Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Môi trường đầu tư ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (380.98 KB, 64 trang )

Đề án môn học GVHD: Th.s Nguyễn Ái
Liên
Giải thích các từ viết tắt trong bài
ĐTNN: Đầu tư nước ngoài.
DNNN: Doanh nghiệp nhà nước.
KCN, KCX: Khu công ngiệp, Khu chế xuất.
CNH-HĐH: Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá.
Đề án môn học GVHD: Th.s Nguyễn Ái
Liên
LỜI MỞ ĐẦU
Đối với tất cả các nước trên thế giới đang tiến hành CNH-HĐH, huy
động vốn luôn là một trong những vấn đề cốt yếu có vai trò cực kì quan trọng.
Huy động vốn cho đầu tư là lời giải cho bài toán tăng trưởng. Trong bất kì mô
thức tăng trưởng nào vốn đầu tư vẫn là một trong những đầu vào then chốt bên
cạnh lao động, đất đai và công nghệ. Việt Nam cũng là một trong các nước đó.
Mặc dù tăng trưởng vẫn xuất phát từ nội lực nhưng các nguồn tài chính
nước ngoài cũng đóng góp không nhỏ cho tăng trưởng ở các nước đang phát
triển trong thời kì đầu cất cánh. Nhận thức rõ điều đó, Đảng ta trong quá trình
CNH-HĐH luôn có chủ trương: Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ
nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh
có hiệu quả và bền vững. Để tăng trưởng nhanh và bền vững sớm đưa đất nước
ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển đòi hỏi tổng vốn đầu tư của toàn xã hội
trong thời kì kế hoạch 5 năm (2006-2010) phải đạt được trên 2.200.000 tỷ
đồng ( tương đương 139,4 tỉ đô la theo giá hiện hành ) bằng khoảng 40% GDP.
Đó là nhiệm vụ hết sức nặng nề, khó khăn, phức tạp. Muốn thực hiện thành
công nhiệm vụ trên đòi hỏi phải có những giải pháp thu hút vốn cả trong và
ngoài nước. Các nhà đầu tư trên thế giới cũng như trong nước đều đứng trước
việc quyết định là nên đầu tư ở đâu cho đồng vốn của họ sinh lời, cho dù đó là
vốn ODA hay là FDI hay là các nguồn vốn nước ngoài màng tính thương mại
khác. Kinh nghiệm thu hút các nguồn tài chính nước ngoài chỉ ra rằng: Quyết
định của các nhà đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào môi trường đầu tư tại các quốc


gia mà họ hướng đến. Điều đó có nghĩa là họ sẽ đặt lên bàn hội nghị những
thông tin về môi trường đầu tư giữa các nước khác nhau, sau đó lựa chọn một
môi trường đầu tư của một nước có tính cạnh tranh nhất. Vì vậy, các nước
đang phát triển, đặc biệt là Việt Nam, nơi thường xuyên nói quá nhiều về “
giải pháp “ thì giải pháp của mọi giải pháp trong việc thu hút tài chính vẫn là
nỗ lực tạo môi trường đầu tư cạnh tranh nhằm tạo ra một nền kinh tế cạnh
Đề án môn học GVHD: Th.s Nguyễn Ái
Liên
tranh trong việc thu hút các nguồn lực quyết định tăng trưởng và xoá đói giảm
nghèo. Để thực hiện được kế hoạch 5 năm (2006-2010) và phát triển kinh tế
bền vững thì cần thiết phải nghiên cứu về môi trường đầu tư của Việt Nam,
thực trạng của nó. Cũng như muốn chữa bệnh thì cần phải khám bệnh, thấy
được tình trạng bệnh tật, từ đó để đưa ra được phương thuốc chữa bệnh-giải
pháp hoàn thiện môi trường đầu tư Việt Nam. Em thấy đề tài
“Môi trường đầu tư ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện”là
một đề tài hay và cần được đưa ra để thảo luận nhằm đáp ứng yêu cầu trên.
Nội dung bài viết của em gồm 3 phần:
Phần I : Lý luận chung về môi trường đầu tư , phần này giúp tìm hiểu
một cách khái quát nhất về môi trường đầu tư .
Phần II : Thực trạng môi trường đầu tư ở Việt Nam, phần này giúp
đánh giá một cách chung nhất tình hình đầu tư ở Việt Nam, những thành tựu
đã đạt được và những bất cập của môi trường đầu tư ở Việt Nam.
Phần III : Giải pháp hoàn thiện môi trường đầu tư ở Việt Nam , phần
này đề ra những giải pháp nhằm cải thiện môi trường đầu tư Việt Nam để tạo
ra một môi trường đầu tư tốt hơn cho tất cả mọi người.
Bài viết của em dựa trên việc tiếp thu có chọn lọc ở nhiều tài liệu viết về
môi trường đầu tư nên nội dung vừa mang tính hiện đại vừa mang tính bất cập.
Tuy vậy nhiều vấn đề trong bài viết có thể còn khiếm khuyết và chưa được
giải quyết thoả đáng, hay có thể vẫn còn thiếu. Với tinh thần cầu thị, em xin
chân thành cảm ơn sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để bài viết của

em được hoàn thiện hơn.
Đề án môn học GVHD: Th.s Nguyễn Ái
Liên
Đề án môn học GVHD: Th.s Nguyễn Ái
Liên
NỘI DUNG
PHẦN I : LÝ LUẬN CHUNG VỀ MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ
I. Khái niệm về môi trường đầu tư .
Đầu tư là hoạt bỏ vốn ngày hôm nay để thu lại lợi Ých trong tương lai .
Trong quá trình đó môi trường đầu tư đóng vai trò như một chất xúc ban đầu
cho việc lựa chọn quyết định bỏ vốn của nhà đầu tư, vì vậy môi trường đầu tư
có vị trí vô cùng quan trọng trong việc thu hút vốn. Vậy chúng ta cần hiểu môi
trường đầu tư là gì ?
Theo nghĩa chung nhất môi trường đầu tư là tổng hoà các yếu tố bên
ngoài liên quan đến hoạt động đầu tư.
Theo World Bank 2004, môi trường đầu tư là tập hợp những yếu tố đặc
thù địa phương đang định hình cho các cơ hội và động lực để doanh nghiệp
đầu tư có hiệu quả tạo, tạo việc làm và mở rộng sản xuất. Tập hợp những yếu
tố đặc thù này bao gồm 2 thành phần chính sách của Chính phủ và các yếu tố
khác liên quan đến quy mô thị trường và ưu thế địa lý. Hai thành phần này tác
động đến ba khía cạnh liên quan đến nhà đầu tư :
- Chi phí cơ hội (Opportunity Costs) của vốn đầu tư .
- Mức độ rủi ro ( Investment Risks) trong đầu tư.
- Những rào cản về cạnh tranh ( Barriers to Competion) trong quá trình đầu

Dựa vào việc cân nhắc ba khía cạnh này nhà đầu tư sẽ xác định những
cơ hội và những động lực đầu tư đến một quốc gia hay một địa phương nào đó.
II. Phân loại môi trường đầu tư.
1. Bảng các yếu tố trong môi trường đầu tư :
Luật pháp

