ đào
tạo những ngành mới, hiện đại, mũi nhọn, nhằm phát huy hiệu quả hoạt động sản
xuất, kinh doanh của ngành, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thị trường xây
dựng trong nước và quốc tế.
2.3.2.2 Nâng cao chất lượng đào tạo.
Chú trọng chất lượng đào tạo về chuyên môn và nghiệp vụ ở các cấp và các hình
thức đào tạo, đáp ứng nhu cầu liên thông trong đào tạo. Đảm bảo nhân lực được
đào tạo tại một số cơ sở trọng điểm của ngành đến năm 2010 đạt trình độ tương
đương của khu vực và đến năm 2020 đạt trình độ tiên tiến của khu vực trên một số

lĩnh vực của ngành, nhất là các lĩnh vực có ứng dụng công nghệ cao, công nghệ
mũi nhọn, đặc thù, đủ sức cạnh tranh trong thị trường khu vực và quốc tế.
Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực sau khi được đào tạo
đủ khả năng tiép cận thực tế và sớm phát huy hiệu quả công tác. Quy trình đào tạo
nhất thiết phải có khả năng thích ứng linh hoạt với nhiều loại hình ngành nghề và
hình thức đào tạo. Mặt khác cần chú trọng chuẩn hoá nguồn nhân lực nhằm phát
huy hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực được đào tạo.
2.3.2.3 Hợp tác quốc tế trong đào tạo.
Chú trọng khai thác nhiều hình thức hợp tác quốc tế trong đào tạo, liên doanh, liên
kết đào tạo, trao đổi giáo viên, gửi người đi đào tạo ở nước ngoài, ở mọi cấp và
hình thức đào tạo, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao. Phấn đấu đưa hệ
thống đào tạo nhân lực xây dựng Việt Nam sớm ngang tầm khu vực trên cơ sở
công nhận bằng cấp đào tạo, để nhân lực ngành xây dựng Việt Nam đủ điều kiện
chủ động hội nhập khu vực và quốc tế.
17
2.4 Nội dung của chiến lược
2.4.1 Tổ chức mạng lưới đào tạo
Mạng lưới đào tạo cần được điều chỉnh theo hướng: phân bổ và xây dựng theo nhu
cầu phát triển kinh tế xã hội của các vùng trong nước; đáp ứng nhu cầu cung cấp
công nhân kĩ thuật xây dựng trước mắt và lâu dài; đảm bảo chất lượng đào tạo.
Giai đoạn đầu, hoàn chỉnh hệ thống các cơ sở đào tạo nghề xây dựng một cách
thích hợp, đầu tư chiều sâu để tăng năng lực của các trường hiện có, đồng thời
thành lập thêm một số trường CNKT thuộc các tỉnh lớn và tổng công ty xây dựng
chưa có trường nếu có nhu cầu. Giai đoạn sau, xây dựng thêm một số trường trọng
điểm vùng, đặc thù ngành, trường đào tạo công nhân lành nghề, công nhân bậc
cao. Xây dựng một số trường đạt tiêu chuẩn của các nước trong khu vực và quốc
tế.
Do đặc thù của ngành xây dựng ngày càng cần áp dụng kĩ thuật cao nên tăng
cường đào tạo cao đẳng, duy trì phương thức đào tạo trung học chuyên nghiệp tại
những địa phương và ngành nghề thích hợp. Có kế hoạch từng bước chuyển các

trường trung học chuyên nghiệp thành trường cao đẳng, có cơ sở vật chất và trang
thiết bị tương xứng với cơ sở đào tạo bậc đại học. Các trường cao đẳng đào tạo
chủ yếu là kĩ thuật viên cao đẳng, đồng thời đào tạo cả kĩ thuật viên trung học và
công nhân bậc cao cho những ngành nghề phù hợp. Mở thêm một số khoa ngành
mới tại các trường đại học thuộc Bộ Xây dựng hiện có, tạo sự cân đối hợp lí hơn
giữa số lượng kĩ sư xây dựng dân dụng công nghiệp và kiến trúc sư với các
chuyên ngành khác như đô thị, môi trường. Đề nghị nhà nước chuyển trường Đại
học kiến trúc thành phố HCM về Bộ Xây dựng quản lí. Đầu tư cho các trường đại
học kiến trúc của Bộ trở thành trung tâm đào tạo, NCKH chất lượng cao, gắn kết
được các hoạt động đào tạo nghiên cứu của trường với các viện nghiên cứu, với
sản xuất.
