Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

tài liệu thị trường ngoại hối

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (403.11 KB, 33 trang )


Thị trường ngoại hối
. Thị trường ngoại hối
1. Định nghĩa
Một cách tổng quát, thị trường ngoại hối( FOREX) là nơi diễn ra việc
mua bán các đồng tiền khác nhau.
Theo nghĩa hẹp, thị trường ngoại hối là nơi mua bán ngoại tệ giữa các
ngân hàng, tức thị trường Interbank do hoạt động mua bán ngoại tệ chủ yếu xảy
ra giữa các ngân hàng, chiếm khoảng 85% tổng số giao dịch.
2. Các thành viên tham gia vào thị trường ngoại hối
Bao gồm:
• Nhóm khách hàng mua bán lẻ: bao gồm các công ty nội địa và đa quốc
gia, các nhà đầu tư quốc tế và tất cả những ai có nhu cầu mua bán ngoại hối.
Tham gia vào thị trường ngoại hối nhằm chuyển đổi tiền tệ và phòng ngừa rủi ro
tỉ giá.
• Các ngân hàng thương mại: tham gia vào thị trường ngoại hối nhằm cung
cấp dịch vụ cho khách hàng và kinh doanh cho chính mình.
• Các nhà môi giới ngoại hối: chỉ cung cấp dịch vụ môi giới chứ không
được mua bán cho chính mình
• Các ngân hàng trung ương: tham gia thị trường ngoại hối nhằm 3 mục
đích: can thiệp lên tỉ giá; mua bán, chuyển đổi tiền tệ nhằm bảo toàn và gia tăng
giá trị dự trữ ngoại hối quốc gia; là đại lí mua bán hộ ngoại tệ cho chính phủ.
3. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
Được thành lập và chính thức đi vào hoạt động từ tháng 10 năm 1994 tại
Việt Nam. Thành viên tham gia thị trường ngoại tệ liên ngân hàng bao gồm các
ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư phát triển trong nước, ngân hàng
liên doanh với nước ngoài và chi nhánh của ngân hàng nước ngoài hoạt động tại
Việt Nam. Ngân hàng nhà nước tham gia vào thị trường như các thành viên
khác, đồng thời can thiệp nhằm mục tiêu quản lí khi cần thiết.
Điều kiện để ngân hàng thương mại trở thành thành viên của thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng là:


• Phải được phép kinh doanh ngoại tệ
• Có tài khoản ngoại tệ và tiền đồng gửi tại ngân hàng nhà nước
• Có hệ thống thông tin nội bộ nối mạng với ngân hàng nhà nước
Trong thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, Ngân hàng nhà nước vừa là
người điều hành thị trường vừa là người mua bán cuối cùng với khối lượng lớn
để can thiệp vào thị trường khi cần thiết. Thông qua hoạt động của thị trường,
Ngân hàng nhà nước tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế xác định tỉ giá theo
hướng thị trường. Ngân hàng nhà nước sử dụng quỹ bình ổn hối đoái để can
thiệp thị trường một cách có hiệu quả nhằm thực hiện mục tiêu chính sách hối
đoái của Ngân hàng nhà nước và ổn định tỉ giá hối đoái.
Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoạt động tất cả các ngày làm việc
trong tuần dưới hình thức phi tập trung. Bước đầu chỉ thực hiện các giao dịch
giao ngay và giao dịch kì hạn thông thường với kì hạn do các thành việc giao
dịch tự thỏa thuận. Tỉ giá giao dịch dựa trên cơ sở tỉ giá chính thức do Ngân
hàng nhà nước công bố đầu ngày, theo đó, ngân hàng thương mại được giao
dịch với nhau trong một biện độ nhất định quanh tỉ giá chính thức.
4. Thị trường vàng
Thị trường vàng chính là 1 phần trong thị trường tiền tệ, trên thị trường
vàng, hàng hóa giao dịch là vàng tiêu chuẩn quốc tế.
Các nhà đầu tư mua vàng giống như 1 cách tự bảo hiểm giá trị tài sản hiện
có của họ khỏi các rủi ro về kinh tế , chính trị - xã hội. Những cuộc khủng
hoảng thị trường bao gồm: giảm đầu tư, nợ quốc gia có chiều hướng gia tăng,
lạm phát, chiến tranh, bất ổn chính trị xã hội….Các nhà đầu tư cũng mua vàng
như 1 công cụ đầu tư nhằm kiếm lợi trong tương lai khi mua vàng tại thời điểm
này với giá thấp và hi vọng bán được giá cao trong tương lai
Đối tượng tham gia thị trường vàng gồm:
- Các Ngân Hàng thương mại
- Ngân hàng Trung Ương
- Các tổ chức phi tài chính
- Các tổ chức phi Ngân Hàng

- Các cá nhân
- Nhà môi giới
Tại Viêt Nam: tham gia vào thị trường vàng thì tư nhân chiếm số lượng chủ
yếu khoảng 90%
B. Mua bán giao ngay trên thị trường ngoại hối liên
ngân hàng
1.Các khái niệm liên quan
Nghiệp vụ giao ngay (Spot transactions):
Nghiệp vụ giao ngay là nghiệp vụ cơ sở bởi vì tỷ giá áp dụng cho các hợp
đồng giao ngay được hình thành trực tiếp từ quan hệ cung cầu và luôn có sẵn
trên thị trường; trong khi đó, các nghiệp vụ khác là phái sinh, bởi vì tỷ giá áp
dụng cho các hợp đồng này không được hình thành trược tiếp theo quan hệ cung
cầu trên thị trường, mà được hình thành từ các thông số có sẵn trên thị trường
như tỷ giá giao ngay và mức lãi suất các đồng tiền.
Spot là giao dịch 2 bên thực hiện mua bán một lượng ngoại tệ theo tỷ giá
giao ngay tại thời điểm giao dịch và kết thúc thanh toán trong vòng hai (2) ngày
làm việc tiếp theo.
Ngày có giá trị hiệu lực của hộp đồng là hai ngày làm việc tiếp theo kể từ ngày
ký hợp đồng.
• Tuy nhiên, để có thể trở thành ngày có giá trị hiệu lực thì phải là
ngày làm việc thông thường của quốc gia có đồng tiền tham gia vào
giao dịch.
VD: Nếu bạn giao dich bằng VND trên thị trường ngoại hối của Việt
Nam, và ngày ký hợp đồng là thứ 6 thì ngày có giá trị là thứ 3 (tức là hai ngày
làm việc tiếp theo của Việt Nam). Còn nếu giao dịch trên được ký vào thứ 2 thì
ngày có giá trị sẽ là thứ 4.
Nhưng nếu bạn dùng HKD (Hong Kong dolar) trên thị trường ngoại hối của
Hồng Kông để mua bất cứ loại ngoại tệ nào (trừ USD ), và giao dịch của bạn
được ký kết vào thứ 2 thì ngày có giá trị hiệu lực là ngày thứ 5 (vì ngày thứ 4 là
ngày nghỉ của Hồng Kông).