• Thuế
• Luật sở hữu
• Thực tiễn thuê mua
Tài chính
• Chuyển vốn
• Tiếp cận tài chính
• Chi phí đầu tư
Đề án môn học GVHD: Th.s Nguyễn Ái
Liên
• Cơ sở pháp lý
• Ưu đãi đầu tư
• Bảo vệ các sở hữu trí tuệ
• Rủi ro tiền tệ
• Đánh giá tín dụng
Thực tiễn thương mại
• Vai trò và ảnh hưởng của các
ngân hàng lớn
• Vai trò và ảnh hưởng cuả các
công ty lớn
• Văn hoá kinh doanh
• Quan điểm về lợi nhuận
• Các quan hệ ưu tiên
• Các kênh phân phối
Văn hoá
• Cư xử
• Tôn giáo
• Thực tiễn lao động
• Quan điểm với người nước ngoài
• Hiệu quả của việc chọn địa điểm
và các thủ tục giải phóng mặt

bằng của chính phủ địa phương
Cơ sở hạ tầng và lao động
• Tiếp cận cơ sở hạ tầng nh điện,
nước, ga, thiết bị truyền thông, và
các dịch vụ cơ bản khác
• Tiếp cận chi phí lao động
Các yếu tố khác
• An ninh, chính trị, kinh tế
• Hậu cần, khoảng cách
• Thị trường, khả năng sinh lợi
• Sức hấp dẫn vốn các nhà đầu tư,
chất lượng cuộc sống
Vị trí
• Khoảng cách đến cảng, sân bay,
khu vực thành thị từ vị trí hiện tại
Đặc điểm địa lí
• Điều kiện đất đai và cao nguyên,
sử dụng đất
2. Phân loại môi trường đầu tư .
Có nhiều cách phân loại môi trường đầu tư, song theo nhiều nhà kinh tế,
môi trường đầu tư có thể chia ra môi trường cứng và môi trường mềm.
+ Môi trường cứng liên quan tới các yếu tố thuộc cơ sở hạ tầng kĩ thuật
phục vụ cho sự phát triển kinh tế, gồm: Hệ thống cở sở hạ tầng giao
thông( đường sá, cầu, cảng hàng không, cảng biển…), hệ thống thông tin liên
lạc, năng lượng…
Đề án môn học GVHD: Th.s Nguyễn Ái
Liên
+ Môi trường mềm bao gồm: Hệ thống các dịch vụ hành chính, dịch vụ
pháp lí có liên quan đến hoạt động đầu tư( đặc biệt các vấn liên quan đến chế
độ đối xử và giải quyết các tranh chấp, khiếu nại); hệ thống các dịch vụ tài

chính- ngan hàng, kế toán và kiểm toán…
Ngoài ra, ta còn có thể có cách phân loại như môi trường đầu tư như
sau:
+ Môi trường chính trị, xã hội.
+ Môi trường kinh tế vĩ mô.
+ Môi trường pháp lý-hành chính.
+ Môi trường tự nhiên.
+ Môi trường kinh doanh.
+ Môi trường quốc tế.
+ Môi trường lao động
III . Môi trường đầu tư tốt là gì?
Mọi hoạt động đầu tư suy cho cùng là để thu lợi nhuận, vì thế môi
trường đầu tư hấp dẫn phải là một môi trường có hướng đầu tư cao, mức độ rủi
ro thấp.
Một môi trường đầu tư tốt không chỉ tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp-
Nếu mục tiêu chỉ có vậy thì có thể thu hẹp trọng tâm vào việc giảm thiểu chi
phí và rủi ro. Trái lại, nó là sự cải thiện các kết cục cho xã hội. Nhiều chi phí
và rủi ro do doanh nghiệp gánh chịu một cách hợp lí. Hạ thấp các rào cản cạnh
tranh để mở rộng cơ hội, khuyến khích sáng tạo, và đảm bảo rằng lợi Ých của
việc nâng cao năng suất được chia sẻ với người lao động và người tiêu dùng.
Môi trường đầu tư tốt là môi trường có lợi cho tất cả mọi người, xét theo
hai phương diện. Thứ nhất, nó phục vụ toàn thể xã hội, chứ không chỉ các
doanh nghiệp, kể cả thông qua tác động của nó đến tạo việc làm, giảm giá và
mở rộng cơ sở thuế. Thứ hai, nó dính dáng đến tất cả các doanh nghiệp, chứ
không chỉ các doanh nghiệp lớn hoặc có ảnh hưởng.
Đề án môn học GVHD: Th.s Nguyễn Ái
Liên
Một môi trường đầu tư tốt là môi trường đầu tư không chỉ tốt cho nhà
đầu tư nước ngoài, mà còn tốt cho cả nhà đầu tư trong nước, tốt cho cả một
cộng đồng. Có nghĩa là nếu có một môi trường đầu tư tốt cho tất cả mọi người

thì phải tạo ra một kịch bản thắng cuộc từ nhiều phái khác nhau(Win -Win
Scenario).
Vai trò của một môi trường đầu tư : sẽ thúc đẩy đầu tư tư nhân có hiệu
quả, động lực cho tăng trưởng và giảm nghèo. Nó tạo ra cơ hội và việc làm
cho người dân. Nó mở rộng việc cung cấp chủng loại hàng hoá, dịch vụ và
giảm giá thành của chúng, vì lợi Ých người tiêu dùng. Nó củng cố thêm nguồn
thu thuế bền vững để trang trải cho các mục tiêu xã hội khác. Và nhiều tính
chất của môi trường đầu tư tốt -bao gồm cơ sở hạ tầng hiệu quả, toà án và thị
trường tài chính - đã trực tiếp nâng cao đời sống con người, bất kể họ có làm
việc hay tham gia vào các hoạt động kinh doanh hay không?
IV. Bốn thách thức thực tế đối với việc cải thiện môi trường đầu tư .
Một môi trường đầu tư có thể tăng cường các cơ hội và động lực để tất
cả các loại hình doanh nghiệp đầu tư có hiệu quả, tạo việc làm và mở rộng
hoạt động là vấn đề mấu chốt để giải phóng sức tăng trưởng và xóa đói giảm
nghèo. Nhưng nếu môi trường đầu tư lành mạnh và có lợi thế đến thế thì tại
sao vẫn có những phiên bản rất đa dạng về môi trường đầu tư giữa các nước và
trong cùng một nước.
Vai trò của Chính phủ trong việc định hình môi trường đầu tư từ lâu đã
lí giải bằng các dạng thất bại của thị trường hoặc bằng việc không tạo ra được
các điều kiện tự do kinh doanh để đạt được những kết cục xã hội hiệu quả. Đó
là những luận cứ kinh điển cho hầu hết sự can thiệp của Chính phủ vào nền
kinh tế - để cung cấp hàng hoá công cộng như luật pháp và tài trợ; hỗ trợ việc
cung cấp cơ sở hạ tầng và điều tiết các doanh nghiệp và các giao dịch nhằm
khắc phục vấn đề thông tin không đối xứng, ngoại ứng và quyền lực độc
quyền. Nhưng Chính phủ thường thất bại trong việc giảm thiểu các khuyết tật
của thị trường và thường xuyên can thiệp theo cách làm cho vấn đề càng thêm
xấu đi. Tại sao vậy?
Đề án môn học GVHD: Th.s Nguyễn Ái
Liên
Một thực tế đó là không tạo dựng được môi trường đầu tư lành mạnh