2.4.2 Phát triển quy mô và nâng cao chất lượng đào tạo.
Phấn đấu đến 2010, 70-75% số lao động trong ngành xây dựng phải được đào tạo.
Năng lực của tất cả các trường đào tạo công nhân hiện có của ngành xây dựng chỉ
đáp ứng được trên 30% nhu cầu nhân lực cần gia tăng. Phải cấp bách mở rộng quy
mô đào tạo nghề xây dựng theo các hướng: thành lập các trường mới (tại các tổng
công ti lớn, các tỉnh), mở rộng quy mô đào tạo tại các trường hiện có, đa dạng hoá
các hình thức đào tạo nghề như đào tạo ngắn ngày, đào tạo tại chỗ, xã hội hoá việc
đào tạo nghề xây dựng. Có kế hoạch để các doanh nghiệp tự đầu tư và tham gia
trực tiếp vào quá trình đào tạo theo hướng xã hội hoá sự nghiệp đào tạo.Trong thời
gian khoảng 5 năm, tăng được gấp 3 lần năng lực đào tạo nghề của ngành xây
dựng dân dụng-công nghiệp. Nhà nước cần có chính sách ưu tiên cho các trường
nghề như tăng kinh phí, tăng lượng học sinh được học bổng, tạo điều kiện chỗ ăn
ở văn minh cho học sinh trong thời gian đào tạo.
18
Đào tạo đại học và sau đại học giữ nguyên tốc độ phát triển hiện tại 5-7% /năm, đi
nhanh vào việc nâng cao chất lượng và mở thêm ngành mới.
Chất lượng đào tạo nghề phải được cấp bách cải thiện và nâng cao, được thị
trường trong nước chấp nhận và tiến tới đạt mặt bằng khu vực. Có chuẩn đánh giá
chất lượng cơ sở đào tạo để phân loại các trường dạy nghề, có cơ chế và tổ chức

thích hợp để thực hiện việc kiểm định và công nhận định kì chất lượng đào tạo từ
Trung ương tới địa phương. Tăng cường đầu tư cần thiết về cơ sở vật chất, trang
thiết bị cho những trường quá yếu kém, đầu tư nâng cấp một số trường có những
ngành công nghệ mới như công trình đô thị, cơ khí xây dựng, sản xuất vật liệu
mới. Tăng cường giáo viên tay nghề giỏi cho các trường. Tiếp tục cải tiến và xây
dựng chương trình đào tạo nghề, sách giáo khoa, có sử dụng các chuyên gia làm
việc tại các công ti xây dựng, hết sức tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, đặc biệt
trong khu vực (Malaixia, Singapo) và Hàn quốc.
Các trường đại học tiếp tục đổi mới nội dung chương trình và sách giáo khoa theo
hướng phát huy tính chủ động của sinh viên, đổi mới phương pháp giáo dục và
phương pháp đào tạo, đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin như
một công cụ quan trọng để đổi mới phương thức dạy và học đại học. Có kế hoạch
để từng bước văn bằng kĩ sư một số ngành như xây dựng dân dụng-công nghiệp,
kiến trúc sư được quốc tế công nhận.