- Địa điểm thực hiện thanh toán chính là quốc gia mà việc chuyển tiền thực
tế được tiến hành.
VD: Một giao dịch giữa GBP – USD được thực hiện thì:
+ GBP sẽ được thanh toán ở Anh.
+ USD sẽ được thanh toán ở Mỹ.
- Nơi thực hiện hợp đồng là bất cứ thị trường ngoại hối nào trên thế giới.
VD: Bạn có thể mua USD , EURhay là JPY bằng VND trên thị trường
ngoại hối của của Việt Nam. Hoặc trên thi trường Tokyo bạn cũng có thể
mua USD hay EUR bằng JPY…
- Kỹ thuật giao dịch (các hình thức giao dịch): các thị trường giao dịch với
nhau qua nhiều cách, trong đố co 4 cách chủ yếu là:
• Giao dịch thông qua điện thoại: tức là nơi đặt mua và nơi bán sẽ giao
dịch qua điện thoại, nếu chấp nhận ngay thì coi như giao dịch đã thành.
Họ sẽ thanh toán chô nhau qua các ngân hàng đại diện. Nhưng giao
dịch này có một nhược điểm là các bên gọi điện cho nhau rất dễ nghe
nhầm, dẫn đến sự nhầm lẫn trong giao dịch gây thiệt hai cho một bên
hoặc là cả hai bên tham gia giao dịch.
• Giao dịch thông qua màn hình điện tử: thực chất là hệ thống thông tin
điện tử; tức là ở hai nơi giao dịch (thường là các ngân hàng thương
mại) sẽ có màn hình điện tử, tại đó các bên sẽ đặt lệnh mua và bán của
mình; và giá mà minh có thể sẵn sàng chấp nhận. Kỹ thuật này cho
phép tránh được các nhầm lẫn, sai sót của kỹ thuật trên, giảm thiệt hại
và rủi ro cho các bên tham gia giao dịch. Hiện nay, có khoảng 50% các
hợp đồng giao dịch được thực hiện bằng hệ thống này
• Giao dịch thông qua điện báo.
• Giao dịch thông qua các sở giao dịch chứng khoán
Về mặt tổ chức thị trường
Theo nghĩa rộng, thị trường giao ngay bao gồn thị trường bán
buôn(Interbank) và thị trường bán lẻ; nhưng do doanh số giao dịch trên
Interbank là chủ yếu, do do, theo nghĩa hẹp người ta coi thị trường giao ngay

chính là thị trường liên ngân hàng.
Thị trường liên ngân hàng giao ngay là thị trường tài chính lớn nhất toàn
cầu. Chỉ tính số mua bán một chiều, thì trung bình mỗi ngày doanh số giao dịch
lên tới 1500 tỷ USD. Kể từ năm 1970 cho đến nay thì cứ hai năm doanh số giao
dịch lại được nhân lên gần gấp đôi.
Thị trường ngoại hối giao ngay là thị trường phi tập trung( không giao dịch
trên sở giao dịch), bao gồm các NHTM, các công ty tài chính lớn, những nhà
môi giới ngoại hối và cả NHTW, trong đó, các NHTM đóng vai trò chủ chốt.
Do tốc độ thông tin ngày nay rất nhanh, cho nên mọi sự kiện quan trọng
diễn ra trên thế giới có ảnh hưởng trực tiếp và ngay lập tức đến thị trường ngoại
hối toàn cầu cho dù các nhà kinh doanh ở rất xa nhau. Điều này đã làm cho hoạt
động của thị trường ngoại hối trở nên hiệu quả, giống như toàn bộ các nhà kinh
doanh đang hoạt đọng dưới một mái nhà chung.
Tính hiệu quả của thị trường giao ngay được thể hiện ở chỗ:
- Thứ nhất, chênh lệch tỷ giá mua, bán rất hẹp, thông thường là nhỏ hơn
0.1%
- Thứ hai, do tốc độ truyền tin nhanh chóng cho nên những thay đổi của thị
trường đã ảnh hưởng tức thời lên tỷ giá, hay nói cachskhacs, tỷ giá hối
đoái trên thị trường luôn biến động để phản ánh những thay đổi của thị
trường.
- Thứ ba, đây là thị trường có tính thanh khoản cao vì:
1. Luôn sẵn có số tiền cần thiết
2. Tại địa điểm cần có
3. Tại thời điểm có nhu cầu
4. Bằng đồng tiền cần có
5. Với giá cả hợp lý
Những nhà kinh doanh không thể bỏ qua những thay đổi có tính đột biến trên
một thị trường sôi động và có tính toàn cầu như thị trường ngoại hối. Thị trường
ngoại hối giao ngay có hai cấp, đó là : Thị trường liên ngân hàng trực tiếp giữa
các ngân hàng, và thị trường liên ngân hàng gián tiếp thông qua môi giới.

Đối tượng tham gia :
Tất cả khách hàng cá nhân, TCKT có nhu cầu hợp pháp liên quan đến
mua/bán ngoại tệ
Những lợi ích chính:
Đáp ứng nhu cầu mua bán ngoại tệ để phục vụ cho thanh toán xuất nhập
khẩu hàng hóa, dịch vụ, cước vận tải, bảo hiểm.
Góp vốn liên doanh với nước ngoài.
Đóng hội phí cho các tổ chức quốc tế.
Đi công tác, học tập, chữa bệnh, du lịch ở nước ngoài.
Có thể thanh toán ngay trong ngày (today), thanh toán vào ngày hôm sau
(tom) hoặc thanh toán trong vòng 02 ngày làm việc kể từ ngày giao dịch (spot).
Khách hàng quản lý tình hình kinh doanh được hiệu quả hơn
Cân đối được nguồn ngoại tệ tức thời và trong tương lai gần nhằm phục vụ
kinh doanh
Những đặc điểm cơ bản:
Tỷ giá mua/bán là tỷ giá giao ngay trên thị trường tại thời điểm giao dịch.
Thời gian thực hiện thanh toán tối đa không quá 02 ngày làm việc tiếp
theo sau ngày giao dịch.
Đáp ứng được đa dạng nhu cầu ngoại tệ của khách hàng.
Cách xác định tỷ giá( theo quyết định số: 2635/QĐ-NHNN(2008))
Tổng Giám đốc (Giám đốc) các tổ chức tín dụng được phép hoạt động
ngoại hối ấn định tỷ giá mua, tỷ giá bán giao ngay (SPOT) của Đồng Việt Nam
với các ngoại tệ theo nguyên tắc sau:
1. Đối với Đô la Mỹ: Không được vượt quá biên độ ±3% (ba phần trăm) so
với tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng áp dụng cho ngày
giao dịch do Ngân hàng Nhà nước thông báo.
2. Đối với các ngoại tệ khác: Do Tổng Giám đốc (Giám đốc) các tổ chức tín
dụng được phép hoạt động ngoại hối ấn định.
3. Chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán: Do Tổng Giám đốc (Giám
đốc) các tổ chức tín dụng