không đơn thuần do thiếu tiền. Nhưng sự cải thiện môi trường đầu tư đòi hỏi
rất Ýt ở Ngân sách nhà nước và sự tăng trưởng mà các cuộc cải cách giải
phóng lẽ ra có thể đóng góp rất lớn vào người thu thuế. Trên thực tế, sự giàu
có về dầu lửa và các khoáng sản khác lại thường gắn với môi trường đầu tư
xấu hơn chứ không tốt hơn.
Môi trường đầu tư yếu kém cũng không phải đơn giản do thiếu kiến thức
chuyên môn về kĩ thuật. Mặc dù việc thiết kế một số cuộc cải cách cần kiến
thức chuyên môn của các chuyên gia nhưng quản lý nhà nước đối với các
chính sách đã định hình đòi hỏi chuyên môn Ýt hơn nhiều.
Tiến bộ chậm chạp trong việc cải thiện môi trường đầu tư được giải
thích rõ ràng hơn bằng những thách thức nảy sinh khi Chính phủ đứng trước
một sự giằng co căn bản:
+ Doanh nghiệp - những người sáng tạo chủ yếu ra của cải và môi
trường đầu tư tốt phải đáp ứng yêu cầu của họ.
+ Nhưng một môi trường đầu tư tốt lại phục vụ cho cả xã hội nói chung
chứ không chỉ doanh nghiệp và sự lựa chọn của hai đối tượng này có thể
không nhất trí với nhau.
Cũng còn sự khác biệt nữa trong việc lựa chọn chính sách và các vấn đề
ưu tiên giữa các doanh nghiệp. Đối phó với sự giằng co này sẽ gây ra bốn
thách thức thực tế và cách Chính phủ xử lý những kiến thức này sẽ tác động
lớn đến môi trường đầu tư, từ đó lại ảnh hưởng đến tăng trưởng và đói nghèo.
Bốn thách thức đó là:
-Thách thức đầu tiên là kiềm chế tham nhũng và trục lợi. Tham nhũng,
bản thân nó là một hiên tượng của khu vực công. Các bằng chứng cho thấy,
nước nào thiên về sử dụng sự can thiệp của Chính phủ vào các điều tiết kinh
doanh, nước đó có xu hướng tham nhũng nặng nề hơn. Biện pháp giải quyết
vấn đề này là thúc đẩy cạnh tranh bất cứ khi nào có thể và xoá bỏ can thiệp của
Chính phủ khi không có được những luận cứ, chính sách thuyết phục.
Đề án môn học GVHD: Th.s Nguyễn Ái
Liên

- Thách thức thứ hai là điều tra từ doanh nghiệp ở các nước đang phát
triển cho thấy sự không ổn định chính sách là một trong những mối quan ngại
lớn của họ về những trở ngại về môi trường đầu tư. Tất cả Chính phủ đều phải
đứng trước thử thách rằng, cam kết của ngày hôm nay sẽ đựơc tiến hành trong
tương lai.
- Thách thức thứ ba là lòng tin của doanh nghiệp có thể tác động đến
tính bền vững của cải cách.
- Cuối cùng là cần phải có những đối sách phù hợp với tình hình từng
nước và từng địa phương. Nếu không điều chỉnh chính sách cho phù hợp với
thực tế địa phương mà cứ sao chép máy móc từ nước này sang nước nọ, từ tỉnh
này sang tỉnh kia thì có thể dẫn đến những kết quả cải cách nghèo nàn.
Tại sao ta cần phải vượt qua bốn thách thức thức trên?
Kiểm soát hành vi trục lợi không những có tác dụng làm giảm tổng chi
phí cơ hội đầu tư và làm rủi ro trong đầu tư mà còn tác động tích cực đến việc
nâng cao tính cạnh tranh trong môi trường đầu tư. Những hành vi trục lợi có
thể bao gồm tham nhòng, thao túng trong giao dịch do nắm quyền sở hữu
công, trục lợi do mối quan hệ thân quen gia đình trong bộ máy. Tham nhũng
bản thân của nó là một hiện tượng của khu vực công và đơn giản chỉ là lợi
dụng quyền lực để mưu lợi cá nhân. Tham nhũng lại có quan hệ đồng biến với
vị trí của chức vụ, và chỉ những viên chức Chính phủ ở vị trí cao mới có thể
hoạch định chính sách. Hệ quả chính sách này sẽ đi ngược lại với lợi Ých của
các nàh đầu tư vì chúng có cơ hội bị bóp méo và từ đó làm xói mòn niềm tin
mọi nguời. Tham nhũng sẽ tạo ra hệ quả cuối cùng là phải đối diện với pháp
luật nhưng thao túng trong giao dịch thì lại khó phát hiện. Con đường của thao
túng phát sinh do chủ nghĩa quen biết và hoạt động theo kiểu gia đình. Thao
túng được tiếp cận qua những hành vi vận động hành lang (lobby). Những thao
túng sẽ tiếp cận được những nhà làm chính sách và có khả năng tiếp cân được
nhiều thông tin hơn đối với việc chiếm đoạt các nguồn lực trong xã hội. Cạnh
tranh giữa các nhà đầu tư vì thế mà trở lên không bình đẳng.
Đề án môn học GVHD: Th.s Nguyễn Ái

Liên
Tạo ra độ tin cậy về sự ổn định chính sách của Chính phủ rất cần thiết
cho những định hướng đầu tư của các nhà đầu tư. Điều này bởi lẽ khi nhà đầu
tư ra quyết định sẽ không chỉ dựa vào những luật lệ và quy định hiện tại của
Chính phủ nước mình đầu tư, họ còn dự báo tính ổn định và nhất quán những
luật lệ và quy định này trong tương lai như thế nào. Sự không chắc chắn về
hành vi và chính sách của Chính phủ sẽ khiến cho các nhà ĐTNN trở lên nghi
ngờ vì bất cứ một dự án đầu nào cũng được mong đợi duy trì một cách ổn định
và hiệu quả trong suốt vòng đời dự án. Theo Caballero(1999) thì việc Chính
phủ nỗ lực giảm thiểu sự không chắc chắn của chính sách sẽ khuyến khích các
dòng vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) nhiều hơn là giảm lãi suất hiện hành.
Việc giảm lãi suất hiện hành chỉ làm giảm chi phí cơ hội của đầu tư nhưng
đồng thời cũng nâng cao tính kì vọng về lợi Ých của tương lai của dòng vốn
đầu tư, mà tương lai thì không mấy ai chắc chắn. LÝ do đó nếu không có một
sự đảm bảo sự nhất quán và ổn định của Chính phủ trong các quyết định chính
sách cho dù một nước giảm lãi suất thấp hơn các quốc gia khác nhưng nếu có
những bất định về chính sách thì cũng không thể huy động được dòng tài chính
nước ngoài.
Tạo ra niềm tin của toàn xã hội về năng lực quản lý của Chính phủ cũng
có tác động đến việc huy động vốn ĐTNN. Chính phủ có khả năng tác động
đến hai yếu tố tạo niềm tin của toàn xã hội. Trước hết tạo ra một môi trường
đầu tư tốt hơn nhưng không thiên lệch về một nhóm thiểu số nào, môi trường
này phải mang tính bình đẳng cho toàn xã hội, cho các thành phần kinh tế
trong và ngoài nước và tư nhân. Kế đến đảm bảo tính minh bạch giữa các nhà
đầu tư để có cơ sở giảm sự e ngại của các nhà đầu tư về hành vi tham nhũng và
trục lợi.Ví dụ về Nigeria, một nước dẫn đầu trong việc tăng cường tính minh
bạch trong các nguồn thu từ dầu khí và các nguyên tắc luật lệ áp dụng từ năm
2003, dựa vào đó Chính phủ Nigeria cũng khuyến khích được các công ty dầu
khí nước này công bố các khoản chi phí và các doanh thu cho các công ty kiểm
toán độc lập. Các ngành khai thác tài nguyên của các nước khác nh Achentina,

