Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

TRIẾT LÝ “TRỒNG NGƯỜI” CỦA HỒ CHÍ MINH VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI HIỆN NAY Ở HUYỆN HẢI LĂNG, TỈNH QUẢNG TRỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (549.67 KB, 69 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
  
BÙI NHƯ TRƯỜNG GIANG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CỬ NHÂN TRIẾT HỌC
Huế, 05 – 2011
ĐẠI HỌC HUẾ
1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
  
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
CỬ NHÂN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI:
TRIẾT LÝ “TRỒNG NGƯỜI” CỦA HỒ CHÍ MINH
VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI
HIỆN NAY Ở HUYỆN HẢI LĂNG, TỈNH QUẢNG TRỊ
Giáo viên hướng dẫn: Sinh viên thực hiện:
Th.s. Hoàng Ngọc Vĩnh Bùi Như Trường Giang
Triết K31
Huế, 05 - 2011
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của khóa luận
Chủ tịch Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn
hóa thế giới; tư tưởng của Người là tài sản vô giá của Đảng và dân tộc ta, luôn
là ngọn cờ đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác
ngày càng lớn hơn.
Hơn 80 năm chiến đấu và xây dựng dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác -


Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn
Đảng, toàn dân giành được những thắng lợi vĩ đại, giành được độc lập tự do,
đang từng bước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong tư tưởng của mình,
Hồ Chí Minh đặc biệt rất coi trọng vấn đề xây dựng con người có đủ đạo đức
và tài năng, Người đã xác định: “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì trước
hết cần có những con người chủ nghĩa xã hội”. Như vậy, sự thành công của
chủ nghĩa xã hội là do những con người chủ nghĩa xã hội quyết định.
Ngày nay, trong quá trình đổi mới của đất nước, chúng ta đã thu được
những thành tựu bước đầu: nền kinh tế đang trên đà phát triển, đời sống người
dân được nâng cao… Điều đó thể hiện tư duy kịp thời đổi mới của Đảng ta,
sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Tuy nhiên, do tác động của nền kinh tế thị trường, một bộ phận cán bộ,
đảng viên và người dân đã có những biểu hiện suy thoái về mặt đạo đức, chạy
theo đồng tiền, xa rời lý tưởng cách mạng, coi thường pháp luật. Mặt khác,
các thế lực thù địch ra sức thực hiện âm mưu cơ bản, lâu dài của chúng là xóa
bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong chiến lược Diễn biến hòa bình, tấn công trên mặt trận tư tưởng - văn
hóa được coi là mũi đột phá, các thế lực thù địch đang công kích chống phá
3
một cách có hệ thống trên tất cả các luận điểm và nội dung cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh hòng làm tan rã niềm tin, tạo sự
hỗn loạn về lý luận và tư tưởng, gây ra sự dao động, hoài nghi về con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội, tạo ra khoảng trống trong nhận thức tư tưởng, nhằm
đi tới xóa bỏ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa.
Chính vì vậy bên cạnh việc xây dựng một nguồn nhân lực chất lượng
cao, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
thì việc giáo dục, bồi dưỡng đạo đức, lý tưởng cách mạng cho con người, đặc
biệt là đội ngũ cán bộ, đảng viên là yêu cầu cấp thiết đặt ra. Con người là

trung tâm của mọi sự phát triển, để đưa đất nước Việt Nam phát triển di lên
theo con đường chủ nghĩa xã hội thì cần phải có những con người có phẩm
chất và năng lực, có lý tưởng cách mạng, đảm bảo cho sự thành công của sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Để có những con người có thể đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng
đất nước, cần phải có chiến lược “trồng người”. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “vì
lợi ích mười năm thì phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng
người”. “Trồng người” là sự nghiệp chung của cả nước, tuy nhiên, các địa
phương cần có chiến lược “trồng người” phù hợp với những đặc điểm riêng
của địa phương mình, lấy tư tưởng Hồ Chí Minh về con người mới chủ nghĩa
xã hội làm chuẩn mực.
Chính vì những lý do trên, mà việc nghiên cứu những quan điểm của
Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người nói chung và triết lý “trồng người”
nói riêng là rất quan trọng và cần thiết. Vì thế, tôi chọn đề tài: “Triết lý trồng
người của Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người mới hiện nay ở
huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
4
Tuy nhiên, do hạn chế về mặt thời gian và điều kiện nghiên cứu nên
không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự đánh giá, góp ý
của quý thầy cô và những ai quan tâm.
2. Tình hình nghiên cứu khóa luận
Nghiên cứu về vấn đề con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã có khá
nhiều các công trình của các nhà khoa học, nhà nghiên cứu, như:
• Thành Duy, Tư tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con người
Việt Nam phát triển toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
• Đặng Xuân Kỳ, Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa và con
người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
• Trần Xuân Trường, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2008.
Ngoài ra, còn có những công trình của nhiều nhà nghiên cứu khác có nội

dung liên quan đến khóa luận đã được đăng trên các báo, tạp chí khác, như:
Vũ Thị Kim Dung với Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người đăng trên Tạp chí
Khoa học chính trị, số 2-1998; Hoàng Đình Tỉnh với Giáo dục, bồi dưỡng thế
hệ trẻ Việt Nam hiện nay theo Di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh đăng trên
Tạp chí Lý luận chính trị, số 7-2009…
Vấn đề con người hiện nay rất được Đảng và Nhà nước ta quan tâm.
Việc phát triển con người được xem là nhiệm vụ trọng điểm, chính vì vậy mà
đã có rất nhiều công trình nghiên cứu vấn đề này. Các công trình nghiên cứu
nói trên, nhìn chung, đã quan tâm nghiên cứu vấn đề con người, nghiên cứu
bản chất và vai trò của con người và việc phát triển con người trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, khái quát được tư tưởng Hồ Chí Minh về con người. Tuy nhiên,
ít có công trình nào đề cập đến triết lý “trồng người” trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Khóa luận này cố gắng chỉ ra triết lý “trồng người” của Chủ tịch Hồ
5
Chí Minh và sự vận dụng triết lý ấy trong sự nghiệp xây dựng con người mới
ở huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của khóa luận
Mục đích của khóa luận là: làm rõ “Triết lý trồng người của Hồ Chí
Minh với sự nghiệp xây dựng con người mới hiện nay ở huyện Hải Lăng,
tỉnh Quảng Trị”.
Nhiệm vụ của khóa luận là: Cố gắng chỉ ra triết lý “trồng người” của
Hồ Chí Minh; khái quát thực trạng vấn đề con người hiện nay ở Hải Lăng,
Quảng Trị; đề xuất một số giải pháp vận dụng triết lý “trồng người” của Hồ
Chí Minh nhằm đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng con người mới hiện nay ở
huyện Hải Lăng, Quảng Trị.
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của khóa
luận
Cơ sở phương pháp luận của khóa luận là Phép biện chứng duy vật và
các phướng pháp của Hồ Chí Minh.
Phương pháp nghiên cứu của khóa luận là các phương pháp phân tích