2. Tình hình mua bán giao ngay trên TT ngoại hối liên ngân hàng
7 đồng tiền được giao dịch thường xuyên nhất trên thị trường: Dollar, Yên
Nhật, Dollar HồngKông, Bảng Anh, Franc Pháp, Franc Thụy Sỹ, Euro. Hoạt
động hầu hết tại tất cả các múi giờ:
Biểu đồ hoạt động giao dịch ngoai hối toàn cầu:
TCTD không được mua bán USD giao ngay với tỷ giá cao hơn trần
biên độ
Ngày 18/3/2009, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam có
Công văn số 1819/NHNN-QLNH về việc chấn chỉnh hoạt động mua bán ngoại
tệ. Theo đó, Thống đốc yêu cầu các tổ chức tín dụng (TCTD) được phép hoạt
động ngoại hối không được sử dụng kết hợp các công cụ phái sinh nhằm mục
đích mua bán USD giao ngay với tỷ giá cao hơn trần biên độ do NHNN quy
định. Đồng thời, thanh tra NHNN cũng sẽ tăng cường kiểm tra, thanh tra việc
tuân thủ các quy định về hoạt động mua bán ngoại tệ kể từ ngày 18/3/2009 và xử
lý nghiêm các hành vi vi phạm. Trên website của NHNN công bố, tỷ giá giao
dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng áp dụng cho ngày
18/03/2009 là 16.976 đồng/USD, giảm 1 đồng so với ngày hôm qua. Tại Ngân
hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), giá USD mua vào niêm yết là
17.484 đồng/USD và bán ra ở mức 17.485 đồng/USD, giảm 1 đồng/USD so với
hôm qua.Tuy nhiên, các mức giá này hiện đang chênh lệch gần 300 đồng/USD
so với tỷ giá trên thị trường tự do hiện nay.
C. Th ực trạng thị trường tiền tệ liên ngân hàng Việt Nam
1.Năm 2008
Năm 2007, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng tiếp tục phát triển mạnh về
quy mô thị trường và doanh số giao dịch thị trường tăng cao. Doanh số giao dịch
giữa các ngân hàng tăng khoảng 113% so với năm 2006, trong đó doanh số giao
dịch giao ngay tăng 125%, doanh số giao dịch kỳ hạn và giao dịch hoán đổi tăng
30%, các NHTM đã sử dụng nhiều các nghiệp vụ giao dịch để phòng ngừa rủi ro
trong kinh doanh ngoại hối. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng có 65 ngân hàng
thành viên tham gia. Nhiều ngân hàng tích cực tham gia đã tạo thêm sự sôi động

của thị trường. Trong năm 2007, với vai trò can thiệp cuối cùng để ổn định thị
trường, NHNN đã thực hiện mua, bán ngoại tệ với các NHTM để hỗ trợ nhu cầu
về VND cũng như nhu cầu về ngoại tệ một cách kịp thời để nhập khẩu các mặt
hàng thiết yếu và nhu cầu chuyển đổi ngoại tệ của các nhà đầu tư nước ngoài.
Khi cung cầu trên thị trường biến động ảnh hưởng đến trạng thái ngoại tệ của
các NHTM, NHNN can thiệp bán ngoại tệ để cân bằng trạng thái, hạn chế rủi ro
hoạt động kinh doanh của các NHTM. Nhờ nguồn cung ngoại tệ trên thị trường
trong năm 2007 tăng mạnh, NHNN đã mua được một khối lượng lớn ngoại tệ,
tăng dự trữ ngoại hối, tạo tiềm lực và thế chủ động cho NHNN trong việc can
thiệp thị trường và thực hiện mục tiêu điều hành CSTT.
Trong bối cảnh cung cầu ngoại tệ trên thị trường diễn biến phức tạp, hoạt
động thị trường ngoại tệ liên ngân hàng năm 2008 tiếp tục sôi động với quy mô
và doanh số giao dịch tăng cao. Doanh số giao dịch giữa các ngân hàng tăng
khoảng 25% so với năm 2007. Trong đó, doanh số giao dịch giao ngay tăng
26%, các giao dịch kỳ hạn, hoán đổi tăng 13%. Các ngân hàng đã tiếp cận và sử
dụng nhiều hơn các nghiệp vụ giao dịch để phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh
ngoại hối. Cả năm 2008, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng có 79 ngân hàng
thành viên tham gia, tăng 14 thành viên so với năm 2007. NHNN đã thực hiện
mua, bán ngoại tệ một cách kịp thời như một người mua, bán cuối cùng trên thị
trường để ổn định tỷ giá, đáp ứng nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu các mặt hàng
thiết yếu và nhu cầu chuyển đổi ngoại tệ của các nhà đầu tư nước ngoài. Bên
cạnh giao dịch mua, bán ngoại tệ giao ngay, NHNN cũng đã thực hiện các giao
dịch mua và bán lại ngoại tệ với một số ngân hàng để hỗ trợ cân đối nguồn tiền
đồng Việt Nam cho các NHTM
• Một số thành tựu:
Thực hiện cơ chế cho vay theo trần lãi suất nhằm hạn chế sự tăng lãi suất
quá cao tại các ngân hàng thương mại cổ phần (22% - 25%)
Lần đầu tiên kể từ 1/12/2005, lãi suất cơ bản được điều chỉnh tăng, từ
8,25% lên 8,75% vào 1/2/2008. Đặc biệt, trong lần điều chỉnh ngày 19/5 (lên
12%), lãi suất cơ bản được trả lại đúng chức năng của nó, trở thành một cơ sở để

xác định hành lang pháp lý cho lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại,
thay vì xơ cứng và mờ nhạt trước đó.
Cụ thể, ngoài sự điều chỉnh trên, Ngân hàng Nhà nước chính thức áp cơ
chế lãi suất trần trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng (không quá
150% lãi suất cơ bản theo quy định của Bộ luật Dân sự).
Từ thời điểm đó, hoạt động cho vay của các các ngân hàng có sự thay đổi
căn bản; khái niệm “lãi suất cho vay tối đa” xuất hiện trên thị trường, đồng
nghĩa với những mức lãi suất cho vay từ 22% - 25% trước đó được loại bỏ cùng
với các loại phí thu thêm; trần lãi suất huy động thỏa thuận giữa các thành viên
Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam có từ những năm trước cũng bị xóa bỏ
Trong tháng 8/2008 tại thị trường liên ngân hàng, nhu cầu vay mượn của
các ngân hàng trên thị trường nội tệ liên ngân hàng đã giảm nhiều. Vì vậy, lãi
suất cho vay cũng giảm khá mạnh. Các khoản vay từ 1 đến 3 ngày ở mức từ
15,8%/năm-17%/năm. Tuy nhiên, lãi suất của những khoản vay tháng vẫn ở
mức từ 18%-19,5%/năm. Lãi suất cùng một kỳ hạn có thể chênh lệch ở mức
tương đối tùy uy tín của ngân hàng đi vay. Thông thường các ngân hàng thương
mại Nhà nước vay được từ các ngân hàng khác với mức lãi suất thấp hơn
trên/dưới 1%/năm so với các ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ.
Điểm đáng chú ý là đã xuất hiện nhiều khoản cho vay kỳ hạn dài hơn (40-
60 ngày) trên thị trường liên ngân hàng. Điều này cho thấy các ngân hàng đã dự
đoán tích cực hơn về diễn biến thị trường tiền tệ trong thời gian cuối năm. Mặt
khác, một số ngân hàng dự đoán mặt bằng lãi suất kinh doanh của của hệ thống
sẽ có xu hướng giảm dần nên cho vay kỳ hạn dài lúc này lấy lãi suất cao cũng là
một hướng tăng lợi nhuận. Đối với các ngân hàng cần vốn bằng VND vay được
với kỳ hạn dài giúp ngân hàng ổn định hơn trong hoạt động.
Cũng vào thời điểm này, đa số đại biểu dự tọa đàm do Hiệp hội ngân hàng
tổ chức thống nhất cho rằng lãi suất liên ngân hàng không nên điều chỉnh bởi
Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN ngày 16/5 (về cơ chế điều hành lãi suất cơ
bản) mà nên để hình thành trên quan hệ cung - cầu về vốn trên thị trường tiền tệ,
tạo ra một thước đo thị trường làm căn cứ cho cơ quan quản lý nhà nước đề ra