Brazin, Panarama,Peru cũng nâng cao tính minh bạch bằng các công bố các
Đề án môn học GVHD: Th.s Nguyễn Ái
Liên
hợp đồng của họ lên trang Web. Các nhà ĐTNN cũng như toàn xã hội sẽ đánh
giá tính minh bạch của Chính phủ thông qua cách thức quản lý ở các ngành
kinh tế khai thác tài nguyên như dầu khí và cơ sở hạ tầng như bưu chính viễn
thông, giao thông vận tải, điện nước và xăng dầu. Đây là những ngành kinh tế
nhạy cảm và có nhiều cơ hội tạo ra tính độc quyền trong khai thác, tạo ra
những rào cản cho một môi trường đầu tư cạnh tranh. Ngoài ra những kẽ hở
quản lý và chính sách từ phía Chính phủ đối với các ngành này sẽ tao điều
kiện cho việc tìm kiếm lợi Ých sai lệch (rent seeking), điều này cũng làm các
nhà đầu tư nản chí.
Xây dựng các thể chế công hiệu quả nhằm khắc phục các thất bại thị
trường cũng góp phần cải thiện môi trường đầu tư. Phân cấp trong thu hút đầu
tư và tăng cường năng lực điều hành của Chính phủ địa phương, xây dựng một
Chính phủ điện tử là ba cách tiếp cận để tạo ra các thể chế hiệu quả. Chính phủ
trung ương có thể thiết kế các chính sách tốt đẹp nhưng Chính phủ địa phương
sẽ lại là chủ thể thực hiện các chính sách này. Chính phủ địa phương lại gồm
nhiều thể chế khác nhauvà những khuyết điểm của từng thể chế có thể làm nản
lòng các nhà đầu tư. Năng lực của các thể chế địa phương bị giới hạn trong
quá trìnhtriển khai chính sách. Chính phủ trung ương có thể tạo ra những phân
cấp cho Chính phủ địa phươngtrong qua trình thu hút vốn đầu tư. Sự phân cấp
này tạo ra lợi Ých là Chính phủ địa phương dễ dàng tiếp cận nhanh chóng với
các nhà đầu tư. Nhưng cũng chính sự phân cấp này lại tạo ra mét chi phí lớn
đó là khả năng kiểm soát cân đối lợi Ých quốc gia sẽ bị yếu đi khi mà các địa
phương khuyến khích các nguồn đầu tư theo kiểu “ tâm lí bầy đàn”. Tăng
cường năng lực điều hành của Chính phủ địa phương sẽ góp phần nâng cao
chất lượng dịch vụ công cung cấp cho xã hội trong đó có nhà đầu tư nước
ngoài. Điều này càng trở lên quan trọng khi chóng ta bắt đầu chuyển hướng
thu hót FDI về giáo dục và nghiên cứu phát triển công nghệ thông tin. Nh vậy

một thể chế địa phương hiệu quả trước hết phải có những viên chức tác nghiệp
có kĩ năng, đảm bảo tính chuyên nghiệp và luôn đề cao tinh thần trách nhiệm
vì một quốc gia phát triển. Nh vậy các viên chức thuộc thể chế địa phương cần
Đề án môn học GVHD: Th.s Nguyễn Ái
Liên
phải được tuyển chọn công khai, cạnh tranh, minh bạch bằng các tiêu chuẩn cụ
thể. Khó có thể chấp nhận lâu dài một tình trạng tuyển dụng dựa vào cơ chế
thân quen và các lá thư tiến cử kiểu gia đình. Bởi vì điều này sẽ làm tăng nguy
cơ thất bại khi thực hiện các chính sách thu hút vốn đầu tư khi các viên chức
của địa phương thiếu tính chuyên nghiệp. Khi viên chức của thể chế địa
phương thiếu chuyên môn sẽ không đủ năng lực xử lí thông tin liên quan đến
các nhà đầu tư. Các viên chức yếu kém từ thể chế địa phương do được bảo
đảm bằng uy tín của các viên chức cao hơn vì mối quan hệ ràng buộc sẽ có khả
năng bóp méo các chính sách của Chính phủ trung ương nhằm trục lợi và thao
túng các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư cũng có ưu thế dựa vào sự nhũng nhiễu
này ngăn cản các nhà đầu tư khác.
Kì vọng vào Chính phủ điện tử cũng có cơ hội cải thiện môi trường đầu
tư thì Chính phủ này có khả năng cung cấp các dịch vụ công cho các nhà đầu
tư với chi phí thấp nhất và minh bạch nhất. Kì vọng này rất có cơ sở trong điều
kiện Việt Nam khi xét đến tiến bộ của công nghệ thông tin trong thời đại ngày
nay. Việt Nam đã được đánh giá rất cao về an toàn và ổn định vĩ mô do vậy
Chính phủ cũng như toàn xã hội hoàn toàn có điều kiện tiến hành những hiệu
chỉnh cần thiết về pháp luật, cách đánh thuế, hoàn thiện cơ sở hạ tầng, thị
trường tài chính và thị trường lao động. Đã có quá nhiều cuộc thảo luận về
kiểm soát các hành vi trục lợi, củng cố niềm tin của toàn xã hội và các nhà đầu
tư với năng lực điều hành của các cấp Chính phủ, xây dựng thể chế công hiệu
quả, kì vọng về Chính phủ điện tử…Tất cả các chủ đề này đang được chúng ta
nỗ lực thực hiện với mong đợi tạo ra một môi trường đầu tư cạnh tranh nhằm
thu hút mọi nguồn lực trong xã hội và các nguồn tài chính nước ngoài. Điểm
quan trọng ở đây là mọi nỗ lực nhiều phía đều chỉ đạt được kết quả tương đối

