Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Chuyên đề kinh tế “Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam trong thời kỳ hội nhập” potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.85 KB, 28 trang )

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Chuyên đề kinh tế
“Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt
Nam trong thời kỳ hội nhập”
MỤC LỤC
Chuyên đề kinh tế 1
“Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam trong thời kỳ hội nhập” 1
MỤC LỤC 2
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nhận thấy rằng đường lối,
chiến lược phát triển kinh tế là yếu tố đầu tiên quyết định sự thành bại trong quá
trình phát triển kinh tế của một đất nước. Trong đó, việc xây dựng một cơ cấu
kinh tế hợp lý là một trong những vấn đề hết sức quan trọng.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, từ năm 1986 đến nay, rõ nhất là từ
năm 1990 cơ cấu kinh tế nước ta đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực phù
hợp với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng các ngành công nghiệp
và dịch vụ tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn. Những chuyển biến đó đã góp phần
tạo đà cho nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định.
Tuy nhiên, những tiến bộ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế đó cũng mới
chỉ là bước đầu và nhìn chung sự chuyển dịch cơ cấu còn chậm. Cho đến nay,
nước ta vẫn là nước nông nghiệp, dân cư sống ở nông thôn và lao động nông
nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Để đạt được mục tiêu đến năm 2020: "Đưa nước
ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có
cơ cấu kinh tế ngành hợp lý với tỷ trọng ngành nông nghiệp chiếm dưới 10%,
công nghiệp 35 - 40%, dịch vụ chiếm 50 - 60% trong tổng GDP" mà Đại hội VIII
đã đề ra thì còn nhiều vấn đề phải được tiếp tục nghiên cứu và có giải pháp sát
thực.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, em đã chọn đề tài “Sự chuyển dịch
cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam trong thời kỳ hội nhập” nhằm nghiên cứu tình
hình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta trong thời gian qua và những


giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành trong thời gian tới.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
2.1 Mục tiêu chung:
Tìm hiểu thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt
Nam, từ đó đề ra những giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
2.2 Mục tiêu cụ thể:
- Đánh giá tình hình chuyển dịch cơ cấu ngành trong thời gian qua
- Phân tích những nhân tố thuận lợi và bất lợi ảnh hưởng đến chuyển
dịch cơ cấu ngành
- Những giải pháp đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả chuyển dịch cơ cấu
kinh tế
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
3.1 Phương pháp thu thập số liệu:
Thu thập số liệu thứ cấp qua niên giám thống kê, tổng cục thống kê, các báo
cáo, tìm hiểu thông tin trên sách, báo, tạp chí, truyền thông, mạng Internet.
3.2 Phương pháp phân tích số liệu:
- Sử dụng phương pháp thống kê mô tả hiệu quả chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế
- So sánh, phân tích, tổng hợp
- Từ mô tả và phân tích trên, sử dụng các phương pháp suy luận, quy nạp để
đưa ra các biện pháp nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1 Phạm vi về không gian: cả nước Việt Nam
4.2 Phạm vi về thời gian: từ năm 2007 đến năm 2009
4.3 Phạm vi về đối tượng nghiên cứu: Tốc độ tăng trưởng của các ngành
công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ - NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ
LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1 Lí luận về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu kinh tế là tập hợp các bộ phận hợp thành tổng thể nền kinh tế và mối
tương quan tỷ lệ giữa các bộ phận hợp thành so với tổng thể.
Cơ cấu kinh tế theo ngành: là cơ cấu kinh tế trong đó mỗi bộ phận hợp
thành là một ngành hay một nhóm ngành kinh tế. Cơ cấu ngành kinh tế phản ánh
phần nào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội
của một quốc gia. Nếu đứng trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế để xem xét thì cơ
cấu kinh tế ngành bao gồm ba nhóm ngành chính: nông nghiệp, công nghiệp và
dịch vụ, còn trong phạm vi từng nhóm ngành có thể phân chia thành các ngành
chuyên môn hóa ở những mức độ khác nhau. Cụ thể, nhóm ngành nông nghiệp
có thể phân chia thành các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản; nhóm
ngành công nghiệp chia thành các ngành công nghiệp khai thác, công nghiệp chế
biến, công nghiệp sửa chữa xây dựng; nhóm ngành dịch vụ có thể chia thành các
ngành thương mại, bưu chính viễn thông, giao thông vận tải, du lịch, tài chính,
ngân hàng. Cơ cấu kinh tế theo ngành là tiêu chuẩn cơ bản phản ánh trình độ phát
triển kinh tế cơ bản của một quốc gia. Vì vậy, trong quá trình phát triển các nước
đang phát triển đặc biệt quan tâm đến xây dựng chiến lược chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo ngành, coi đó là điều kiện tiền đề, cơ bản để tăng trưởng và phát
triển kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình thay đổi cơ cấu kinh tế từ trạng thái
này sang trạng thái khác ngày càng hoàn thiện hơn, phù hợp hơn với môi trường
và điều kiện phát triển của nền kinh tế. Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, mỗi quốc gia, hay mỗi một ngành kinh tế, hay mỗi vùng, địa phương có thể
đưa vào cơ cấu kinh tế những ngành mới (sản phẩm, dịch vụ mới) hay có thể loại
ra khỏi cơ cấu kinh tế những ngành (những sản phẩm) không còn phù hợp, hoặc
có thể chuyển dịch theo hướng tăng hay giảm tỷ trọng của một ngành một (sản
phẩm) nào đó. Đó là quá trình chuyển từ cơ cấu kinh tế lạc hậu, bất hợp lý sang
cơ cấu kinh tế hợp lý; hoàn thện và bổ sung cơ cấu cũ nhằm biến cơ cấu cũ thành
cơ cấu kinh tế mới hiện đại và phù hợp hơn. Sự thay đổi như vậy không đơn giản
chỉ là sự thay đổi số lượng các ngành và tỷ trọng của mỗi ngành, mà còn bao