chính sách và các giải pháp để xử lý kịp thời nhằm giữ ổn định lãi suất thị
trường liên ngân hàng và hỗ trợ để ổn định lãi suất huy động từ khách hàng. Tuy
nhiên, Ngân hàng nhà nước đã thông báo kể từ ngày 19/8, việc ấn định lãi suất
huy động và lãi suất cho vay bằng VND giữa các tổ chức tín dụng trên thị
trường liên ngân hàng không vượt quá 150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà
nước Việt Nam công bố để áp dụng trong từng thời kỳ. Quy định này của Ngân
hàng nhà nước là đúng đắn vì ngoài việc hỗ trợ thanh khoản, thị trường liên
ngân hàng còn là nơi các ngân hàng hoạt động kinh doanh kiếm lời, nên lãi suất
liên ngân hàng cũng phải chịu sự điều chỉnh của quyết định số 16 như các lãi
suât kinh doanh khác.
Chính thức cấp phép cho các ngân hàng mới
Sau cả thập kỷ, năm 2008 ghi nhận những giấy phép lập ngân hàng mới
đầu tiên được cấp. Thị trường đón nhận 2 thành viên mới chính thức đi vào hoạt
động là Ngân hàng Liên Việt và Ngân hàng Tiên Phong. Tháng 12, Ngân hàng
Nhà nước cấp thêm giấy phép mới cho Ngân hàng Bảo Việt, dự kiến đi vào hoạt
động đầu năm 2009.
Đi cùng với những giấy phép trên, quyết định tạm ngừng cấp phép để sửa
đổi quy chế thành lập và hoạt động của ngân hàng mới cũng là một sự kiện nổi
bật trong năm 2008; phía sau đó là dư âm của cuộc đua thành lập ngân hàng
trong năm 2007 với sự đổ vỡ của một số đề án và câu chuyện mua bán quyền
mua cổ phiếu ngân hàng chưa thành lập…
Cũng trong năm 2008, Ngân hàng Nhà nước chính thức cấp những giấy phép
lập ngân hàng con 100% vốn ngoại đầu tiên cho HSBC, ANZ và Standard
Chartered, mở đầu một thời kỳ mới cho hoạt động của các ngân hàng nước
ngoài tại Việt Nam: được đối xử bình đẳng hơn, cạnh tranh toàn diện hơn.
• Hạn chế:
 Chóng mặt với thay đổi của các công cụ điều hành
Chính sách tiền tệ từ định hướng thắt chặt và linh hoạt nửa đầu năm 2008
chuyển dần sang nới lỏng một cách thận trọng những tháng cuối năm. Đi cùng
với quá trình này là tần suất điều chỉnh các công cụ điều hành nhiều chưa từng

có của Ngân hàng Nhà nước, tập trung ở các lãi suất chủ chốt, tỷ lệ dự trữ bắt
buộc và biên độ tỷ giá.
Tính chung cả năm, Ngân hàng Nhà nước đã 3 lần tăng và 5 lần giảm lãi suất
cơ bản. Lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cũng có tần suất điều chỉnh
tương ứng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc có 1 lần tăng trong tháng 2, 4 lần giảm trong 3
tháng cuối năm (2 lần giảm đối với dự trữ bằng ngoại tệ). Lãi suất tiền gửi dự
trữ bắt buộc có 5 lần điều chỉnh (3 lần tăng, 2 lần giảm).
Cơ chế điều hành tỷ giá cũng ghi nhận những điều chỉnh chưa từng có trong
lịch sử. Biên độ có 3 lần nới rộng, từ +/-0,75% lên +/-3%; tỷ giá bình quân liên
ngân hàng có 2 lần điều chỉnh mạnh, vào tháng 6 và cuối tháng 12.
Một công cụ được Ngân hàng Nhà nước sử dụng đến, cũng là một sự kiện
nổi bật trong năm 2008, là đợt phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc
(17/3). Đi cùng với kế hoạch này, nhà điều hành đã 2 lần điều chỉnh lãi suất cho
tín phiếu, 1 lần tăng từ 7,8% lên 13%, tháng 12 giảm xuống còn 4,5%.
 Lãi suất huy động và cho vay biến động chưa từng có
Chính sách thắt chặt tiền tệ đầu năm của Ngân hàng Nhà nước gắn liền
với sự căng thẳng về thanh khoản của các ngân hàng thương mại. Lãi suất huy
động VND có kỳ biến động mạnh nhất từ trước tới nay. Cuộc chạy đua bùng
phát trong tháng 5 và tạo những đỉnh điểm nóng sốt trong tháng 6. Trên thị
trường liên ngân hàng, lãi suất ghi nhận kỷ lục lên tới 43%/năm; nhiều thành
viên đồng loạt đẩy mức huy động trong dân cư lên tới trên 19%/năm, cá biệt có
trường hợp áp tới 20%/năm.
Đó cũng là thời điểm mà hoạt động cho vay của nhiều ngân hàng thương
mại cầm chừng, doanh nghiệp vay vốn khó khăn cả về lãi suất cao lẫn khả năng
tiếp cận vốn, tín dụng tiêu dùng gần như bị cắt bỏ, tốc độ tăng trưởng tín dụng
bước vào vùng thấp nhất trong năm (liên tục tăng dưới 1%/tháng; cả năm ước
chỉ tăng khoảng 21% thay vì mức dự kiến khống chế 30%).
Ngược lại, từ cuối tháng 7, cùng với cơ chế cho vay mới, sự hỗ trợ của
Ngân hàng Nhà nước với nguồn vốn khả dụng của hệ thống tăng mạnh lên, lãi
suất trên thị trường bắt đầu có đợt thoái trào. Đặc biệt từ tháng 9 đến cuối năm,