-tổng hợp, lôgíc - lịch sử Đề tài cũng vận dụng kết quả của một số công
trình có liên quan của các nhà khoa học khác để làm rõ mục đích đề tài nêu ra.
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của khóa luận
Về không gian là huyện Hải Lăng tỉnh Quảng Trị.
Về thời gian là giai đoạn hiện nay (từ 1986 đến 2011).
Về nội dung là triết lý “trồng người” của Hồ Chí Minh; chiến lược
“trồng người” hiện nay ở huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.
6. Đóng góp của khóa luận
Trình bày một cách có hệ thống triết lý “trồng người” của Hồ Chí Minh
với những giải pháp xây dựng con người xã hội chủ nghĩa hiện nay ở huyện
Hải Lăng, Quảng Trị.
6
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài có
kết cấu thành hai chương:
Chương 1: Những nội dung cơ bản về triết lý “trồng người” của Hồ
Chí Minh.
Chương 2: Vận dụng triết lý “trồng người” của Hồ Chí Minh vào sự
nghiệp xây dựng con người mới hiện nay ở huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị.
7
NỘI DUNG
Chương 1:
NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN
TRONG TRIẾT LÝ “TRỒNG NGƯỜI” CỦA HỒ CHÍ MINH
1.1. Các tiền đề của triết lý “trồng người” trong tư tưởng Hồ Chí Minh
1.1.1. Triết lý nhân sinh của Việt Nam là tiền đề trực tiếp của tư tưởng
Hồ Chí Minh về triết lý “trồng người”
Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã
hình thành cho mình những “giá trị truyền thống hết sức đặc sắc và cao
quý”[4; 28]. Những giá trị đó đã trở thành một trong những tiền đề tư tưởng,

lý luận xuất phát cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam theo GS Trần
Văn Giàu, bao gồm: yêu nước, cần cù, sáng tạo, anh hùng, lạc quan, thương
người, vì nghĩa. Còn theo GS Vũ Khiêu, đạo đức truyền thống đó bao gồm:
lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động cần cù và sáng tạo, tinh thần
nhân đạo, lòng yêu thương và quý trọng con người. Tuy nhiên, cho dù đạo
đức truyền thống ấy là gì thì trong cái kho tàng ấy, luôn nổi bật lên một tư
tưởng nhân sinh, vì con người, yêu thương con người. Tư tưởng nhân sinh
truyền thống đó luôn chiếm giữ một vị trí quan trọng trong những giá trị
truyền thống của dân tộc, và nó đã trở thành tiền đề trực tiếp cho sự ra đời của
tư tưởng Hồ Chí Minh, mà trước hết là triết lý “trồng người”.
Tư tưởng nhân sinh là một trong những giá trị đạo đức truyền thống nổi
bật của dân tộc Việt Nam. Tư tưởng nhân sinh đó, có cội nguồn sâu xa từ
trong đời sống lao động sản xuất của người dân Việt Nam từ ngàn xưa. Và
theo dòng lịch sử, trong quá trình dựng nước và giữ nước, cùng với sự giao
lưu văn hóa, những tư tưởng nhân sinh truyền thống nguyên thủy của dân tộc
8
Việt Nam đã tiếp thu, hấp thụ những tinh hoa văn hóa từ bên ngoài làm cho tư
tưởng nhân sinh của Việt Nam trở nên phong phú và đa dạng hơn. Những tinh
hoa văn hóa tiếp thu từ bên ngoài, đã được “Việt hóa” cho phù hợp với truyền
thống Việt Nam, trải qua các thế hệ, tư tưởng nhân sinh đó được nâng lên tầm
triết lý. Như vậy, triết lý nhân sinh của Việt Nam là sự hòa quyện giữa những
giá trị truyền thống của dân tộc với những tinh hoa văn hóa hấp thụ từ bên
ngoài với những điểm tương đồng, mà chủ yếu là văn hóa phương Đông. Nói
như PGS Hồ Kiếm Việt, triết lý nhân sinh Việt Nam là sự hòa quyện giữa bản
sắc dân tộc với những “triết lý phương Đông đã được Việt Nam hóa”[26; 63].
Các tư tưởng nhân sinh như: tư tưởng nhân nghĩa của Nho giáo, “từ bi”
của Phật giáo, đã có ảnh hưởng sâu sắc trong lòng người dân Việt Nam,
nhưng nó không hoàn toàn là sự sao chép mà đó là một sự khúc xạ, chắt lọc
những nhân tố phù hợp với đời sống con người Việt, tạo nên một triết lý nhân