2.4.3 Cơ cấu ngành nghề đào tạo
Sự phát triển của nền kinh tế và nhu cầu thị trường đòi hỏi phải thay đổi cơ cấu
ngành nghề. Cơ cấu ngành nghề ngoài các ngành nghề xây dựng thông thường,
ngành cơ khí cơ giới, phải thêm nhiều ngành sử dụng công nghệ mới. Danh mục
ngành nghề đào tạo cần được lập và bổ sung hàng năm.
Đào tạo công nhân kĩ thuật cho những ngành nghề đặc thù có yêu cầu kĩ thuật cao
như : bêtông cốt thép ứng lực trước, kết cấu treo, thi công công trình ngầm. Đào
tạo công nhân thuộc ngành cơ khí sử dụng công nghệ cao như hàn tự động, cơ khí
chính xác, công nghệ tôi luyện sản phẩm. Đào tạo cán bộ và công nhân cho ngành
sản xuất các VLXD chuyên dùng như silicát, vật liệu cách âm-cách nhiệt, vật liệu
chống cháy, các hoá phẩm xây dựng . Đào tạo cán bộ và công nhân cho ngành mới
như ứng dụng tin học, ngành xây dựng công trình ngầm , ngành xây dựng đặc
biệt. Đào tạo cán bộ và công nhân thí nghiệm – kiểm định đồng bộ để tăng cường
năng lực kiểm định giám sát. Đào tạo cán bộ và công nhân vận hành được hệ
thống kĩ thuật đô thị hiện đại có điều khiển tự động và công nghệ tiên tiến.
Đào tạo đội ngũ kĩ sư tư vấn thiết kế và giám sát, đảm nhiệm được những công

trình phức tạp tầm cỡ quốc tế.
Đào tạo cán bộ và công nhân phục vụ xuất khẩu lao động, được trang bị kĩ năng
công tác, ngoại ngữ và pháp luật phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động
quốc tế, đặc biệt nâng cao trình độ lành nghề của người lao động.
Đối với các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất, ưu tiên đào tạo cán bộ quản lí dự án,
kĩ sư bậc cao, kĩ sư trưởng theo các loại hình thích hợp.
19
2.4.4 Loại hình đào tạo
Mở rộng và phát triển nhiều hình thức đào tạo khác nhau cho các cấp học. Bên
cạnh hình thức đào tạo chính quy ghi rõ cấp đào tạo, còn có nhiều hình thức không
chính quy như tại chức các cấp, tu nghiệp, bồi dưỡng nâng cao trình độ, đào tạo
ngắn hạn, cấp chứng chỉ phục vụ ngay nhu cầu công việc .
Từng bước thực hiện việc xã hội hoá đào tạo nghề. Khuyến khích hỗ trợ việc mở
những trường dạy nghề của các tổ chức xã hội, của tư nhân, lớp dạy nghề trong
các công ty TNHH. Liên danh liên kết giữa các cơ sở đào tạo thuộc nhiều thành
phần kinh tế. Ngoài ra khuyến khích việc dạy nghề hướng nghiệp dưới mọi hình
thức, loại hình : các lớp ngắn hạn, lớp nâng cao tay nghề, lớp đào tạo không tập
trung, các trung tâm dạy nghề cho trẻ em, cho người lớn.
Cần nghiên cứu sớm để Nhà nước có thể ban hành một chính sách quan trọng là
buộc các cơ sở sử dụng lao động phải đóng góp kinh phí đào tạo.
Tranh thủ việc hợp tác quốc tế trong đào tạo nguồn nhân lực. Xúc tiến một số dự
án của nước ngoài về đào tạo, về trợ giúp một số trường trọng điểm. Có kế hoạch
liên kết đào tạo giữa trường trong nước và trường nước ngoài. Tăng cường đưa đi
đào tạo đại học và sau đại học ở nước ngoài với số lượng thoả đáng.
Rất chú ý loại hình đào tạo lại ở mọi cấp từ công nhân kĩ thuật đến đại học, nhằm
bổ túc cập nhật kiến thức, tiếp cận công nghệ mới, nhằm đạt tiêu chuẩn chức danh
qui định.