gắn với những điều chỉnh các lãi suất chủ chốt của Ngân hàng Nhà nước, cả lãi
suất huy động và cho vay dồn dập giảm; ít nhất có 8 đợt điều chỉnh trên diện
rộng. Từ đỉnh điểm trên 19%/năm, lãi suất huy động VND rút về quanh mốc
8%/năm; lãi suất cho vay tối đa từ 21%/năm về còn 12,75%/năm.
 Tỷ giá USD/VND tăng đột biến
Năm 2008 là năm đặc biệt của cơ chế điều hành tỷ giá cũng như những biến
động trên thực tế. So với cuối năm 2007, tỷ giá USD/VND mua vào – bán ra của
các ngân hàng thương mại đã tăng khoảng 9%, một mức tăng đột biến so với
thay đổi quen thuộc quanh 1% những năm trước.
Năm 2008 cũng là năm biên độ tỷ giá liên tiếp 3 lần nới rộng, 2 lần được
tăng mạnh trực tiếp ở tỷ giá bình quân liên ngân hàng, những điều chỉnh chưa
từng có trong lịch sử.
Tính chất đặc biệt của tỷ giá năm 2008 cũng thể hiện ở những biến động trái
chiều. Trong những tháng đầu năm, thị trường có hiện tượng ứ đọng ngoại tệ, tỷ
giá có lúc xuống đáy là 15.300 VND; nhiều doanh nghiệp, ngành hàng xuất
khẩu phải thông qua các hiệp hội yêu cầu ngân hàng đẩy mạnh mua vào USD,
tháo gỡ khó khăn. Nhưng từ tháng 5, sự khan hiếm ngoại tệ lại diễn ra căng
thẳng trên cả thị trường chính thức lẫn thị trường tự do. Nhiều doanh nghiệp
phải mua với giá trên 18.000 VND, chi phí tài chính bị đẩy cao, ảnh hưởng đến
lợi nhuận.
Với sự can thiệp của Ngân hàng Nhà nước, cũng như năng lực dự trữ ngoại
hối lần đầu tiên được công khai một cách chính thức, tỷ giá ổn định dần về cuối
năm.
D. TT ngoại hối liên ngân hàng kể từ năm 2008 đến
nay.
Kể từ 25/12/2008, tỷ giá bình quân liên ngân hàng được điều chỉnh tăng
thêm 3%, từ mức 16.494 đồng ăn một đôla lên 16.989 đồng, tạo điều kiện cho
các ngân hàng thương mại có thể kinh doanh với giá trần 17.500 đồng.
Thông tin tăng tỷ giá liên ngân hàng thêm 3% được Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước VN Nguyễn Văn Giàu công bố tại buổi họp báo thường kỳ

tháng 12 của Chính phủ diễn ra ở TP HCM chiều 24/12. Riêng biên độ tỷ giá
(mức dao động giữa giá kinh doanh của các ngân hàng với tỷ giá liên ngân hàng
do Ngân hàng Nhà nước công bố) vẫn giữ ở +/- 3%.
Theo người đứng đầu Ngân hàng Nhà nước, lần điều chỉnh tỷ giá này là
vì mục tiêu linh hoạt, theo tín hiệu cung cầu thị trường, hỗ trợ xuất khẩu, kiểm
soát nhập khẩu, vì mục tiêu quản lý dài hạn, tạo lòng tin cho nhà đầu tư và
người dân vào chính sách của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nứơc đã nhiều lần lần
điều chỉnh tỷ giá ngoại tệ này, diễn biến thị trường sẽ rất thuận lợi, tốt hẳn lên
so với trước. Tỷ giá USD trên thị trường tự do chiều 24/12 là 17.270 đồng, chỉ
hơn 1% so với tỷ giá khi điều chỉnh. "Ngân hàng Nhà nước đủ sức để kiểm soát
thị trường".
Tuy nhiên, lần điều chỉnh tỷ giá ngoại tệ này không phải VN phá giá tiền
đồng.
Trong năm 2008,chính sách tiền tệ của VN được thực hiện linh hoạt, thận
trọng và theo diễn biến của nền kinh tế. Trong tháng 12, Ngân hàng nhà nước
tiếp tục điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản xuống còn 8,5% một năm, lãi suất tái
cấp vốn xuống 9,5% một năm, lãi suất tái chiết khấu còn 7,5% mỗi năm. Biên
độ tỷ giá USD/VND cũng được nới rộng +,-3% so tỷ giá ngân hàng. Nhờ đó,
các tổ chức tín dụng đã hạ được lãi suất đầu ra, giúp doanh nghiệp có điều kiện
tiếp cận vốn với chi phí thấp hơn để phục vụ sản xuất kinh doanh, tạo thuận lợi
xuất khẩu.
Đối với năm 2009
Không bùng nổ như thị trường vàng, chứng khoán, nhưng tỷ giá liên ngân
hàng cũng “âm thầm” đi lên từ cuôi tháng 9 năm 2009. lúc này, tỷ giá bình quân
liên ngân hàng đã lên tới mức 17.004 VND/USD, mức cao nhất từ trước tới đó.
Tỉ giá gần hơn với thị trường tự do:
Tháng 9/2009, xu thế tăng tỷ giá liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước
công bố bắt đầu từ mức 16.976 đồng/USD, tới ngày 10/10, tỷ giá này đã vượt
mốc 17.000 VND/USD. Đến 15/10, tỷ giá do Ngân hàng Nhà nước công bố đã
lên 17.004 VND/USD.

Tỷ giá liên ngân hàng tăng lên đã tạo cơ hội cho giá mua - bán USD tại
ngân hàng thương mại tiến gần hơn với giá USD ngoài thị trường tự do. Mặc dù
tỷ giá liên ngân hàng tăng liên tiếp trong thời gian qua, nhưng tại nhiều ngân
hàng thương mại, tỷ giá mua - bán vẫn niêm yết ở mức kịch trần.
Với biên độ +/- 5% so với tỷ giá liên ngân hàng, tại Vietcombank,
Eximbank, ACB, tỷ giá mua vào - bán ra USD vẫn niêm yết ở mức trần 17.954
VND/USD.
Trái ngược với thị trường ngân hàng, giá mua - bán USD trên thị trường
tự do lại có xu hướng giảm trong thời gian gần đây, chỉ dao động quanh mức
mua vào 18.290 - bán ra 18.300 VND/USD.
Trong khi vài tháng trước, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu không chịu bán
lại USD cho ngân hàng, trong khi các doanh nghiệp nhập khẩu lại có nhu cầu
mua rất mạnh, cung cầu mất cân đối đã khiến thị trường ngoại hối nhiều lúc rơi
vào cảnh “đóng băng”.
Các ngân hàng thương mại không có nguồn USD nên không thể bán cho
doanh nghiệp. Để có USD thanh toán, doanh nghiệp phải mua ngoài thị trường
tự do với tỷ giá cao hơn nhiều so với giá các ngân hàng công bố.
Hơn nữa, trong thời điểm đó, tâm lý găm giữ USD tăng mạnh khiến nhiều
người dân đổ xô đi mua dự trữ chờ giá lên. Các yếu tố này đã khiến thị trường
ngoại hối căng thẳng.
Tình hình hiện nay đã khác. Một doanh nghiệp nhập khẩu máy tính cho
biết, việc Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tăng tỉ giá liên ngân hàng không ảnh
hưởng nhiều tới tỷ giá mua bán USD trên thị trường tự do. Thậm chí, tỷ giá
ngoài thị trường tự do còn giảm so với cách đây hơn một tháng. Hiện tỷ giá bên
ngoài chỉ còn 18.300 đồng/USD, mua số lượng nhiều cũng có.
Giảm tình trạng găm giữ
Theo một số ngân hàng thương mại, việc tỷ giá chính thức tăng lên là một
biện pháp tích cực, giúp thị trường ngoại tệ bớt căng thẳng nguồn cung. “Tỷ giá
tại các ngân hàng đã tiến sát hơn với tỷ giá ngoài thị trường tự do làm giảm sức
ép cho các ngân hàng thương mại.