sinh đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Phạm trù “nhân” trong Nho giáo, đó
là “kỷ sở bất dục vật thi ư nhân”, là “kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ dục đạt nhi
đạt nhân”, là “khắc kỷ phục lễ vi nhân”. Đó là những tư tưởng nhân nghĩa vô
cùng sâu sắc, tuy nhiên, nhân nghĩa đó, theo Nho giáo chỉ có ở người quân tử.
Còn ở Việt Nam, Nguyễn Trãi coi cốt lõi nhân nghĩa là ở dân, của dân, “việc
nhân nghĩa cốt ở yên dân”, nhân là lòng yêu thương con người không phân
biệt giai cấp, chủng tộc.
Đối với “từ bi” của Phật giáo, đó thực chất là lòng thương người rộng
lớn, vị tha, vì người khác, không kể người đó là ai. Điều này thể hiện trong tư
tưởng “giải thoát chúng sinh” ra khỏi vòng luân hồi bất tận của đức Phật. Tuy
nhiên, có thể nhận thấy rằng, người dân Việt Nam, trên cơ sở truyền thống
dân tộc, đã tiếp thu tư tưởng nhân sinh của Phật giáo, nhưng không phải tu
hành mong cứu rỗi cuộc đời mà là đoàn kết đấu tranh, bảo vệ cái đúng, chống
9
lại mọi cái xấu. Những tư tưởng nhân sinh đó của Phật giáo đã tham gia vào
đời sống xã hội của con người Việt Nam.
Như vậy, có thể thấy rằng, triết lý nhân sinh truyền thống của dân tộc
Việt Nam là sự kết hợp những tư tưởng nhân sinh đã có từ ngàn xưa với
những tư tưởng nhân sinh hấp thụ được từ bên ngoài, mà những tư tưởng
nhân sinh đó đã được “Việt hóa”. Triết lý nhân sinh đó thể hiện trong đời
sống gia đình và xã hội, trong việc làm và nếp nghĩ của người dân Việt Nam.
Triết lý nhân sinh đó xuất phát từ con người, lấy con người làm trung tâm,
“đặt con người Việt Nam trong quan hệ ruột thịt của cộng đồng, vốn sinh ra
từ một gốc và quan hệ sống còn với đất nước – nơi chôn nhau cắt rốn mà
chính mình đã đổ mồ hồi, xương máu dựng xây, bảo vệ”[26; 65].
Triết lý nhân sinh truyền thống của dân tộc Việt Nam, thể hiện trước
hết ở việc xác định nguồn gốc con người. Từ ngàn xưa, dân tộc Việt Nam đã
có truyền thuyết về Lạc long Quân và Âu Cơ sinh trăm trứng nở trăm con.
Điều này cho thấy, trong quan niệm nhân sinh của người dân Việt Nam, con
người Việt Nam là do cùng một cha mẹ sinh ra, là ruột thịt với nhau, vừa mới

sinh ra đã là một cộng đồng, là “đồng bào”. Cũng chính vì thế mà người dân
Việt Nam luôn lấy tình yêu thương, lòng nhân ái để đối xử với nhau. Tình
nghĩa nhân ái đã trở thành đạo lý sống của người dân. Điều này thể hiện rất rõ
trong những câu ca dao tục ngữ:
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau cùng.
Hay:
Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Mối quan hệ thân thiết, gắn bó với nhau giữa người với người trong
một cộng đồng, giữa cộng đồng với quê hương đất nước đã thể hiện rõ rệt
10
trong cái tình cảm “trong một nước”, “chung một giàn” ấy. Cũng nhờ cái tình
cảm ấy mà con người Việt Nam luôn sống hòa đồng với nhau, luôn tương trợ
giúp đỡ lẫn nhau với tinh thần “lá lành đùm lá rách”.
Lòng nhân ái, yêu thương con người của nhân dân Việt Nam thể hiện
trong các mối quan hệ của con người trong gia đình, trong cộng đồng xã hội,
dù ở đâu thì con người Việt Nam luôn thể hiện một tinh thần đoàn kết chặt
chẽ với nhau. Trải qua biết bao khó khăn, do thiên tai, địch họa, con người
Việt Nam luôn luôn đoàn kết một lòng, cùng nhau vượt qua mọi khó khăn,
thử thách với tinh thần: “Một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên
hòn núi cao”.
Triết lý nhân sinh truyền thống của Việt Nam không chỉ thể hiện ở lòng
yêu thương, nhân ái, đoàn kết với nhau giữa những con người trong một cộng
đồng với nhau, mà nó còn thể hiện ở lòng bao dung, vị tha, “đánh kẻ chạy đi
không ai đánh kẻ chạy lại”. Lòng bao dung, vị tha dường như là một đạo lý
sống của con người Viêt Nam, tấm lòng đó không phân biết đối với bất kỳ
một ai, ngay đối với kẻ thù cũng vậy. Lịch sử là một minh chứng hùng hồn
cho điều này, chúng ta đã luôn lấy lòng nhân nghĩa để đối đãi với kẻ thù.
Ngay từ ngàn xưa, khi lịch sử nước ta chưa thành văn, chúng ta đã có truyền

thuyết về người anh hùng Thạch Sanh, với lòng thương người, Thạch Sanh đã
dùng tiếng đàn nhân nghĩa để cảm hóa kẻ thù, và khi chúng đã đầu hàng thì
ban cho chúng niêu cơm nhân nghĩa, không để chúng bị đói trở về. Cũng với
lòng nhân nghĩa đó, Nguyễn Trãi sau khi đánh bại lũ giặc ngoại xâm cũng đã
cung cấp thuyền bè, lương thực cho chúng trở về nước thuận lợi. Điều này
không chỉ thể hiện tấm lòng vị tha của dân tộc Việt Nam, mà hơn hết nó đã
thể hiện một triết lý nhân sinh cao cả: Tất cả con người đều là đồng loại của
nhau, cần phải dùng lòng nhân nghĩa để đối đãi với nhau.
11
Như vậy, triết lý nhân sinh của Việt Nam đặt con người ở vị trí trung
tâm, con người là vốn quý hơn cả mà không có bất cứ một điều gì có thể so
sánh được, bởi vì “người ta là hoa của đất”. Quý trọng con người, thương yêu
con người và giáo dục con người phải thường xuyên tu dưỡng là những giá trị
đạo đức truyền thống, thể hiện triết lý nhân sinh sâu sắc của dân tộc Việt
Nam. GS Vũ Ngọc Khánh đã viết: “truyền thống đạo đức Việt Nam là truyền
thống giáo dục con người phải tu dưỡng trọn đời để nên người, dựng làng và
giữ nước. Chính từ truyền thống đạo đức này, mà có lòng yêu nước, lòng
nhân ái và những đức tình cần cù, giản dị…”
Xuất thân trong một gia đình có truyền thống giáo dục, ở một miền quê
giàu truyền thống, Hồ Chí Minh đã thấm đượm triết lý nhân sinh truyền thống
của dân tộc ngay từ những ngày còn bé. Tấm lòng Hồ Chí Minh luôn hướng
về con người, hướng về nhân dân, Người đã thấy được con người luôn ở vị trí
trung tâm, thấy được tầm quan trọng của việc giáo dục, bồi dưỡng nhằm phát
huy vai trò của con người. Vì thế, có thể khẳng định, triết lý nhân sinh truyền
thống của dân tộc Việt Nam là tiền đề trực tiếp cho sự ra đời của tư tưởng Hồ
Chí Minh về con người, mà trước hết là triết lý “trồng người”.
1.1.2. Triết học Mác–Lênin về bản chất con người là tiền đề cốt lõi của tư
tưởng Hồ Chí Minh về triết lý “trồng người”
Chủ nghĩa Mác–Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận cho
sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. “Việc tiếp thu chủ nghĩa Mác–Lênin ở