2.4.5 Nâng cao năng lực đội ngũ giáo viên
Hết sức coi trọng việc đào tạo giáo viên, nâng cao số lượng và trình độ của giáo
viên. Đội ngũ giảng viên đại học phải được nâng lên về số lượng đạt mức 10-15

sinh viên/thày, trình độ giảng viên có trình độ thạc sĩ là 40%, có trình độ tiến sĩ là
25%, theo quy hoạch chung của ngành giáo dục Việt Nam đã được Chính phủ phê
duyệt. Trong ngành xây dựng, tạo được một đội ngũ giảng viên và chuyên gia đầu
đàn thuộc các lĩnh vực, có trình độ tương đương với các nước trong khu vực, để
chỉ đạo xây dựng các bộ môn, đề xuất và giải quyết các vấn đề kĩ thuật – kinh tế
nảy sinh trong thực tiễn phát triển của ngành. Đội ngũ giảng viên cao đẳng phải
đạt mức 100% có trình độ đại học trở lên.
Đội ngũ giáo viên dạy nghề phải được tăng để đạt tỉ lệ một giáo viên cho 15 học
sinh. Mở gấp một số cơ sở đào tạo giáo viên dạy nghề. Giáo viên dạy nghề được
từng bước chuẩn hoá, được thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, hàng năm được đi thực tế gắn liền với sản xuất để tiếp
cận với công nghệ kĩ thuật mới. Giáo viên dạy nghề phải được nhanh chóng đào
tạo lại để có thể dạy theo môđun là xu hướng sẽ được áp dụng phổ biến. Chuẩn bị
đội ngũ giáo viên để đáp ứng yêu cầu dạy nghề bậc cao. Có chính sách khuyến
khích và bồi dưỡng các công nhân tay nghề cao về làm công tác đào tạo ở các
trường.
2.4.6 Hoàn thiện cơ sở vật chất, nội dung chương trình và phương pháp đào
tạo
20
Các trường nghề cần được chuẩn hoá về thiết kế trường sở, trang thiết bị, được
đầu tư trường sở và trang bị để có được bộ mặt mới, khang trang, hiện đại. Hoàn
chỉnh các danh mục trang thiết bị cho các xưởng chuẩn để làm cơ sở kế hoạch đầu
tư và từng bước hoàn chỉnh đồng bộ theo yêu cầu của từng nghề. Một số trường
trọng điểm được đầu tư xây dựng mới hoặc cải tạo nâng cấp để có cơ sở vật chất
bằng các trường tiên tiến của các nước trong khu vực và quốc tế.
Tại các trường nghề, đổi mới và mở rộng phương pháp đào tạo theo môđun nhằm
phục vụ linh hoạt các loại nhu cầu. Mở rộng hình thức đào tạo để cấp chứng chỉ
theo môđun, tiến tới quốc tế hoá quy trình đào tạo theo hệ thống chứng chỉ. Xây
dựng lại chương trình đào tạo đảm bảo tăng thời lượng thực hành thực tập so với
dạy lí thuyết là 3/1. Chương trình môn học, sách giáo khoa được cải tiến theo

hướng gắn với sản xuất hơn nữa, và theo hướng đảm bảo liên thông giữa các cấp
học. Các bài giảng phải được hỗ trợ bằng ma ket, các phương tiện truyền thông
hiện đại, công cụ đa phương tiện multimedia. Phấn đấu để sau giai đoạn này,
chứng chỉ đào tạo tay nghề được quốc tế công nhận.
Các trường đại học và cao đẳng được đầu tư từng bước để củng cố, đổi mới và
hiện đại hoá cơ sở hạ tầng. Phấn đấu hoàn thành các phòng thí nghiệm cơ bản và
kĩ thuật cơ sở và một số phòng thí nghiệm chuyên ngành mũi nhọn phục vụ đào
tạo và nghiên cứu khoa học có trang thiết bị tương đối hiện đại. Xây dựng thư viện
trường học hoàn chỉnh, đặc biệt hệ thống thư viện điện tử kết nối các trường đại
học rồi đến các trường cao đẳng trong ngành.