Nhiều doanh nghiệp đã cảm thấy hài lòng hơn với tỷ giá hiện tại và chấp
nhận bán USD cho ngân hàng”, ông Nguyễn Thanh Toại - Phó Tổng giám đốc
Ngân hàng Á Châu (ACB) cho biết. và việc tỷ giá liên ngân hàng tăng trong
thời gian gần đây giúp thị trường ngoại hối bớt căng thẳng hơn, trạng thái ngoại
tệ tại các ngân hàng thương mại đỡ bị “âm”.
Tuy nhiên, nhu cầu mua vẫn nhiều hơn bán, thể hiện qua việc nhiều ngân
hàng vẫn để mức giá mua - bán ngoại tệ bằng nhau ở mức kịch trần. trong ngày
10/9 tại TT liên ngân hang tỉ giá là 17833 ở mức cao nhất, tỉ giá yết tại các NH
lên mức kịch trần giá mua bằng giá bán để cạnh tranh với TT chợ đen. “Nguồn
ngoại tệ của Vietcombank chủ yếu phục vụ cho những trường hợp cấp bách.
Khi nào có sự chênh lệch giữa giá mua và bán ở các ngân hàng thì lúc đó tỷ giá
sẽ hết căng thẳng”
Trong thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước đã kiên trì với chính sách điều
hành tỷ giá, không tăng thêm biên độ khiến cho kỳ vọng tăng giá của USD giảm
xuống, tình trạng găm giữ ngoại tệ giảm hẳn, nhiều doanh nghiệp và người dân
đã quyết định bán USD cho ngân hàng.
Theo các chuyên gia kinh tế, chính sách điều hành linh hoạt theo sát thị
trường, tăng tỷ giá có kiểm soát sẽ làm cho tình trạng găm giữ ngoại tệ giảm
xuống, đồng thời kích thích xuất khẩu. Theo Ngân hàng Nhà nước, việc điều
hành tỷ giá linh hoạt theo tín hiệu thị trường nằm trong chủ trương chung của
Chính phủ. Do đó, tính thanh khoản của thị trường ngoại hối đã được cải thiện.
Nhiều ngân hàng thương mại đã mua được ngoại tệ từ khách hàng, đặc biệt là
các doanh nghiệp xuất khẩu, giúp cho trạng thái ngoại tệ của hệ thống ngân
hàng thương mại được cải thiện.
Theo đó, Một loạt quyết định mới được Thống đốc Nguyễn Văn Giàu
công bố tháng 12/2009 tại trụ sở Ngân hàng Nhà nước. Theo đó, tỷ giá bình
quân liên ngân hàng sẽ được điều chỉnh lên mốc kỷ lục mới 17.961 đồng ăn một
đôla, tăng thêm 5,44% so với trước đó . Đồng thời, biên độ tỷ giá giảm từ 5%
hiện nay xuống còn 3% (khống chế tỷ giá kinh doanh tại các ngân hàng không
được cao quá hoặc thấp hơn 3% so với tỷ giá liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà

nước công bố hằng ngay). Tính chung cả việc tăng tỷ giá liên ngân hàng và
giảm biên độ, tỷ giá chính thức sẽ tăng thêm 3,44%, qua đó cho đưa trần tỷ giá
kinh doanh tại các ngân hàng thương mại lên 18.500 đồng vào ngày mai, thay vì
mức 17.885 đồng ăn một đôla ngày hôm nay.
Thống đốc Nguyễn Văn Giàu coi đây là biện pháp can thiệp nhanh và
mạnh nhằm bình ổn thị trường ngoại hối đang hết sức căng thẳng.
Ngày 2/12, trong tuần qua từ 27/12 đến 2/12, doanh số giao dịch ngoại tệ
trên thị trường liên ngân hàng đã tăng khá mạnh. Cụ thể, doanh số giao dịch trên
thị trường liên ngân hàng bình quân đạt khoảng 557 triệu USD/ngày.
Ngày 10/2/2010, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN)
ban hành Thông tư số 03/2010/TT-NHNN quy định mức lãi suất tiền gửi tối đa
bằng USD của tổ chức kinh tế tại tổ chức tín dụng và Quyết định điều chỉnh tỷ
giá bình quân liên ngân hàng.
Theo đó, kể từ ngày 11/2/2010, mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng đô la Mỹ
của tổ chức kinh tế (trừ tổ chức tín dụng) tại tổ chức tín dụng tối đa là 1%/năm.
Đối với lãi suất tiền gửi có kỳ hạn bằng đô la Mỹ phát sinh trước thời điểm
thông tư có hiệu lực thi hành, thì được tiếp tục thực hiện cho đến hết thời hạn đã
thoả thuận.
Về tỷ giá, NHNN quy định, tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa USD và
VND áp dụng cho ngày 11/2/2010 là 18.544 VND/USD. Như vậy, so với tỷ giá
bình quân liên ngân hàng ngày 10/2 tăng thêm 603 đồng/USD (tương ứng tăng
3,36%).
NHNN cho biết, mục đích của các quyết định trên là nhằm cân đối hài
hoà cung - cầu ngoại tệ, tăng cường sự lưu thông trên thị trường ngoại tệ, góp
phần kiểm soát nhập siêu và ổn định kinh tế vĩ mô.
Tỷ giá liên ngân hàng là mức tham chiếu để các ngân hàng thương mại ấn
định giá kinh doanh của mình bằng cách cộng hoặc trừ thêm biên độ. Như vậy
với biên độ biến động tỷ giá là +/-3%, ngân hàng có thể mua/bán USD với giá
trần là 19.100 đồng/USD.
Trước đó, thời gian qua do chênh lệch giá USD niêm yết và giá USD giao

dịch ngoài thị trường tự do quá cao, thường trên 1.000 đồng/USD nên các
doanh nghiệp xuất khẩu không muốn bán USD cho ngân hàng dẫn đến tình
trạng khan hiếm USD.
Vì thế, theo các chuyên gia tài chính- ngân hàng, việc ban hành các quyết
định này của NHNN ở thời điểm này là cần thiết và phù hợp, giải tỏa được tình
trạng khan nguồn cung ngoại tệ, tăng sự lưu thông, giải quyết khó khăn cho
doanh nghiệp…
Vào lúc 8h30 sáng (11/2), Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam vẫn
niêm yết giá mua vào - bán ra lần lượt ở mức 18.495 - 18.880 đồng/USD.
Các đại lý thu đổi ngoại tệ trên địa bàn Hà Nội cho biết không còn USD
để bán vì sức mua bất ngờ tăng mạnh cuối chiều qua.
Như vậy, đây là lần thứ hai trong vòng gần 3 tháng qua, NHNN tăng tỷ
giá liên ngân hàng, tổng cộng hai lần tăng gần 9%.
So với tuần trước, doanh số giao dịch tuần này có sự tăng lên với khối
lượng khá nhiều đối với cả VND và USD trong đó doanh số giao dịch bằng
VND tăng 14.105 tỷ đồng, bằng USD tăng 756 triệu USD.
Đây được cho là kết quả tích cực sau các biện pháp can thiệp, thị trường
ngoại hối khiến cho tính thanh khoản của thị trường ngoại tệ được cải thiện
đáng kể.
Báo cáo của Ngân hàng Nhà nước cho biết, tuần từ 22/2 đến 1/3/2010,
tổng doanh số giao dịch ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng đạt xấp xỉ 2.261
triệu USD, bình quân đạt khoảng 452 triệu USD/ngày. So với tuần liền trước,
doanh số giao dịch trên thị trường liên ngân hàng tuần này giảm tới 496 triệu
USD.
III. Những tồn tại và giải pháp.
Trong thời gian vừa qua thì tình trạng khan hiếm ngoại tệ trên thị trường
diễn ra rất phổ biến, các doanh nghiệp nhập khẩu rất cần ngoại tệ để giao dịch
nhưng tỷ giá trên thị trường chợ đen luôn cao hơn tỷ giá Ngân hàng niêm yết.
Trong khi tổng thể cung cầu ngoại tệ thì không thiếu mà trên thị trường luôn
xảy ra tình trạng thiếu ngoại tệ.