Hồ Chí Minh diễn ra trên nền tảng của những tri thức văn hóa tinh túy đã
được chắt lọc, hấp thụ và một vốn chính trị, vốn hiểu biết phong phú, được
tích lũy qua thực tiễn hoạt động, đấu tranh vì mục tiêu cứu nước và giải
phóng dân tộc.”[4; 31]
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác–
Lênin một cách sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Trong số những
12
giá trị to lớn mà Hồ Chí Minh hấp thụ được từ chủ nghĩa Mác–Lênin, thì triết
học Mác–Lênin về bản chất của con người chính là tiền đề cốt lõi cho sự hình
thành triết lý “trồng người” trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Triết học Mác–Lênin, trên cơ sở kế thừa những quan niệm về con
người trong lịch sử triết học, đã có những quan niệm đúng đắn về bản chất
con người. Có thể nói, triết học Mác đã thể hiện những quan niệm đúng đắn
về bản chất con người, đã khắc phục được những thiếu sót, sai lầm trong quan
niệm về bản chất con người của các trường phái triết học trước đó.
Vậy triết học Mác–Lênin quan niệm như thế nào về bản chất của con
người?
Trước hết, kế thừa những quan điểm tiến bộ trong lịch sử triết học, và
dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên, mà trực tiếp là thuyết tiến
hóa và thuyết tế bào, triết học Mác khẳng định: con người là một thực thể
thống nhất giữa mặt sinh học với mặt xã hội.
Con người là sản phẩm của thế giới tự nhiên, là một bộ phận của giới tự
nhiên, chính vì thế mà “con người tự nhiên” mang tất cả những bản tính sinh
học, tính loài. “Giới tự nhiên… là thân thể vô cơ của con người… đời sống
thể xác và đời sống tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên”. Con
người vốn có nguồn gốc từ loài vượn người, trải qua một quá trình phát triển
lâu dài, phải đấu tranh để sinh tồn, luôn tìm kiếm những điều kiện cần thiết
cho sự tồn tại của mình, loài vượn đó đã tiến hóa thành con người, dần theo
bước tiến hóa đó con người dần phát triển hoàn thiện hơn. Tuy nhiên, con
người cho dù có phát triển đến đâu thì nó vẫn là một bộ phận của giới tự

nhiên, vẫn là một loài động vật bậc cao, là một thực thể sinh vật. Điều này
biểu hiện trong cá nhân con người sống, trong tổ chức cơ thể của con người
và trong mối quan hệ của con người với tự nhiên. Cũng như các loài động vật
khác, con người luôn cần phải đáp ứng đầy đủ các nhu cầu như ăn, ở đó là
13
những nhu cầu tối thiểu đảm bảo cho sự tồn tại của con người. Trong cơ thể
của con người vẫn luôn xảy ra các quá trình sinh học như trao đổi chất, trao
đổi không khí, đồng hóa và dị hóa tất cả những điều này nói lên một điều,
đó là, con người là một thực thể sinh vật.
Mặc dù con người là một loài động vật nhưng khác với các loài động
vật khác, con người là một loài động vật có ý thức, con người không chỉ là
một thực thể sinh vật mà còn là một thực thể xã hội. Phương diện xã hội
chính là đặc trưng phân biệt con người với thế giới loài vật
“Tính xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật
chất”[3; 388]. Các giá trị vật chất và tinh thần cần thiết cho đời sống của
mình, đã được con người sản xuất ra thông qua hoạt động sản xuất vật chất.
Thông qua hoạt động sản xuất vật chất con người còn phát triển tư duy, ngôn
ngữ và xác lập các quan hệ xã hội của mình. Bởi vậy, có thể nói, bản chất xã
hội của con người được hình thành thông qua lao động, đồng thời, lao động
còn là yếu tố quyết định sự hình thành của nhân cách cá nhân trong cộng đồng
xã hội. C.Mác đã khẳng định, xã hội suy cho cùng là sự tác động qua lại giữa
những con người. Con người là thành viên của xã hội, đồng thời cũng là chủ
thể tạo nên xã hội. Trong đời sống hiện thực, con người chuyển hóa sức mạnh
tự nhiên thành chính sức mạnh của chính mình, tức là tạo lập lực lượng sản
xuất, và đồng thời cũng tạo ra các quan hệ giữa người với người (quan hệ
kinh tế, chính trị, tinh thần, ). Đó là những quan hệ của con người trong một
cộng đồng, xã hội.
Như vậy, chủ nghĩa Mác đã khẳng định, con người là một thực thể
thống nhất giữa mặt sinh học với mặt xã hội. “Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự
nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con