khi so sánh với các nước khác, vì vậy tạo môi trường cạnh tranh thu hút vốn
đầu tư là một cuộc đua của toàn xã hội mang tính dài hạn.
V. Hệ thống các chỉ số môi trường đầu tư
(Theo điều tra của các hãng của Ngân hàng thế giới)
Đề án môn học GVHD: Th.s Nguyễn Ái
Liên
1. Ràng buộc về tính bất ổn định của chính sách: đo lường tỷ lệ phần
trăm các nhà quản lí cao cấp xếp hạng tính bất ổn định của các chính sách kinh
tế và điều tiết là một ràng buộc then chốt hoặc nghiêm trọng. Sự diễn giải các
quy tắc, luật lệ khó có thể dự đoán là phần trăm các nhà quản lý cao cấp
không đồng ý rằng, việc diễn giải các quy tắc, luật lệ của các quan chức nhà
nước là dự đoán được.
Ví dô:
Sự bất định
về
chính sách
Nước
Trở ngại chính
(%)
Cách giải thích các quy
định không thể lường trước
(%)
Brazin 75.9 66.0
Trung Quốc 32.9 33.7
Inđônêxia 48.2 56.0
LB Nga 31.3 42.5
2. Ràng buộc về tham nhòng đo lường phần trăm các nhà quản lý cao
cấp xếp hạng tham nhũng là ràng buộc chính hoặc hết sức nghiêm trọng. Các
khoản hối lộ phải trả là tỷ trọng các nhà quản lý cao cấp cho rằng, các cơ sở
kinh doanh như đơn vị của họ đôi khi cũng được yêu cầu phải được tăng quà

hoặc những khoản thanh toán bất hợp pháp khác cho các quan chức nhà nước
để giải quyết được công việc, hoặc trả tiền để được miễn thanh tra, để lấy được
giấy phép hoặc bằng, để được hưởng các dịch vụ công, hoặc có được một hợp
đồng cau Chính phủ. Mức hối lộ trung bình phải trả là mức hối lộ trung bình
tính bằng phần trăm doanh thu của các hãng đó xác nhận rằng, các khoản hối
lộ được trả để công việc được giải quyết.
Ví dô:
Tham nhòng
Nước
Trở ngại chính
(%)
Tiết lộ có phải đưa
hối lộ
(%)
Mưc hối lộ trung
bình
(% doanh sè)
Brazin 67.2 51.0 …
Trung Quốc 27.3 55.0 2.6
Inđônêxia 14.2 69.2 3.8
Đề án môn học GVHD: Th.s Nguyễn Ái
Liên
LB Nga 39.9 45.2 1.8
3. Ràng buộc về toà án: đo lường tỷ trọng các nhà quản lý cao cấp xếp
hạng hệ thống giải quyết tranh chấp và toà án là một ràng buộc then chốt hoặc
rất nghiêm trọng. Thiếu lòng tin vào toà án trong việc duy trì các quyền sở
hữu tài sản là tỷ trọng nhà quản lý cao cấp không đồng ý với câu nói: " Tôi tin
rằng hệ thống toà án sẽ củng cố các quyền tài sản và hợp đồng của tôi trong
các tranh chấp kinh doanh".
Ví dô :

Toà án
Nước
Trở ngại chính
(%)
Không tin tưởng toà án sẽ
bảo vệ quyền về tài sản
(%)
Brazin 32.8 39.6
Trung Quốc 17.5
Inđônêxia 24.7 40.8
LB Nga 9.5 65.3
4. Ràng buộc về tội phạm: đo lường tỷ trọng các nhà quản lý cao cấp xếp
hạng " tội phạm , ăn trộm và mất trật tự " là ràng buộc then chốt là hết sức
nghiêm trọng. "Mức thiệt hại trung bình do tội phạm" là tỷ trọng thiệt hại
trong doanh thu của hãng có trình báo về tội phạm (trình báo về mất mát do tội
phạm là tỷ trọng nhà quản lý cao cấp có trình báo về một thiệt hại đối với một
doanh nghiệp do trộm cắp , các hành động phá hoại hoặc hoả hoạn trong năm
trước đó).
Ví dô:
Tội phạm
Nước
Trở ngại chính
(%)
Mức tổn thất trung
bình do tội phạm
(%)
Brazin 52.2 22.7
Trung Quốc 20.0 10.4
Inđônêxia 22.0 15.6
LB Nga 12.4 36.4

Đề án môn học GVHD: Th.s Nguyễn Ái
Liên
5. Ràng buộc về tỷ lệ thuế : Đo lường tỷ trọng nhà quản lý cao cấp xếp
hạng " tỷ lệ thuế " là một ràng buộc then chốt hoặc rất nghiêm trọng. Ràng
buộc về quản lý thuế đo lường tỷ trọng nhà quản lý cao cấp đánh giá " quản
lý thúê" là một ràng buộc then chốt hoặc rất nghiêm trọng. Ràng buộc về cấp
phép đo tỷ trọng nhà quản lý cao cấp đánh giá "giấy phép kinh doanh và giấy
phép" là ràng buộc then chốt hoặc rất nghiêm trọng. Thời gian quản lý rành để
làm việc với các quan chức liên quan tới các yêu cầu mà các quy định của
chính phủ đặt ra ( ví dụ thuế, hải quan, quy định về lao động , cấp phép và
đăng kí…) trong một tuần. Số ngày để hoàn tất thủ tục hải quan trung bình
là thời gian để hoàn tất thủ tục hải quan cho một hàng hóa nhập khẩu thông
qua hải quan.
Ví dô:
Điều tiết

quản lý
thuế

Nước
Thuế suất
được coi là
trở ngại lớn
(%)
Quản lý
thuế được
coi là trở
ngại lớn
(%)
Cấp phép

được coi
là trở ngại
chính
(%)
Thời gian
quản lý
phải dùng
để tiếp
quan chức
(%)
Số ngày
TB để
hoàn tất
thủ tục hải
quan(%)
Brazin 84.5 66.1 29.8 9.4 13.8
Trung Quốc 36.8 26.7 21.3 19.0 7.9
Inđônêsia 29.5 23.0 20.5 14.6 5.8
LB Nga 24.6 31.8 14.6 14.1 6.9
6. Ràng buộc về tài chính: là tỷ trọng trung bình các nhà quản lý cao cấp xếp
hạng " tiếp cận về tài chính" hoặc "chi phí của vốn" là một ràng buộc then chốt
hoặc rất nghiêm trọng. Các hãng nhỏ có khoản vay là tỷ trọng của các hãng có
Ýt hơn 20 lao động có một khoản vay qua mét trung gian tài chính chính thức.
Ví dô:
Tài chính
Nước
Trở ngại chính
(%)
Doanh nghiệp nhỏ được vay
vốn

(%)
Đề án môn học GVHD: Th.s Nguyễn Ái
Liên
Brazin 71.7 51.6
Trung Quốc 22.3 52.0
Inđônêxia 23.0 16.7
LB Nga 17.0 8.8
7. Ràng buộc về điện: đo tỷ trọng nhà quản lý cao cấp xếp hạng"điện"là
một ràng buộc then chốt hoặc rất nghiêm trọng. Các hãng có trình báo về
hiện tượng mất điện là tỷ trọng các hãng có trình báo về thiệt hại doanh thu
do ngắt hoặc mất điện năm trước. Thiệt hại do mất điện là giá trị doanh thu
trung bình bị mất do ngắt hoặc mất điện được tính bằng tỷ trọng trong tổng
doanh thu của các hãng có báo về hiện tượng mất điện.
Ví dô:
Điện
Nước
Trở ngại chính
(%)
Sè doanh nghiệp
trả lời bị mất điện
(%)
Tổn thất do bị mất
điện(% doanh sè)
Brazin 20.3 40.1 3.8
Trung Quốc 29.7 38.0 5.0
Inđônêxia 22.3 33.0 6.1
LB Nga 4.6 … …
8. Ràng buộc về kĩ năng: đo tỷ trọng các nhà quản lý xếp hạng " kĩ năng
cuả các công nhân hiện thời" là ràng buộc then chốt hoặc rất nghiêm trọng.
Ràng buộc các quy định về lao động đo tỷ trọng các nhà quản lý xếp hạng