Trong giai đoạn nửa đầu năm 2009:
- Doanh nghiệp và người dân đều biết nền kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục
đương đầu với những khó khăn do khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Các nguồn
cung ngoại tệ cho nền kinh tế đều giảm sút, thậm chí một số lĩnh vực còn giảm
sút rất mạnh. Từ suy nghĩ đó đã tạo ra tâm lý lo ngoại sự mất giá mạnh của
VND dẫn đến găm giữ ngoại tệ.
Hàng năm, số dư tiền gửi của tổ chức kinh tế lên xuống khá mạnh theo
chu kỳ xuất, nhập khẩu, tạo ra sự lưu thông của nguồn ngoại tệ nhằm tự điều tiết
cung, cầu ngoại tệ trên thị trường. Bốn tháng đầu năm 2009 số ngoại tệ này hầu
như đóng băng. Bên cạnh đó, hoạt động đầu cơ trên thị trường chợ đen cũng
thừa cơ trỗi dậy.
- Từ cuối năm 2008, Chính phủ đã đưa ra các gói gồm nhiều giải pháp
đồng bộ chống khủng hoảng, trong đó có nhóm giải pháp hỗ trợ 4% lãi suất vay
vốn ngân hàng bằng VND cho cả ba kỳ hạn: ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Thực tế chứng minh các giải pháp trên là đúng đắn và kịp thời. Nhưng
cũng có một thực tế là khi tiến hành hỗ trợ lãi suất vay VND 4% đã đưa mặt
bằng lãi suất vay VND thực tế của doanh nghiệp và dân cư xuống 5 - 6% (một
số trường hợp còn thấp hơn). Mặt bằng lãi suất này cũng bằng mặt bằng lãi suất
cho vay ngoại tệ hiện hành của hệ thống ngân hàng thương mại.
Điều này vô hình chung đã khuyến khích các doanh nghiệp có nhu cầu
ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ tiến hành vay vốn bằng VND để
mua ngoại tệ của các ngân hàng thương mại thay vì vay vốn bằng ngoại tệ (hiệu
quả kinh tế như nhau lại không bị rủi ro về biến động tỷ giá). Thậm chí nhiều
doanh nghiệp đang có số dư vay vốn ngân hàng bằng ngoại tệ cũng tìm mọi
cách vay VND mua ngoại tệ để trả nợ trước hạn vốn vay ngoại tệ cho ngân
hàng. Thực tế này đã làm tăng đột biến nhu cầu mua ngoại tệ trong nền kinh tế.
- Bên cạnh đó, còn có hiện tượng phổ biến là nhiều doanh nghiệp có nguồn
thu ngoại tệ, dùng ngoại tệ để thế chấp vay VND. Theo tính toán gửi ngoại tệ tại
ngân hàng để lấy lãi suất 2% đến 3%, vay VND sau hỗ trợ phải trả từ 5% đến
6%, như vậy thực tế phải trả lãi vốn vay ngân hàng ở mức 2% - 3%. Do vậy,

theo tính toán của họ đi vay ngân hàng không những không phải trả lãi mà còn
được hưởng lãi.
Giai đoạn cuối năm 2009 và đầu năm 2010
- Giai đoạn này tình trạng khan hiếm ngoại tệ tuy có phần giảm những vấn
rất căng thẳng. Các Doanh nghiệp xuất khẩu khi có USD vẫn găm giữ lại, không
chịu bán cho các ngân hàng. Đây là một lựa chọn có mục đích chính là để dự
phòng rủi ro tỷ giá trong tương lai (vốn đã có nhiều trường hợp phải trả giá đắt
trong năm 2008), bởi chính các doanh nghiệp cũng cần ngoại tệ cho hoạt động
nhập khẩu hàng hóa phục vụ cho sản xuất để xuất khẩu; một mục đích khác là
sự găm giữ có kỳ vọng tỷ giá sẽ tiếp tục tăng, hay nói cách khác mức giá các
ngân hàng trả theo quy định hiện nay tỏ ra chưa hấp dẫn doanh nghiệp.
- Một nguyên nhân khác của việc doanh nghiệp không chịu bán lại ngoại tệ
là do “tác dụng phụ” của chính sách hỗ trợ lãi suất vay vốn VND. Lãi suất vay
VND sau hỗ trợ chỉ khoảng 5% - 6%/năm, trong khi vay USD cũng có lãi suất
gần tương ứng và còn phải chịu rủi ro tỷ giá khi mua ngoại tệ trả nợ trong tương
lai. Điều này khiến nhiều doanh nghiệp lựa chọn giải pháp tìm mua USD thay vì
vay USD.
- Một nguyên nhân sâu xa khác là do chính sách “neo” đồng Việt Nam vào
USD quá lâu.
Nhiều năm qua, nhằm tạo ra chiếc “ô”, “che mưa, nắng” cho doanh
nghiệp, Chính phủ đã thực hiện chính sách “neo” tỷ giá VND vào USD. Mặc dù
hiện tại biên độ được nới lỏng lên +/- 5% nhưng chiếc “ô” này vẫn là công cụ
hữu hiệu đem lại niềm tin và an toàn để doanh nghiệp yên tâm hoạt động. Qua
đó, họ dự báo được tình hình và tính toán được lợi nhuận để lên kế hoạch sản
xuất kinh doanh.
Trong hoạt động kinh tế, động lực của doanh nghiệp là phải ước lượng
trong tương lai họ kiếm được bao nhiêu tiền. Bởi vậy, khi đưa ra một đề án, mọi
tính toán về lợi nhuận kỳ vọng của doanh nghiệp đều dựa trên dự báo tỷ giá vào
thời điểm nào đó trong tương lai là bao nhiêu. Nếu tỷ giá biến động thất
thường, một dự án từ chỗ đang hoạt động hiệu quả, có thể biến thành không