người với loài vật”[3; 389]. Hai mặt này thống nhất biện chứng với nhau,
không thể tách rời nhau. Cũng không thể quá đề cao mặt sinh học mà coi nhẹ
14
mặt xã hội, ngược lại, không thể quá đề cao mặt xã hội mà coi nhẹ mặt sinh
học của con người. Không thể có con người xã hội nếu không có con người
sinh học, và nếu chỉ có mặt sinh học mà không có mặt xã hội thì con người
chỉ tồn tại như những loài động vật khác trong thế giới tự nhiên. Con người là
một thực thể sinh vật – xã hội.
Thứ hai, trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa
những quan hệ xã hội.
Trong tác phẩm Luận cương về FeuerBach, C.Mác đã nêu lên một luận
đề nổi tiếng: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu
của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là
tổng hòa những quan hệ xã hội”. Với luận đề này, triết học Mác–Lênin đã
làm nên bước ngoặt vĩ đại trong việc nghiên cứu bản chất của con người.
Với luận đề trên, triết học Mác đã chỉ rõ, bản chất con người không
phải là cái gì đó có sẵn, mà nó được hình thành nên và thể hiện ở những con
người hiện thực. Con người là con người hiện thực cụ thể, sống trong những
điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định, chứ không phải là
những con người trừu tượng. Trong những điều kiện lịch sử cụ thể, thông qua
những hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những điều kiện vật
chất và tinh thần để tồn tại và phát triển về cả thể lực lẫn trí lực. Và trong quá
trình đó, con người chịu sự tác động của các quan hệ xã hội, cũng từ đó mà
bản chất của con người được hình thành. Bản chất con người chỉ bộc lộ ra
trong các quan hệ xã hội (quan hệ kinh tế, xã hội; quan hệ cá nhân, gia đình,
xã hội; quan hệ giai cấp, dân tộc ).
Luận đề trên đồng thời cũng cho thấy, bản chất của con người có thể
thay đổi được, nhưng nếu muốn thay đổi bản chất của con người thì không thể
không thay đổi những quan hệ xã hội, tức là cái gốc rễ sâu xa tạo nên bản chất
của con người. Các quan hệ xã hội mà từ đó bản chất con người được hình

15
thành và bộc lộc không chỉ là những quan hệ của từng hình thái xã hội riêng
biệt, mà đó còn là những quan hệ xã hội chung thể hiện qua từng chế độ, từng
thời đại riêng biệt. Các quan hệ xã hội đó vừa diễn ra theo chiều ngang, vừa
diễn ra theo chiều dọc của lịch sử. Các quan hệ xã hội này không phải chỉ là
sự kết hợp đơn thuần với nhau để tạo nên bản chất của con người, mà những
quan hệ đó “tổng hòa” với nhau, nghĩa là, mỗi quan hệ có vị trí, vai trò khác
nhau, nhưng không tách rời nhau mà chúng thống nhất với nhau, tác động qua
lại lẫn nhau.
Khẳng định, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội
không có nghĩa là phủ nhận mặt sinh học trong con người. Bởi vì, con người
là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội, khi con người
thực hiện những nhu cầu sinh vật của mình thì hoạt động đó cũng đã mang
tính xã hội. Với quan niệm trên, chủ nghĩa duy vật lịch sử đã đem lại một
quan niệm đúng đắn trong nhận thức về bản chất con người, vạch được con
đường đúng đắn đi đến giải phóng con người.
Thứ ba, con người là chủ thể và đồng thời là sản phẩm của lịch sử.
“Không có giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không có sự tồn tại
của con người”[3; 391]. Như vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, sản
phẩm của quá trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên. Nhưng con người không chỉ
là sản phẩm, mà nó còn là chủ thể của lịch sử.
Những quá trình đan xen, nối tiếp nhau với tất cả những gì lưu giữ lại
và những cái biến đổi được gọi là lịch sử. Với cách hiểu như vậy về lịch sử thì
cả con người và con vật đều có lịch sử. Trong tác phẩm Biện chứng của tự
nhiên, Ph.Ăngghen từng viết: “Thú vật cũng có một lịch sử, chính là lịch sử
nguồn gốc của chúng và lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng
thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và
trong chừng mực chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn
16
ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại,

con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu thì
con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy
nhiêu”. Như vậy, lịch sử của con người khác xa lịch sử của loài vật, lịch sử
loài người là hoạt động có ý thức của con người.
Con người là một thực thể xã hội, thông qua các hoạt động thực tiễn
của mình con người tác động vào tự nhiên và cải biến thế giới, đồng thời
thông qua hoạt động thực tiễn đó con người cũng thúc đẩy sự vận động và
phát triển của lịch sử xã hội. “Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người
cũng làm ra lịch sử của mình”[3; 392]. Con người làm ra lịch sử, vì vậy để có
được lịch sử thì con người phải có trước. Theo Ph.Ăngghen, tiền đề đầu tiên
cho toàn bộ lịch sử nhân loại là sự tồn tại của những cá nhân con người sống.
Vì vậy, hoạt động lịc sử đầu tiên chính là hoạt động sản xuất vật chất để tách
con người ra khỏi thế giới loài vật. Thông qua các hoạt động của mình, con
người đã thiết lập các quan hệ xã hội. Hoạt động thực tiễn của con người là
điều kiện đảm bảo cho sự tồn tại của con người, đồng thời nó cũng là điều
kiện làm biến đổi đời sống xã hội và bộ mặt của xã hội. Hoạt động thực tiễn
của con người bao gồm các dạng cơ bản sau: hoạt động vật chất; hoạt động
chính trị xã hội và hoạt động khoa học thực nghiệm. Chính nhờ các hoạt động
thực tiễn đó mà lịch sử xã hội không ngừng vận động và biến đổi. Tuy nhiên,
các hoạt động này không thể đi ngược lại quy luật khách quan của lịch sử xã
hội, con người trên cơ sở nắm bắt được các quy luật khách quan, bằng hoạt
động của mình đã thúc đẩy lịch sử xã hội vận động từ thấp đến cao, từ hình
thái kinh tế-xã hội này sang hình thái kinh tế-xã hội khác. Mỗi hình thái kinh
tế-xã hội tương ứng với một phương thức sản xuất nhất định, khi phương thức
sản xuất biến đổii tất yếu sẽ kéo theo sự biến đổi của hình thái kinh tế-xã hội
đó. Lực lượng sản xuất chính là nhân tố quyết định sự biến đổi của phương
17
thức sản xuất. Như vậy, “không phải là cái gì khác mà chính con người, với
những công cụ do nó tạo ra, đã quyết định sự thay đổi bộ mặt xã hội”[20;
212]. Không có con người thì không có xã hội, không có hoạt động của con