"các quy định về lao động" là một ràng buộc then chốt hoặc rất nghiêm trọng.
Ví dô:
Lao động
Nước
Kĩ năng được coi là trở
ngại chính
(%)
Quy định về lao động được
coi là trở ngại chính
(%)
Brazin 39.6 56.9
Trung Quốc 30.7 20.7
Inđônêxia 18.9 25.9
LB Nga 9.9 3.3
PHẦN II : THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ Ở
VIỆT NAM
I. Thực trạng môi trường đầu tư ở các nước ASEAN.
Đề án môn học GVHD: Th.s Nguyễn Ái
Liên
1. Môi trường đầu tư cứng.
Như trên đã biết môi trường đầu tư cứng liên quan đến các yếu tố thuộc
về cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho sự phát triển kinh tế, bao gồm các yếu
tố như : sân bay, cảng biển, giao thông, điện lực, viễn thông.
Bảng biểu sau đây xếp hạng môi trường đầu tư cứng của các nước ASEAN:
Môi trường đầu tư "cứng" ở các nước ASEAN (1997)
Stt Tên nước Sân bay Cảng
biển
Giao
thông
Điện

lực
Viễn
thông
Bình
quân
1 Singapo 4.9 4.9 4.6 4.4 4.7 4.7
2
Brunei
3.3 3 3.3 3.6 3.5 3.3
3
Malaysia
3.1 3.1 2.7 2.6 3.2 2.9
4 Thailan 3.1 2.5 1.6 2.7 3 2.6
6 Inđônêsia 3 2.4 2.3 2.6 2.7 2.6
5 Philipines 2.3 2.4 1.9 2.2 2.7 2.6
7 Việt nam 1.9 2 1.9 1.9 2.2 2
9 Lào 1.5 1.5 1.7 1.5 1.6
8 Mi an ma 1.6 1.5 1.6 1.4 1.4 1.4
Ghi chú: xếp hạng theo thang điểm cao nhất là 5
Qua bảng trên ta thấy Singapo là nước có điểm bình quân cao nhất về
xếp hạng môi trường đầu tư cứng:4.7. Nước có điểm bình quân thấp nhất về
xếp hạng môi trường đầu tư cứng là Mianma: 1.5. Việt nam đứng thứ 7 với
điểm bình quân là 2.
2. Môi trường đầu tư mềm.
Môi trường đầu tư mềm bao gồm chất lượng lao động , dịch vụ công
nghệ, hệ thống tài chính.
Đề án môn học GVHD: Th.s Nguyễn Ái
Liên
Bảng xếp hạng môi trường đầu tư mềm ở các nước ASEAN:
Môi trường đầu tư "mềm" ở các nước ASEAN (1997)

Stt
Tên nước
Chất
lượng lao
động
Dịch vụ
công nghệ
Hệ
thống tài
chính
Bình
quân
1 Singapo 4.1 3.8 4.6 4.2
2
Malaysia
2.9 3 3 3
3
Brunei
2.8 2.6 3.3 2.9
4 Philipines 3.1 2.8 2.6 2.8
5 Thailan 2.7 2.6 2.5 2.6
6 Inđônêsia 2.5 2.2 2.6 2.4
7 Việt nam 2.7 1.9 1.6 2.1
8 Mianma 2.3 1.8 1.6 1.9
9 Lào 1.7 1.5 1.3 1.5
10 Campuchia 1.4 1.3 1.2 1.3
Ghi chú: xếp hạng theo thang điểm cao nhất là5.
Qua bảng ta thấy Singapo vẫn là nước có điểm bình quân cao nhất về
xếp hạng môi trường đầu tư mềm trong khối các nước ASEAN :4.2.
Campuchia là nước có điểm bình quân thấp nhất về xếp hạng môi trường đầu

tư mềm: 1.3
Việt nam vẫn xếp thứ 7 về môi trường đầu tư mềm. Việt Nam đứng vào hạng
các nước có môi trường đầu tư trung bình.
II. Đánh giá môi trường đầu tư của việt nam.
1. Thành tựu.
Thực hiện đường lối đổi mới , gần 20 năm qua, môi trường đầu tư của
Việt Nam đã có nhiều biến đổi theo hướng ngày càng thông thoáng, bình
đẳng, hấp dẫn hơn với các nhà đầu tư. Luật ĐTNN ban hành năm 1997 và Luật
Khuyến khích đầu tư trong nước ban hành năm 1994 đã tạo khuôn khổ pháp lý
cho việc thu hút các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước cho đầu tư phát
triển kinh tế- xã hội. Đánh giá về môi trường đầu tư của Việt Nam hiện nay, ta
có thể thấy được một số thành tựu của môi trường đầu tư của Việt Nam nh sau:
Môi trường đầu tư Việt Nam được coi là tương đối hấp dẫn, an toàn và
có lợi thế lâu dài trong khu vực Châu á- Thái Bình Dương.
Đề án môn học GVHD: Th.s Nguyễn Ái
Liên
Việt Nam luôn được đánh giá cao về một số yếu tố: ổn định về chính trị
– xá hội , nhân công cần cù và chi phí rẻ, vị trí địa lý thuận lợi: Tại Hội nghị
xúc tiến đầu tư do JETRO (Tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản) tổ chức
tháng 3 vừa rồi, JETRO thông báo một tin đáng khích lệ là điều tra của JBIC
(Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật ) cho thấy Việt Nam xếp thứ tư trong số các
nước được coi là điểm đầu tư hấp dẫn đối với các nhà đầu tư (sau Mỹ, Trung
Quốc và Thái lan), tăng 4 bậc so với điều tra vài năm trước đó.
1.1. Môi trường chính trị-xã hội:
Việt Nam có môi trường chính trị – xã hội ổn định đáp ứng được nhu
cầu làm ăn lâu dài của các nhà đầu tư. Tình hình ổn định chính trị của nước
tiếp nhận đầu tư là cơ sở quan trọng hàng đầu để thực hiện các cam kết bảo
đảm quyền sở hữu tài sản và các khuyến khích đầu tư cho các nhà ĐTNN. Mặt
khác sự ổn định về chính trị còn là tiền đề cần thiết để ổn định tình hình kinh
tế- xã hội, nhờ đó mà giảm được rủi ro cho các nhà đầu tư. Không nhà đầu tư