hiệu quả. Đổi lại, chính sách điều hành của Chính phủ phải chịu áp lực rất mạnh
mỗi khi dòng vốn ngoại vào - ra thất thường, đồng USD bị giảm giá trị so với
ngoại tệ khác hay các vụ tấn công tiền tệ. Thậm chí, khi tỷ giá bất ổn, tổng giá
trị tài sản của cả quốc gia cũng biến động theo.
Giải pháp:
- Ngân hàng Nhà nước nên kịp thời cung cấp một cách công khai, minh
bạch các thông tin cần thiết để doanh nghiệp và người dân hiểu tình hình nhắm
tránh gây bất ổn trong tâm lý của doanh nghiệp và người dân dẫn đến đổ xô
mua(bán) ngoại tệ vô căn cứ, gây hỗn loạn thị trường.
- Cần chấn chỉnh, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm về quản lý ngoại hối,
đặc biệt là các hoạt động thu đổi ngoại tệ trái phép. Ngân hàng Nhà nước cũng
có nhiều biện pháp nghiệp vụ, thanh tra tại chỗ hoạt động mua bán ngoại tệ của
các ngân hàng thương mại, xử lý nghiêm khắc các hành vi cố tình mua bán
ngoại tệ vượt trần qui định.
- Cần đa dạng hoá rổ ngoại tệ của Việt Nam, Nên ấn định tỷ giá qua nhiều
ngoại tệ khác nhau thay vì một ngoại tệ là USD.Không phụ thuộc vào USD vào
chịu ảnh hưởng quá lớn vào sự biến động của giá USD.
E. Thực trạng thị trường vàng từ đầu 2008-nay
1.Năm 2008
1.1. Trên thị trường quốc tế
Hai nỗi lo trái ngược thống trị trong năm 2008 là lạm phát và giảm phát
đã tạo những cơn sốt. Hai nỗi lo trái ngược thống trị trong năm 2008 là lạm phát
và giảm phát đã tạo những cơn sóng trồi sụt liên tục cho quý kim. Vàng nhập
cuộc khá tốt và liên tục gia tăng giá trị của nó cùng với sự leo dốc không mệt
mỏi của chỉ số lạm phát trong những tháng đầu năm, tuy nhiên nửa cuối năm
còn lại thật sự là quãng thời gian khó khăn cho giá vàng khi nó phải liên tục dò
tìm những đáy mới trong bối cảnh nỗi lo suy giảm kinh tế tòan cầu gia tăng.
Biểu đồ giá vàng quốc tế năm 2008
Năm 2008 chứng kiến sự lan rộng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn
cầu xuất phát từ sự sụp đổ thị trường địa ốc kéo theo một số lượng con nợ lớn

chưa từng thấy của thị trường cho vay dưới chuẩn tại Mỹ. Ảnh hưởng của nó đã
khiến nhiều nền kinh tế trên thế giới chao đảo và trong bối cảnh lạm phát tăng
cao, các nhà đầu tư ồ ạt chuyển vốn sang thị trường vàng - loại hàng hóa an toàn
và hấp dẫn trong thời kỳ lạm phát và xu hướng này thực sự đã tạo ra một hậu
phương hết sức vững chắc giúp quý kim thẳng tiến chinh phục những đỉnh cao
mới: vào ngày 17/03/2008, thị trường tiền tệ thế giới ghi nhận mức giá kỷ lục
trong lịch sử của giá vàng – mức 1.033,90 USD/Oz. Chỉ tính trong quý 1/2008,
vàng đã gia tăng được 14% giá trị của nó. Nỗi ám ảnh về lạm phát ngày càng đe
dọa toàn cầu, trong đó biểu hiện rõ ràng nhất là việc giá dầu cứ tiếp tục leo lên
từng mốc, mốc sau lại cao hơn mốc trước và việc FED liên tục hạ lãi suất để
chống đỡ với sự tàn phá của cuộc khủng hoảng tín dụng trong khi các NHTW
khác lại cố gắng giữ lãi suất ở mức cao nhằm kiềm chế lạm phát lại càng gây
sức ép nặng nề cho đồng USD.
Trong khi đó nguồn cung vàng có dấu hiệu giảm sút do việc khai thác
vàng ở các nước khó khăn hơn khi phải tìm vàng ở độ sâu khá lớn và trả lương
cao cho công nhân, cộng thêm những biến động về chính trị đã chắp cánh cho
giá vàng thăng hoa. Mặc dù việc giá vàng đang ở đỉnh cao ngất ngưỡng có khiến
một bộ phận các nhà đầu tư tỏ ra e ngại khiến nhu cầu mua vàng giảm 19%
trong quý 2 nhưng những diễn biến phức tạp về tình hình lạm phát của toàn cầu
cùng với sự hỗ trợ của người bạn đồng hành lâu năm của quý kim là vàng đen –
dầu thô, vàng vẫn tiếp tục giữ vững được vị thế của mình. Khi giá dầu thô cán
mốc kỷ lục 147,27 USD/thùng vào ngày 11/07/2008 bởi lực hậu thuẫn xuất phát
từ nhiều nguyên nhân: đồng USD tiếp tục mất giá, xung đột về địa chính trị lên
cao, trữ lượng dầu có phần hạn chế, hoạt động đầu cơ trên thị trường, tình hình
thời tiết không mấy thuận lợi Vàng đã tận dụng được lợi thế này và duy trì
được nó trong một khoảng thời gian khá dài.
Tuy nhiên, tính chất hầm tránh bão của vàng trong thời kỳ lạm phát đang
giảm dần bởi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu bước sang thời điểm mới: các
nền kinh tế dẫn đầu thế giới bắt đầu bộc lộ những dấu hiệu giảm tốc và nỗi lo
suy giảm tăng trưởng kinh tế mà xa hơn là suy thoái kinh tế bắt đầu làm đau đầu

các nhà lãnh đạo khu vực Châu Âu, Mỹ , Nhật, Trung Quốc Nguồn vốn trên
thị trường bắt đầu tập trung vào những tài sản có mức bảo toàn vốn cao như trái
phiếu chính phủ, tiền mặt Sự lao dốc đến chóng mặt của thị trường chứng
khóan trong thời buổi kinh tế khó khăn khiến các nhà đầu tư nhanh chóng thanh
lý hợp đồng vàng - loại hàng hóa có mức thanh khoản cao - để bù đắp những
khoản thua lỗ trên các thị trường khác. Đồng USD bất ngờ lại lấy lại được lợi
thế của mình khi các nhà đầu tư nhận ra rằng đây vẫn là đồng tiền an tòan nhất
và chiếm khối lượng giao dịch lớn nhất trên thị trường ngoại hối. Sự giằng co
giữa hai xu hướng: bán vàng bù lỗ, nắm giữ USD mặt và nhu cầu sụt giảm trong
bối cảnh suy thoái kinh tế với việc mua vào lọai hàng hóa vốn từ lâu đời có tính
an tòan và bảo tòan giá trị khiến vàng có những phiên trồi sụt thất thường và
giao động trong biên độ rộng từ 750 – 980 USD/Oz.
Nhu cầu đối với vàng với tư cách là mặt hàng an toàn không mất đi thậm chí
cả tình hình kinh tế không mấy sáng sủa, nhất là dư âm từ vụ sụp đổ Lehman
Brother và các tổ chức tài chính khổng lồ khác đã đưa giá vàng lên đỉnh cao vào

×