người thì không tồn tại các quy luật xã hội, cũng không có sự tồn tại của toàn
bộ lịch sử xã hội loài người.
Như vậy, một lần nửa có thể khẳng định, con người vừa là sản phẩm
của lịch sử, vừa là chủ thể của lịch sử xã hội. Lịch sử xã hội tạo ra con người
với toàn bộ những phẩm chất của nó, đến lượt mình, con người tác động trở
lại xã hội, tạo nên lịch sử xã hội với những biến đổi của nó.
1.2. Tính triết lý trong chiến lược “trồng người” của Hồ Chí Minh
1.2.1. Triết lý Hồ Chí Minh về bản chất và vai trò của con người
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề con người là một bộ phận quan
trọng, có ý nghĩa vô cùng lớn lao. Mặc dù trong tất cả các tác phẩm của mình,
Hồ Chí Minh không có một tác phẩm lý luận nào viết riêng về con người.
Song, tất cả các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh, cho dù bàn về vấn đề gì thì
mục đích cuối cùng của nó cũng là vì tự do, hạnh phúc của con người. Độc
lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân là mục đích của suốt cuộc đời hoạt
động của Hồ Chí Minh. Ở Hồ Chí Minh, chúng ta luôn thấy một tấm lòng yêu
thương con người, yêu thương nhân dân vô hạn, Hồ Chí Minh luôn mong
muốn đem lại hạnh phúc cho nhân dân, mong muốn tạo mọi điều kiện thuận
lợi cho con người phát triển.
Yêu thương con người, mà trước hết là nhân dân lao động Việt Nam
đang bị áp bức, bóc lột. Người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm
đường cứu nước, Người đã đến với ánh sáng của chủ nghĩa Mác–Lênin. Hồ
Chí Minh đã tiếp thu, kế thừa và phát huy một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác–
Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Vấn đề con người trong triết học
Mác–Lênin cũng được Người kế thừa, cùng với lòng yêu thương con người
18
vô hạn và những trải nghiệm trong thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh đã để
lại trong kho tàng tư tưởng của mình một triết lý về bản chất và vai trò của
con người vô cùng sâu sắc.
1.2.1.1. Về bản chất của con người
Trên cơ sở tiếp thu những quan niệm của triết học Mác–Lênin, Hồ Chí

Minh đã có những quan niệm đúng đắn về bản chất con người.
Hồ Chí Minh từng nêu lên một định nghĩa vô cùng sâu sắc về con
người: “Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa
rộng là đồng bào cả nước. Rộng hơn nữa là cả loài người”[14; 644]. Định
nghĩa trên đã thể hiện tư duy sâu sắc của Hồ Chí Minh về con người. Đối với
Hồ Chí Minh không có con người trừu tượng, chung chung mà chỉ có những
con người cụ thể, cũng không có những con người cá nhân tồn tại biệt lập.
Con người, với tư cách là những cá nhân, không tồn tại biệt lập mà tồn tại
trong mối quan hệ biện chứng với cộng đồng dân tộc và với các loài người
trên toàn thế giới. Điều này đã nói lên mặt xã hội của con người. Nhưng con
người không chỉ là con người xã hội mà con người là một thực thể thống nhất
giữa mặt sinh học và mặt xã hội. Hồ Chí Minh nhấn mạnh, con người muốn
tồn tại trước hết phải đảm bảo những nhu cầu tối thiểu của mình, đó là các
nhu cầu như: ăn, ở, mặc “Phải giành giật lấy của tự nhiên những gì cần thiết
để tồn tại là vấn đề có tính sinh học. Nhưng con người lại là thực thể sinh vật–
xã hội, vì vậy, ngay trong việc con người giành lấy của tự nhiên những gì cần
cho cuộc sống của mình đã không phải bằng cách thuần túy tự nhiên, mà đã
mang tính xã hội. Đó là việc giành lấy những thứ cần thiết ấy bằng các công
cụ lao động do mình làm ra ngày càng nhiều hơn, tinh xảo hơn”[9; 263–264].
Trong đời sống của mình, con người không chỉ cần có những nhu cầu
vật chất mà còn cần cả những nhu cầu tinh thần. Tất cả những nhu cầu đó
được đáp ứng hay không lại hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ của xã hội, phụ
19
thuộc vào chủ thể xã hội mà chính con người đang sống. Về điều này, Hồ Chí
Minh chỉ rõ, “dân dĩ thực vi thiên”, “có thực mới vực được đạo” Những
nhu cầu thiết yếu đó cần phải được đáp ứng đầy đủ. Chính vì vậy mà chỉ một
ngày sau khi tuyên bố độc lập, Hồ Chí Minh đã nêu ra các việc cần phải làm:
“Chúng ta phải thực hiện ngay:
1. Làm cho dân có ăn.
2. Làm cho dân có mặc.