Phương pháp đào tạo đại học, sau đại học và chương trình học, nội dung môn học,
sách giáo khoa được đổi mới cơ bản theo hướng giảm bớt khối lượng, phát huy
tính chủ động, tự nghiên cứu của người học. Đẩy mạnh việc sử dụng công nghệ
thông tin để đổi mới phương pháp dạy và học, chương trình và nội dung môn học,
quản lí công tác đào tạo. Đầu tư để sử dụng và biên soạn các phần mềm giảng dạy,
đặc biệt trong lĩnh vực kiến trúc, sử dụng các công cụ đa phương tiện.
Mọi chương trình cấp học từ công nhân đến đại học đều được thiết kế mang tính
liên thông theo quy định chung của ngành giáo dục, để cho người học xong cấp
này có thể học tiếp lên cấp trên với thời gian ít hơn so với thời gian chung của cấp
học đối với người chưa qua đào tạo. Cũng cần thiết kế chương trình các ngành học
để thực hiện liên thông giữa các nhóm ngành.
2.4.7 Các mô hình đào tạo nguồn nhân lực ngành xây dựng dân dụng và
công nghiệp
2.4.7.1 Mô hình đào tạo công nhân.
Công nhân được đào tạo theo 4 bậc
- Công nhân : đào tạo một chuyên môn hẹp, thời gian 3 đến 6 tháng, cấp chứng
chỉ nghề.
- Công nhân kĩ thuật : đào tạo nghề theo chương trình chính quy, từ 12 đến 24
tháng, cấp bằng CNKT chính quy.
21

- Công nhân lành nghề : đào tạo từ CNKT đã qua sản xuất theo một nghề
chuyên sâu, 12 tháng, cấp bằng .
- Công nhân bậc cao : đào tạo từ công nhân lành nghề đã qua sản xuất, được bổ
sung kiến thức chuyên môn và quản lí, ngoại ngữ, 24 tháng, cấp bằng.
CN thuộc 3 bậc đào tạo chính quy sau, được bổ túc văn hoá đến trình độ quy định,
có thể liên thông học tiếp cao đẳng hoặc đại học.
2.4.7.2 Mô hình đào tạo trung học
Việc đào tạo để trở thành kĩ thuật viên trung học được thiết kế theo hai nguồn
tuyển sinh : học sinh tôt nghiệp THCS, công nhân có trình độ THCS theo chương
trình đào tạo 3 năm ; học sinh hoặc công nhân có trình độ PTTH theo chương
trình 2 năm. Duy trì việc đào tạo trung học cho một số ngành nghề thích hợp như
thí nghiệm viên, nhân viên kế toán, hoạ viên CAD với nguồn học sinh là trình độ
THCS.
2.4.7.3 Mô hình đào tạo cao đẳng
Học sinh tốt nghiệp PTTH, các công nhân tốt nghiệp Trung học bổ túc văn hoá,
được đào tạo sau 3 năm trở thành kĩ thuật viên cao đẳng, có năng lực điều hành thi
công, giám sát công trình, tham gia thiết kế, cộng tác với các kĩ sư xây dựng. Kĩ
thuật viên cao đẳng có thể học tiếp theo chương trình liên thông để thành kĩ sư,
kiến trúc sư
2.4.7.4 Mô hình đào tạo đại học
Duy trì mô hình đào tạo 5 năm để cấp bằng kĩ sư hoặc kiến trúc sư. Nghiên cứu và
phát triển hình thức đào tạo kỹ sư công nghệ loại 4 năm do Bộ Giáo dục Đào tạo
mới đề xướng. Các người này được phép hành nghề thiết kế hoặc thi công xây
dựng ngay sau khi ra trường, nhưng nhà nước sẽ có những chế định về việc đào
tạo lại và bổ túc kiến thức cho những kĩ sư hành nghề. Tiếp tục mở rộng các hình
thức đào tạo không tập trung cho những kĩ sư muốn thêm bằng thứ hai, cho kĩ
thuật viên cao đẳng. Mở thêm các lớp theo từng chuyên đề cho những người có
yêu cầu tự đào tạo.Tiếp tục phát triển hình thức đào tạo đại học tại chức nhưng chỉ
dành cho những người đang công tác trong ngành xây dựng, các công nhân kĩ
thuật có đủ tiêu chuẩn văn hoá. Tăng cường đưa đi đào tạo đại học ở nước ngoài

với số lượng thoả đáng.