nào lại bỏ đồng vốn của mình vào nước khi có tình hình chính trị luôn mất ổn
định cả. Vì khi đó rủi ro xảy ra là rất lớn. Ta có thể thấy các rủi ro chính trị mà
các doanh nghiệp phải đối đầu như: tịch thu tài sản, xung công, quốc hữu hoá
và nhập tịch tài sản. Ngoài ra, còn rất nhiều rủi ro chính trị khác như : rủi ro do
sự mất ổn định chung, rủi ro trong việc quản lý ,sở hữu tài sản, rủi ro trong
kinh doanh, rủi ro do chuyển tiền. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra nhiều cơ hội
cho các doanh nghiệp kinh doanh trên phạm vi quốc tế, song còng mang lại
không Ýt rủi ro. Như ta đã trình bày thì rủi ro chính trị là một trong những rủi
ro đó. Rủi ro chính trị là nhân tố nằm ngoài tầm kiểm soát và khống chế của
doanh nghiệp và mang lại không Ýt khó khăn và trắc trở cho các doanh
nghiệp. Vì vậy để thành công trên thương trường quốc tế thì các doanh nghiệp
cần nghiên cứu kỹ yếu tố chính trị và dự đoán những rủi ro có thể xảy ra trước
khi thâm nhập vào một thị trường nước ngoài. Qua đó có thể khẳng định rằng
tình hình chính trị của nước tiếp nhận đầu tư là cơ sở quan trọng trong quyết
định đầu tư của các nhà đầu tư như thế nào. Việt Nam được coi là có lợi thế về
Đề án môn học GVHD: Th.s Nguyễn Ái
Liên
ổn định chính trị- xã hội. Điều này giúp các nhà đầu tư có tâm lý yên tâm khi
kinh doanh ở Việt Nam.
1.2. Môi trường kinh tế.
- Sau gần 20 năm đổi mới , Việt Nam từng bước hình thành thể chế kinh
tế thị trường, duy trì được môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và nhịp độ tăng
trưởng kinh tế cao.
Trong giai đoạn 1989-2003, GDP của Việt Nam tăng gần 2.67 lần, với
tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình hằng năm 7.28%, cao hơn mức tăng
trưởng bình quân cùng kỳ của các nước trong khu vực là 3.7%. Ba năm gần
đây (2001-2003) tốc độ tăng trưởng GDP là 6.9%; 7.0%; 7.2%.
Năm 2004 tổng sản phẩm trong nước(GDP) đạt 361.4 tỷ đồng, tốc độ
tăng trưởng gần 7.7%. Việt Nam vẫn đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ
tăng trưởng cao trong khu vực (đứng thứ hai trong khu vực ĐNA, sau

Singapo) và trên thế giới. Bất chấp những diễn biến không thuận lợi từ thiên
nhiên như: lũ quét, lở đất, hạn hán, dịch cúm gia cầm; tình hình chính trị an
ninh ở nhiều khu vực và quốc gia không ổn định; giá năng lượng biến động
mạnh, giá dầu lửa dao động cao. Hơn nữa là sự lan rộng của chủ nghĩa khủng
bổ , xung đột vũ trang…Những yếu tố này đã ảnh hưởng trực tiếp kinh tế, là
giá cả diễn biến phức tạp. Trong điều kiện đó, kinh tế Việt Nam vẫn tăng
trưởng ở mức cao, vẫn ghi nhận những con sè Ên tượng trên nhiều lĩnh vực
kinh tế, từ xuất khẩu cho đến thu hút ĐTNN, thu hút khách du lịch quốc tế.
Sản xuất công nghiệp, nông nghiệp tiếp tục duy trì ở mức tăng trưởng cao và
đi dần vào thế ổn định. Cụ thể là:
Sản lượng lương thực có hạt đạt 39.1 triệu tấn (mức cao nhất từ trước
đến nay) tăng 4.2% so với năm 2003. Sản xuất lúa chuyển mạnh theo hướng
giảm dần diện tích, tăng năng suất và chất lượng lúa gạo để phù hợp yêu cầu
thị trường trong nước và xuất khẩu gạo (đứng thứ hai trên thế giới sau Thái
Lan).
Tổng giá trị sản xuất công nghiệp năm 2004 đạt 354 nghìn tỷ đồng
(theo giá năm 1994), tăng 16% so với năm 2003, trong đó khu vực nhà nước
Đề án môn học GVHD: Th.s Nguyễn Ái
Liên
tăng 11.4%; khu vực ngoài quốc doanh tăng 22.8% và khu vực có vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng 15.7%. Điểm nổi bật là chất lượng nhiều sản
phẩm công nghiệp đã dần được nâng cao hiệu quả hơn theo hướng có lợi cho
tiến trình phát triển.
Điểm nổi bật nữa của kinh tế Việt Nam năm 2004 là kim ngạch xuất
khẩu tiếp tục tăng trưởng cao đạt hơn 26 tỷ USD, mức cao kỷ lục kể từ năm
1997 đến nay, tăng gần 30% so với năm 2003. Đáng chú ý là trong sè 5.82 tỷ
USD xuất khẩu tăng thêm so với năm2003, yếu tố tăng về lượng chiếm tới
65.5% (3,82 tỷ USD), trong khi đó yếu tố tăng về giá chỉ chiếm 34.5% (2
tỷUSD).
Cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch theo hướng CNH-HĐH. Sau 12 năm

(1991-2003), tỷ trọng GDP của các ngành công nghiệp, dịch vụ tăng lên, còn
tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm đi đáng kể. Tỷ trọng ngành nông nghiệp đã
giảm từ 20.8% năm 2003 xuống còn 20.4% năm 2004. Trong nội bộ ngành
nông nghiệp, cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển dịch đáng kể theo hướng tích cực:
tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm từ 76.6% năm 2003 xuống còn 75.5% năm
2004; tỷ trọng của ngành thuỷ sản tăng từ 16.4% năm 2003 lên 19.5% năm
2004. Tỷ trọng ngành công nghiệp và xây dựng tiếp tục tăng trưởng 41.1%.
Đặc biệt, tỷ trọng ngành dịch vụ sau 3 năm giảm liên tục thì đến 2004 đã có xu
hướng phục hồi đạt trên 38.5% (năm 2003 là38.2%). Cơ cấu các ngành dịch vụ
bắt đầu có sự thay đổi theo hướng gia tăng tỷ trọng các ngành dịch vụ có chất
lượng cao như Tài chính, Ngân hàng, Bảo hiểm…
Trong quá trình hội nhập và phát triển hiện nay, các thành phần kinh tế
đóng góp tích cực vào tăng trưởng chung của nền kinh tế, đặc biệt là khu vực
tư nhân đã có mức tăng trưởng rất cao. Đóng góp của khu vực tư nhân vào tăng
trưởng GDP tăng từ 36.6% năm 2004 lên khoảng 42% năm 2004. Theo đánh
giá của tờ " Tiếng Vang" của Pháp thì lĩnh vực kinh tế tư nhân của Việt Nam
đang có bước phát triển ngoạn mục thể hiện qua nhịp sống sôi động ở các
thành phố lớn.
1.3. Môi trường tự nhiên.
Đề án môn học GVHD: Th.s Nguyễn Ái
Liên
Việt Nam có vị trí địa lí thuận lợi:
Việt Nam cũng có lợi thế về vị trí địa lí vì nằm trong khu vực Châu Á-
Thái Bình Dương đang phát triển năng động, là ngã sáu của thế giới, có đường
biên giới chung với các tỉnh miền Nam Trung Quốc. Việt Nam với Trung Quốc
từ lâu đã có mối quan hệ thân thiết. Do bị phong kiến phương Bắc thống trị
hàng ngàn năm nên Việt Nam chịu ảnh hưởng của Trung Quốc về nhiều lĩnh
vực như văn hoá, quân sự, chính trị…và hơn nữa là lĩnh vực kinh tế .Cùng là
một trong bốn nước duy nhất hiện nay trên thế giới đi theo XHCN, biết được
sứ mệnh của mình là phải xây dựng một nền kinh tế XHCN vững mạnh- động