3. Làm cho dân có chỗ ở.
4. Làm cho dân có chổ học hành.
Cái mục đích chúng ta đi đến là điều đó. Đi đến để dân nước ta xứng
đáng với tự do độc lập và giúp sức được cho tự do độc lập”[13; 152].
Hồ Chí Minh còn nhìn nhận con người trong sự thống nhất giữa các
mặt đối lập. Hồ Chí Minh từng nói: “Trong xã hội có thiện và cũng có ác.
Theo nghĩa rộng thì cả thế giới và trong một nước có thiện và có ác. Theo
nghĩa hẹp thì trong bản thân và tư tưởng của mỗi một người cũng có thiện và
có ác”[16; 276], và “trong đầu óc mọi người đều có sự đấu tranh giữa cái
thiện và cái ác, hoặc nói theo cách mới là sự đấu tranh giữa tư tưởng cộng
sản và tư tưởng cá nhân”[17; 448]. Các mặt đối lập trong mỗi một con người
luôn luôn đấu tranh và chuyển hóa lẫn nhau. Sự đấu tranh chuyển hóa đó chịu
tác động mạnh mẽ của hoàn cảnh xã hội, chính hoàn cảnh xã hội tạo ra trong
con người cái thiện và cái ác, bởi con người sinh ra trong xã hội.
Theo Hồ Chí Minh, bản chất con người mang tính xã hội. Ngay trong
định nghĩa con người của Hồ Chí Minh đã chứng minh cho điều này. Quán
triệt quan điểm lịch sử-cụ thể, Hồ Chí Minh đặt con người, mỗi cá nhân con
người trong mối quan hệ nhiều chiều: “quan hệ với một cộng đồng xã hội
nhất định, trong đó mỗi con người là một thành viên; quan hệ với một chế độ
xã hội nhất định, trong đó con người được làm chủ hay bị áp bức, bóc lột;
20
quan hệ với tự nhiên, mà con người là một bộ phận không tách rời, nhưng lại
luôn luôn “người hóa” tự nhiên trong những cộng đồng xã hội nhất định và bị
quy định bởi những chế độ xã hội nhất định”[9; 268]. Điều này hoàn toàn phù
hợp với quan điểm của chủ nghĩa Mác–Lênin về con người và bản chất con
người. Chủ nghĩa Mác đã chỉ rõ rằng: “trong tính hiện thực của nó, bản chất
con người là tổng hòa những quan hệ xã hội”. Quán triệt quan điểm của chủ
nghĩa Mác–Lênin về bản chất con người, Hồ Chí Minh thấy rõ tổng hòa tất cả
các quan hệ xã hội mới tạo nên bản chất con người. Những quan hệ đó bao
gồm nhiều loại: quan hệ gia đình, họ tộc ; quan hệ sản xuất, quan hệ chính

trị, tôn giáo Nhưng trong đó quan hệ sản xuất là quan hệ quyết định, chi
phối tất cả các quan hệ xã hội khác. Hồ Chí Minh đã khẳng định, chính quan
hệ sản xuất đã phân chia thành giống người bóc lột và giống người bị bóc lột.
Khẳng định như vậy, nhưng Hồ Chí Minh không quá đề cao quan hệ sản xuất,
coi quan hệ sản xuất là quan hệ duy nhất tạo nên bản chất con người, cũng
không coi nhẹ quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất là quan hệ quyết định,
nhưng tất cả quan hệ xã hội khác đều góp phần hình thành nên bản chất con
người.
Thấy được bản chất con người mang tính xã hội, Hồ Chí Minh đồng
thời cũng thấy được các quan hệ xã hội không phải là nhất thành bất biến mà
các quan hệ xã hội cũng biến đổi. Có loại thay đổi nhanh, có loại thay đổi
chậm; có loại tồn tại lâu dài, có loại bị thay thế bởi những cái khác khi những
điều kiện lịch sử cụ thể cho chúng tồn tại không còn nữa (quan hệ sản xuất,
quan hệ giai cấp ). Các quan hệ xã hội thay đổi kéo theo sự thay đổi của bản
chất con người, Hồ Chí Minh từng nói: “Trong thế giới, cái gì cũng biến hóa,
tư tưởng của người cũng biến hóa Người ở đời ai cũng có chổ tốt và chổ
xấu. Ta phải khéo nâng cao chổ tốt, khéo sửa chữa chổ xấu cho họ”[14; 278–
279]. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, những người bóc lột ở Việt Nam, chỉ
21
có một số ít là can tâm bán nước, còn đại đa số vẫn thấy được nỗi nhục mất
nước, trong bản thân họ vẫn có lòng yêu nước. Vì vậy, nếu làm thức tỉnh tinh
thần dân tộc ở những con người đó thì họ sẽ đứng về phía dân tộc khi đối mặt
với bọn đế quốc thực dân. Từ đó, Hồ Chí Minh đã đưa ra chủ trương phân hóa
giai cấp, hướng mọi người đứng về phía dân tộc, không phân biệt giai cấp,
dân tộc, tôn giáo, không phân biệt giàu nghèo. Hồ Chí Minh đã kêu gọi xây
dựng khối đại đoàn kết dân tộc, đã thu hút được mọi giai cấp, tầng lớp, kể cả
những quan lại trong chế độ cũ, những nhân sĩ, những nhà tu hành, và có cả
địa chủ và tư sản tham gia. Đây chính là sự thay đổi các quan hệ xã hội để
làm cho những con người trước đây không theo hoặc phản cách mạng thức
tỉnh, đứng dậy đi theo cách mạng.

Như vậy, trong quan điểm của Hồ Chí Minh, bản chất con người mang
tính xã hội. Bản chất con người không phải có sẵn, con người sinh ra không
phải bị quy định bởi tính thiện hay tính ác, tính thiện hay tính ác đó có được
là do những quan hệ xã hội mà người đó tham gia quy định. Chính vì vậy, Hồ
Chí Minh đã đề ra chiến lược “trồng người”, nhằm giáo dục, đào tạo con
người, tức là tạo nên những quan hệ xã hội tốt đẹp để hình thành nên bản chất
tốt đẹp của con người, tạo nên những con người mang bản chất cách mạng,
đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp giải phóng chính con người.
1.2.1.2. Về vai trò của con người
Trước hết, Hồ Chí Minh thấy được “con người là vốn quý nhất, nhân tố
quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng”[3; 276].
Với lòng yêu thương con người, yêu thương nhân dân vô hạn, Hồ Chí
Minh đã xác định:
“Nhân nghĩa là nhân dân.
Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân.
22
Trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của toàn
dân.
Trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ lợi ích của
nhân dân.”[16; 267]
Đối với Hồ Chí Minh, con người, nhân dân là vốn quý nhất, không thể
lấy bất cứ điều gì so sánh được. Tấm lòng Hồ Chí Minh luôn hướng về nhân
dân, luôn mong mỏi đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Cũng chính vì lòng yêu
thương con người, yêu thương nhân dân, Hồ Chí Minh đã thấy được sức
mạnh của con người, của khối đại đoàn kết toàn dân. Con người là trung tâm
của mọi vấn đề, là nhân tố quyết định thành công của cách mạng, “vô luận
việc gì đều do con người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế
cả”[14; 241]. Tất cả mọi việc nếu có bàn tay của con người với sức mạnh của
khối đại đoàn kết toàn dân đều dễ dàng thực hiện, Hồ Chí Minh từng nói: “…
việc gì có quần chúng tham gia bàn bạc, khó mấy cũng trở nên dễ dàng và