2.4.7.5 Mô hình đào tạo sau đại học
Đào tạo Thạc sĩ kĩ thuật các ngành về xây dựng và đô thị, Thạc sĩ các ngành kiến
trúc và quy hoạch theo 2 dạng : dạng nghiên cứu dành cho cán bộ nghiên cứu và
dạng thực hành dành cho cán bộ quản lí và sản xuất. Đào tạo Tiến sĩ theo các
ngành tương ứng, chủ yếu cho các trường và viện nghiên cứu .
2.4.7.6 Việc đào tạo lại và bồi dưỡng nâng cao
Việc đào tạo lại được thực hiện ở mọi cấp từ công nhân kĩ thuật đến đại học. Các
trường đào tạo có kế hoạch thu nhận các học viên đã ra trường quay lại bổ túc, cập
22
nhật kiến thức, học hỏi kĩ thuật mới. Thời gian đào tạo lại từ 4 đến 6 tháng, theo
chu kì 5 năm và theo hình thức bán phần thời gian. Các doanh nghiệp có trách
nhiệm cử nhân viên của mình đi đào tạo lại và đóng góp kinh phí. Phấn đấu để số
người được đào tạo lại chiếm 1/3 số học viên đã ra trường.
Đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn, cập nhật kiến thức, tiếp cận công nghệ
mới cho những cán bộ kĩ thuật và quản lí tại các doanh nghiệp thi công xây lắp và
sản xuất vật liệu xây dựng. Đào tạo theo hướng nâng bậc kĩ sư và kiến trúc sư, đào
tạo theo chứng chỉ để đạt tiêu chuẩn chức danh. Mỗi cán bộ đều phải qua các lớp
đào tạo lại theo quy định trước khi được nâng bậc. Thực hiện việc đào tạo kĩ sư
bậc cao, kĩ sư trưởng cho các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất.
Đào tạo thường xuyên cán bộ-công chức quản lí nhà nước các cấp của ngành xây
dựng với đối tượng là những cán bộ công chức thuộc sự quản lí của ngành đang
làm việc, theo hình thức đào tạo lại, nâng cao cập nhật kiến thức chuyên môn và
nghiệp vụ cũng như nâng cao trình độ lí luận chính trị để đạt được theo tiêu chuẩn
chức danh đã định.
Các trường đại học kết hợp với các viện nghiên cứu và các tổng công ty lớn và
chuyên gia nước ngoài, có chương trình riêng để đào tạo các kĩ sư và kiến trúc sư
làm công tác tư vấn cho các dự án sử dụng công nghệ mới, công trình phức tạp.
Thành lập một trung tâm chuyên công tác đặc thù là đào tạo và bồi dưỡng những
nhà doanh nghiệp theo hình thức chủ yếu là ngắn hạn và tại chức, nhằm trang bị

những kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm cho hoạt động kinh doanh.