lực cho phát triển lâu dài nên hai nước đã giúp đỡ nhau để vượt qua những khó
khăn : những thế lực muốn xoá bỏ chế độ XHCN , nạn khủng bố, nạn dịch…
Cuộc viếng thăm của Chủ tịch nước CHND Trung Hoa Hồ Cẩm Đào diễn ra
vào đầu tháng 11/2005 vừa qua càng chứng tỏ mối quan hệ Việt – Trung là
người cùng một nhà, vừa là đồng chí, vừa là anh em. Tình hữu nghị truyền
thống là tài sản quý giá chung của hai Đảng, hai NHà nước và nhân dân hai
nước. Phương châm 16 chữ :" láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định
lâu dài, hướng tới tương lai " là phương châm chỉ đạo đúng đắn trong quan hệ
hai nước, 4 tốt " láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt " là mục
tiêu phấn đấu của cả hai nước. Nhân chuyến thăm Việt Nam của Tổng bí thư
TW Đảng cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước CHND Trung Hoa Hồ Cẩm
Đào từ ngày 31/10 đến ngày 2/11/2005, lãnh đạo hai nước cũng bày tỏ mong
muốn thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước phát triển hơn nữa,
thực hiện bổ xung ưu thế cho nhau, nhất trí phấn đấu thực hiện đưa kim ngạch
thương mại hai nước đạt 10 tỷ USD vào năm 2010. Việt Nam và Trung Quốc
nhất trí mở rộng quy mô thương mại, cùng có biện pháp thúc đẩy thương mại
song phương phát triển cân đối, thúc đẩy những dự án hợp tác kinh tế lớn và
khuyến khích doanh nghiệp hai nước đầu tư kinh doanh, hợp tác lâu dài.
Phía Trung Quốc kiên quyết ủng hộ Việt Nam gia nhập WTO. Hai bên
đồng ý tăng cường hợp tác trong các vấn đề kinh tế thương mại và khu vực và
Đề án môn học GVHD: Th.s Nguyễn Ái
Liên
quốc tế, cùng thúc đẩy tiến trình xây dựng khu mậu dịch tự do ASEAN –
Trung Quốc.
1.4. Môi trường lao động.
Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào, có trí thức và tương đối trẻ.
Với số dân 80 triệu, đứng thứ 13 trên thế giới, đời sống người dân ngày
càng được nâng cao. Việt Nam được đánh giá là một nước có tiềm năng về thị
trường lao động và thị trường hàng hoá. Về chất lượng nguồn nhân lực, chỉ số
phát triển nguùon nhân lực của Việt Nam đang ở mức cao hơn trình độ phát

triển kinh tế, có khả năng tiếp thu và thích nghi nhanh với hoạt động chuyển
giao công nghệ, điều này cũng phản ánh nhưng ưu thế về lao động của Việt
Nam xét về dài hạn. Rõ ràng, cơ cấu trẻ của dân số đông ( số người ở nhóm
tuổi 16-35 chiếm trên 65% dân số ) cho Việt Nam có một tiềm năng lớn về lực
lượng lao động có ưu thế về sức khoẻ, sự năng động, khả năng học hỏi và sáng
tạo. Hơn thế nữa trình độ học vấn của người Việt Nam là tương đối cao. Tỷ lệ
người lớn biết chữ trong tổng số dân là 90%, trong lực lượng lao động là 97%.
Nếu nhìn vào biểu sau, ta có thể thấy trình độ học vấn của nước ta là tương đối
cao so với một số nước trong khu vực có trình độ phát triển cao hơn với những
đặc điểm khá tương đồng.
Biểu: Một số chỉ tiêu về nhân lực của Việt Nam và một số nước Châu Á
Chỉ tiêu Việt Nam Trung
Quốc
Thái Lan Malaixi
a
Inđônêxia
Chỉ số phát triển con
người
0.664 0.701 0.753 0.755 0.679
Xếp hạng theo HDI 110 98 67 56 105
Tuổi thọ trung bình 67.4 69.8 68.8 72.0 65.1
Tỉ lệ người lớn biết chữ 91.9 82.9 94.7 85.7 85.0
Nguồn UNDP 1999
Hiện tại Việt Nam đứng thứ 5 trong số các nước ASEAN về chỉ số phát
triển con người, sau Singapo, Malaixia, Thái Lan, Philipin. Chỉ số phát triển
con người của Việt Nam năm 2004 là 0.684.
Đề án môn học GVHD: Th.s Nguyễn Ái
Liên
Chi phí sử dụng lao động của kĩ sư và công nhân Việt Nam cũng được
đánh giá là có lợi hơn các nước lân cận (lương trả chỉ bằng 60 – 70 % của

Trung quốc, Thái Lan; 18% của Singapo; 3- 5% của Nhật Bản).
1.5. Môi trường kinh doanh ngày càng thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp.
Trong mấy năm gần đây, đặc biệt từ năm 2000, môi trường kinh doanh
nước ta đã có những bước cải thiện đáng kể và được cộng đồng quốc tế thừa
nhận. So với năm 2002, sức cạnh tranh về kinh doanh năm 2003 của nước ta
đã tiến được 10 bậc, từ hạng 60 lên hạng 50. Sức cạnh tranh về tăng trưởng
tăng từ vị trí 62 lên 60. Năm 2003 theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới
(WB), thì chi phí gia nhập thị trường ở nước ta cũng đã giảm nhiều so với năm
2002, từ 134% xuống còn gần 30% GDP binh quân đầu người. Đó là kết quả
của hàng loạt các giải pháp thay đổi.
- Hiến pháp năm 1992( bổ sung, sửa đổi) đã thừa nhận tất cả các thành
phần kinh tế kinh doanh theo đúng qui đinh của pháp luật đều là bộ phận cấu
thành quan trọng của nền kinh tế định hướng xã hội ở nước ta. Nói cách khác,
Hiến pháp 1992 (bổ sung, sửa đổi) đã “hiến định” sự bình đẳng về vai trò, vị
trí của các thành phần kinh tế trong cơ cấu kinh tế của nước ta, đề cao hơn vai
trò của kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn ĐTNN; đồng thời, “hiến định” quyền
tự chủ của công dân và doanh nghiệp được quyền kinh doanh không hạn chế
về qui mô trong tất cả các ngành, nghề mà pháp luật không cấm. Điều này tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hợp tác và cạnh
tranh một cách bình đẳng hơn, đã huy động được thêm nhiều nguồn lực trong
và ngoài nước cho đầu tư phát triển kinh tế- xã hội.
- Nhà nước đầu tư và cho nước ngoài đầu tư đáng kể cho cơ sở hạ tầng
kinh tế – xã hội (hệ thống đường xá, cầu cảng , hệ thống thông tin liên lạc,
điện nước…)
Cơ sở hạ tầng tốt sẽ kết nối doanh nghiệp với khách hàng và nhà cung
ứng. Ngoài ra, chúng còn giúp các nhà cung ứng giảm được chi phí sản xuất,
tạo ra được những kĩ thuật sản xuất hiện đại. Tăng cường cơ sở hạ tầng nh
đường xá nông thôn, chẳng những giúp các doanh nghiệp đưa được hàng hoá

×