Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Gây mê (Kỳ 5) pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.83 KB, 6 trang )

Gây mê
(Kỳ 5)
5. Thuốc tiền mê.
+ Là thuốc dùng cho bệnh nhân trước khi gây mê hoặc gây tê để làm các
phẫu thuật từ nhỏ đến lớn nhằm mục đích:
- An thần trấn tĩnh, gây ngủ, giảm đau.
- Giảm chuyển hoá cơ bản và các kích thích, phản xạ giảm tiết.
- Nâng cao ngưỡng nhận cảm giác đau.
- Trung hoà và ngăn ngừa các tác dụng xấu của thuốc tê, mê.
Dùng thuốc tiền mê tốt và hợp lý là điều kiện tiên quyết về sử dụng thuốc
trong gây mê.
- Khi khám bệnh nhân để gây mê cần đặc biệt lưu ý:
- Tình trạng của cơ quan hô hấp, tuần hoàn, thận, gan.
- Tuổi và giới (tình trạng thai nghén nếu có).
- Các bệnh kèm theo.
- Bệnh nhân đã nhịn ăn uống được bao lâu (ít nhất là 6 giờ mới an toàn).
- Mức độ lo lắng của người bệnh.
+ Người ta thường phối hợp một trong các nhóm thuốc sau:
- Sử dụng dẫn xuất của belladon: atropin hoặc scopolamin.
- Nhằm tăng tiềm lực của thuốc gây mê do đó có tác dụng giảm liều,
thường dùng dẫn xuất của atropin hoặc dolargan.
- Nhằm làm giảm mức độ lo lắng của bệnh nhân và chống sự giải phóng
quá mức achenalin nội sinh, nguyên nhân gây ảnh hưởng xấu đến tim mạch trong
phần lớn các thuốc gây mê đặc biệt là họ halogen. Do vậy người ta thường sử
dụng:
- Phenergan (an thần và kháng histamin).
- Meprobanat.
- Atarax
- Nhằm làm giảm tiết dịch mà tiết dịch là hiện tượng gây khó chịu với
những biểu hiện như tắc nghẽn phế quản, khó khởi mê, dễ có biến chứng về phổi
sau phẫu thuật, để khắc phục người ta sử dụng atropin hoặc tốt hơn là scopolamin.


Như vậy đối với người trẻ, khoẻ, trước khi gây mê từ 30 phút đến 1 giờ cần
tiêm vào bắp thịt hỗn hợp thuốc tiền mê gồm:
- Atropin sulfase: 1/4 - 1/2 mg.
- Phenergan: 25 mg hoặc propofone 0,05 mg.
. Dlargan (hoặc promedal 0,02 mg).
Hoặc:
. Atropin sulfase: 1/4 - 1/2mg.
. Seduxen 10mg.
Hoặc có thể dùng một số công thức tiền mê khác.
Điều bất lợi của các thuốc tiền mê là chúng làm thay đổi các dấu hiệu của
gây mê, do đó cần phải biết được ảnh hưởng của chúng sau cuộc gây mê.
Ví dụ: atropin làm nhịp tim nhanh và giãn đồng tử, dolargan, promedol và
đặc biệt là fentanyl (thuốc giảm đau tổng hợp) làm co đồng tử và suy thở cũng như
ảnh hưởng tới nhịp thở, seduxen làm mềm cơ (cho nên không sử dụng cho bệnh
nhân bị bệnh nhược cơ)
6. Những thuốc sử dụng trong gây mê.
6.1. Thuốc mê bay hơi và thể khí:
Là những thuốc bốc hơi để gây mê, việc sử dụng chúng dựa trên cơ sở các
bình bay hơi và các khí ở đầu ra của các bình này được trộn theo tỷ lệ nhất định.
+ Ether, vinecther.
+ Những thuốc họ halogen: fluothane, penthrane có nguồn gốc từ fluo.
Chloroforme, trichloretylene và chlorure ethyl có nguồn gốc từ clo.
+ Mới nhất và hầu như không độc hiện nay là servofrane.
+ Hai thuốc mê thể khí cơ bản là: cyclopropane và protoxyde azote.
Mỗi loại thuốc có tác dụng dược lý riêng, do đó mà tác dụng gây mê của
chúng có những điểm khác nhau với gây mê đơn thuần bằng ether như đã nêu ở
phần trước.
6.2. Những thuốc gây ngủ đường tĩnh mạch.
Những thuốc này có cấu trúc hoá học cơ bản hoàn toàn khác so với các
thuốc gây ngủ thể khí, không giống như trong sơ đồ mô tả của Guedel.

Tuy nhiên, các thuốc họ bacbituric thường gây suy thở, thậm chí ngừng thở
do tác dụng chọn lọc của chúng lên các trung khu hô hấp tại hành não.
Theo dõi trên lâm sàng cho thấy tác dụng của các thuốc này hoàn toàn khác
nhau.
+ Những thuốc chính kể đến là:
- Các thuốc bacbituric: peniotal, ketamin, etomidat, propofol
- Viadril - một dẫn xuất tổng hợp của steroid.
- Detrovel.
- Hemimurine - một hemimolecul của vitamin B
1.
- Axit hydroxy butiric hay gama - OH.
+ Các thuốc có tác dụng giảm đau trung tâm họ morphin thường dùng để
tăng tác dụng của thuốc ngủ là:
- Morphin.
- Dolargan.
- Palffium.
- Phenoferidin.
- Fentanyl.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×