2.5 Tầm nhìn đến năm 2020
Trên thế giới, sự xuất hiện của nền kinh tế trí thức tạo ra bước phát triển nhảy vọt
của lực lượng sản xuất. Trí thức trở thành yếu tố quyết định của lực lượng sản
xuất, là nguồn lực hàng đầu tạo nên sự tăng trưởng sản xuất. Xu thế toàn cầu hoá
kinh tế đòi hỏi sự phát triển nguồn nhân lực có trình độ trí tuệ và tay nghề cao
Đối với nước ta, sự xuất hiện của kinh tế trí thức là cơ hội để nước ta tận dụng để
đuổi kịp các nước tiên tiến. Trong chiến lược phát triển, đầu tư phát triển nguồn
lực con người là quan trọng nhất, trở thành yếu tố quyết định sự phát triển, là tiền
đề để rút ngắn khoảng thời gian tiến hành công nghiệp hoa, hiện đại hoá. Mục
tiêu tăng trưởng kinh tế của nước ta đến năm 2020 là cơ bản trở thành một nước
công nghiệp, GDP tăng 7,2%/năm. Dân số nước ta đến năm 2020 sẽ khoảng 98
triệu người, số người trong độ tuổi LĐ khoảng 50 triệu, mỗi năm cần tạo ra trên
1,5 triệu việc làm. Tình hình đó đặt ra nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực là
nhiệm vụ hàng đầu và là khâu đột phá của chiến lược phát triển kinh tế xã hội
trong giai đoạn này.
Khoa học công nghệ xây dựng được hiện đại hoá, làm đòn bảy cho ngành Xây
dựng phát triển. Về khảo sát, thiết kế, tư vấn, có khả năng đảm nhận các công
trình đặc biệt đạt trình độ quốc tế. Về thi công, có khả năng thực hiện được công
trình và tổ hợp công trình phức tạp có công nghệ cao, đòi hỏi trang thiết bị hiện
23
đại. Về vật liệu xây dựng, sản xuất ngang trình độ tiên tiến thế giới, có thể xuất
khẩu và cạnh tranh trên thương trường. Tin học hoá trong toàn ngành cùng với
việc hình thành và phát triển công nghệ phần mềm, sản xuất được phần mềm phục
vụ các lĩnh vực xây dựng đạt mức xuất khẩu. Tự động hoá trong công việc khảo
sát, thiết kế, sản xuất vật liệu xây dựng, và trong một số công tác thi công xây lắp.
Đào tạo đội ngũ kĩ sư và công nhân kĩ thuật đảm nhận được việc thực hiện các
công trình xây dựng lớn, phức tạp để chiếm lĩnh được thị trường Việt Nam. Về
trình độ công nghệ và chất lượng xây dựng, đạt mục tiêu ngang tầm các nước tiên
tiến trong khu vực (Hàn Quốc, Singapo), có khả năng xuất khẩu sang các nước lân

cận (Thái Lan, Trung Quốc, ).
Đào tạo đội ngũ chuyên gia giỏi, đồng bộ, đảm bảo được các khâu từ lập dự án,
khảo sát, thiết kế được các công trình có độ phức tạp, có yêu cầu đặc biệt, đảm bảo
thực hiện việc quản lí giám sát kiểm định chất lượng kĩ thuật đạt trình độ khu vực
và quốc tế.
Xây dựng một đội ngũ chuyên gia hàng đầu về nghiên cứu, giảng dạy trong mọi
lĩnh vực xây dựng và các lĩnh vực công nghệ mũi nhọn như môi trường, tin học,
vật liệu mới, kiến trúc nhiệt đới để giải quyết các vấn đề đặt ra trong thực tiễn xây
dựng trong nước và tại các nước được xuất khẩu chuyên gia.