làm được tốt. Các đồng chí ở Quảng Bình nói rất đúng:
Dễ mười lần không dân cũng chịu,
Khó trăm lần dân liệu cũng xong.”[10; 14]
Theo Hồ Chí Minh, nhân dân là chủ thể sáng tạo ra mọi giá trị vật chất
và tinh thần. Người dân Việt Nam, với những đức tính tốt đẹp đã được đúc
kết từ ngàn xưa, như lòng trung thành, không ngại khó, ngại khổ, ngại tù đày,
hy sinh là nhân tố hàng đầu, quyết định thành công của cách mạng.
Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh thì nhân dân là gốc, không có nhân
dân với sự đoàn kết vững chắc, thì cho dù có tài giỏi đến mấy thì cũng không
thể làm được điều gì, Người xác định:
“Gốc có vững thì cây mới bền.
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân.”[14; 410]
23
Hồ Chí Minh luôn có niềm tin vững chắc rằng, “với tinh thần quật
cường và lực lượng vô tận của dân tộc ta, với lòng yêu nước và chí kiên quyết
của nhân dân ta và quân đội ta, chẳng những chúng ta có thể thắng lợi mà
chúng ta nhất định thắng lợi”[4; 277]. Mọi vấn đề lớn nhỏ trong sự nghiệp
cách mạng đều do nhân dân giải quyết, bởi vì “cách mạng là sự nghiệp của
quần chúng”. “Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng
vô cùng to lớn, không ai thắng nổi”[15; 281]. Mỗi con người là một ý chí, và
khi những ý chí đó đoàn kết lại sẽ thành một ngọn lửa bùng phát, thiêu cháy
chủ nghĩa đế quốc thực dân, thiêu cháy mọi sự cản trở đến hạnh phúc, tự do
của con người.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người còn thể hiện vai trò vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng.
Xuất phát từ tấm lòng yêu thương con người, thấu hiểu được nổi khổ
của nhân dân đang lầm than, chàng thanh niên Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm
đường cứu nước, cứu dân. Suốt trong những năm tháng bôn ba trên khắp thế
giới và cả những năm tháng sau này khi đã ở trên cương vị là Chủ tịch nước,
Hồ Chí Minh vẫn luôn sống gần gũi với nhân dân, sống giữa lòng nhân dân,

Người hiểu rõ dân tình, thấu hiểu dân tâm, dân ý. Hồ Chí Minh đã thấy được
cách mạng là sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng
con người, ba mục tiêu này gắn bó chặt chẽ với nhau, trong cái này có đã có
cái kia, nhưng chung quy lại thì mục tiêu tối cao của cách mạng là giải phóng
con người khỏi những áp bức, bóc lột, làm cho con người được tự do, hạnh
phúc và được tạo mọi điều kiện để phát huy hết khả năng của bản thân. Xác
định con người là mục tiêu của cách mạng, Hồ Chí Minh đã xác định trách
nhiệm của Đảng, của Chính phủ và của chính bản thân Người là “làm sao cho
nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Giải phóng con người là
24
mục tiêu của cách mạng, đó là mục tiêu suốt đời hy sinh cống hiến, là lý
tưởng suốt đời phấn đấu của Hồ Chí Minh. Độc lập dân tộc, xây dựng chủ
nghĩa xã hội cũng nhằm mục tiêu giải phóng con người, Hồ Chí Minh nói:
“nước độc lập mà dân không hạnh phúc, tự do, thì độc lập ấy cũng không
nghĩa lý gì”[13; 56]. Xác định con người là mục tiêu của cách mạng, Hồ Chí
Minh đồng thời cũng có niềm tin vững chắc vào tài năng, trí tuệ và bản lĩnh
của con người. Người làm hết sức để xây dựng, rèn luyện con người và quyết
tâm đấu tranh để đem lại độc lập, tự do, hạnh phúc cho con người. Quán triệt
quan điểm lịch sử-cụ thể, Hồ Chí Minh xác định con người là mục tiêu của
cách mạng theo từng giai đoạn cụ thể. Khi nhân dân đang phải chịu ách thống
trị của chế độ phong kiến, đất nước đang chịu sự xâm lược của đế quốc thực
dân, con người phải được giải phóng khỏi gông cùm nô lệ, cùng với sự nghiệp
giải phóng dân tộc. Sau khi đất nước được độc lập thì phải ưu tiên phục vụ
các nhu cầu tối thiểu của nhân dân, tiếp tục xóa bỏ sự áp bức, bóc lột giữa giai
cấp này với giai cấp khác, xóa bỏ mọi sự bất công, bất bình đẳng xã hội để
tiếp tục giải phóng con người trong sự nghiệp giải phóng giai cấp cần lao.
Cuối cùng, mổi cá nhân phải được giải phóng, phải được tạo mọi điều kiện để
phát triển toàn diện, trở thành người làm chủ của xã hội.
“Con người là mục tiêu của cách mạng, nên mọi chủ trương, đường lối,

chính sách của Đảng, Chính phủ đều vì lợi ích chính đáng của con người”[4;
278]. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan Chính phủ
từ toàn quốc cho đến làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác
việc chung cho dân, chứ không phải đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền
thống trị của Pháp, Nhật”[13; 56]. Tất cả mọi công việc của cách mạng đều
phải vì mục tiêu giải phóng con người.
Sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp giải phóng con người, nhưng để sự
nghiệp cách mạng đó đi đến thành công lại phải do con người. Hay nói cách
25

×