2.6 Các hướng ưu tiên
Trên cơ sở đánh giá hiện trạng, dự báo tình hình ngành xây dựng trong 10 năm và
20 năm tới, nội dung chiến lược phát triển nguồn nhân lực, sẽ chọn ra một số
hướng ưu tiên cần đạt được sớm trong giai đoạn đầu và cần được tập trung nỗ lực
giải quyết cho được. Đó là :
2.6.1 Xây dựng đội ngũ giáo viên tại các cấp học
Đội ngũ giáo viên là máy cái quyết định chất lượng đào tạo nên cần thiêt trước hết
là phải có kế hoạch và biện pháp tăng số lượng và chất lượng giáo viên, khuyến
khích người có tay nghề cao về trường giảng dạy, tạo mọi điều kiện thuận lợi để
người thày được nâng cao trình độ chuyên môn, sư phạm, gắn với thực tế sản xuất,
tiếp thu được lí thuyết và công nghệ mới. Tập hợp và đào tạo được đội ngũ các
thày đầu đàn làm nòng cốt xây dựng bộ môn thành hạt nhân của cơ sở đào tạo.
2.6.2 Xây dựng cơ sở vật chất và phát triển đào tạo nghề.
Việc cấp bách nhất là phải thay đổi được một cách cơ bản tình hình đào tạo nghề
thuộc ngành xây dựng trong cả nước, tạo được bộ mặt mới cho sự nghiệp đào tạo
nghề. Gấp rút mở thêm một số trường, gấp rút đầu tư chiều sâu cho cơ cở vật chất
và trang thiết bị một số trường đã có. Ap dụng việc phân cấp học và cơ cấu ngành
nghề thích hợp. Chấm dứt việc công nhận bậc thợ không trải qua đào tạo. Nâng
cao rõ rệt trình độ, tay nghề của thợ đào tạo ra, lấy lại sự tín nhiệm của thị trường
trong nước, tiến tới vươn ra nước ngoài.
24

2.6.3 Đào tạo lại các cán bộ kĩ thuật của các doanh nghiệp
Tổ chức nhiều lớp ngắn hạn để nâng cao trình độ, cập nhật kiến thức cho các kĩ sư,
kĩ thuật viên đang làm việc tại các công ti xây lắp, công ti sản xuất vật liệu xây
dựng, công ti cơ khí, v.v. để đảm đương tốt hơn công việc, tiếp cận công nghệ
mới. Thực hiện việc bắt buộc có những chứng chỉ quy định khi chuyển ngạch hoặc
nâng bậc.
2.6.4 Đào tạo nhanh nhiều cán bộ tư vấn làm chủ được công nghệ mới.
Đào tạo bằng nhiều hình thức để có được đội ngũ cán bộ tư vấn có thể đảm nhận
thiết kế, lập dự án các công trình phức tạp, giảm dần việc phải nhờ chuyên gia
nước ngoài trong công tác tư vấn, thiết kế.
2.6.5 Xây dựng được đội ngũ cán bộ đầu đàn trong các lĩnh vực xây dựng
Bằng nhiều cách, tập hợp và đào tạo để xây dựng một đội ngũ các chuyên gia hàng
đầu về nghiên cứu các lĩnh vực xây dựng, đặc biệt lĩnh vực mới như môi trường,
đô thị, có năng lực đề xuất và giải quyết được các vấn đề của thực tiễn xây dựng.
Nhanh chóng khắc phục được tình trạng hẫng hụt cán bộ giỏi
2.6.6 Bồi dưỡng nhanh các cán bộ công chức đang đương chức về chuyên môn và
nghiệp vụ
Nhanh chóng xây dựng các tiêu chuẩn chức danh của cán bộ công chức và doanh
nghiệp ngành xây dựng , bồi dưỡng và đào tạo lại công chức theo tiêu chuẩn chức
danh tương ứng về chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, lí luận chính trị. Rà soát lại
các văn bản pháp quy về quản lí nhà nước và quản lí sản xuất.
2.6.7 Nhấn mạnh vào công tác Tiêu chuẩn Xây dựng để đưa vào giáo dục trong
các trường , lấy đó làm cơ sở tăng cường quản lý chất lượng xây dựng thông qua
đào tạo.
25

×