gồm sự thay đội vị trí, tính chất mối quan hệ trong nội bộ cơ cấu ngành.
Nội dung của cơ cấu kinh tế ngành được thể hiện là:
-Đó là số lượng các ngành được hình thành. Số lượng này luôn luôn phát triển
theo phân công lao động xã hội
-Mối quan hệ về số lượng thể hiện ở tỷ trọng của mỗi ngành trong tổng thể.
-Mối quan hệ về chất lượng phản ánh vị trí, tầm quan trọng từng ngành, các mối
liên kết kinh tế - kỹ thuật, kinh tế xã hội và tính chất tác động qua lại lẫn nhau
giữa chúng.
Nói chung, mối quan hệ của các ngành cả về số lượng và chất lượng đều thường
xuyên biến đổi và ngày càng trở nên phức tạp hơn theo sự phát triển của lực
lượng sản xuất và phân công lao động xã hội trong nước và quốc tế.
Chỉ tiêu kinh tế làm cơ sở để biểu hiện cơ cấu là GDP (tổng sản phẩm nội địa)
1.2 Bối cảnh kinh tế quốc tế
1.2.1 Sự hình thành nền kinh tế tri thức trên cơ sở phát triển công nghệ kĩ
thuật hiện đại
Sự phát triển có tính bùng nổ của lực lượng sản xuất những năm gần đây
dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại đã làm biến đổi
sâu sắc nền kinh tế thế giới, tạo ra một bước ngoặt mới trong lịch sử phát triển
của loài người, hình thành nền kinh tế tri thức.
Tri thức đã trở thành một dạng cơ bản của tư bản, tăng trưởng kinh tế
được dẫn dắt bởi tích tụ tri thức. Ngày nay các nền kinh tế tiên tiến nhất về công
nghệ đã hoàn toàn dựa trên tri thức.
Nền kinh tế tri thức đã thực sự trở thành mục tiêu then chốt trong chiến lược
phát triển kinh tế xã hội của nhiều quốc gia và cũng đang trở thành tiêu điểm
quan tâm của quảng đại quần chúng. Kinh tế tri thức lấy công nghệ kĩ thuật cao
làm lực lượng sản xuất thứ nhất, lấy trí lực ( năng lực trí tuệ) làm chỗ dựa chủ
yếu. Công nghệ kĩ thuật cao cần tri thức, trí lực, nếu không có nhiều thông tin, tri
thức, trí lực thì nó không phải là kĩ thuật cao. Tư tưởng chỉ đạo của phát minh kĩ
thuật cao là lợi dụng nguồn tài nguyên hiện có một cách khoa học, hợp lý, tổng
hợp và hiệu xuất cao. Đồng thời khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên chưa

được khai thác để thay thế cho nguồn tài nguyên thiên nhiên khan hiếm đã gần
cạn kiệt. Kinh tế tri thức là kinh tế thúc đẩy điều hòa giữa con người và thiên
nhiên nên phát triển bền vững.
Ngày nay ngoài các ngành truyền thống, trong nền kinh tế thế giới đang
hình thành và phát triển mạnh mẽ các ngành công nghiệp mới mà nguyên liệu
đầu vào chủ yếu là thông tin và tri thức, với tốc độ tăng trưởng cao gấp nhiều lần
so với phát triển kinh tế nói chung. Đã xuất hiện hiện tượng thần kỳ về phát triển
kinh tế chưa từng thấy trong lịch sử, vượt xa sự phỏng đoán của hầu hết các
chuyên gia tầm cỡ thế giới cũng như sức tưởng tượng và hình dung của con
người dựa vào những kinh nghiệm trong quá khứ. Nền kinh tế thế giới đang
chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, nền văn minh loài người
chuyển từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ.
Một nước có thể được gọi là nền kinh tế tri thức khi :
- Có hơn 70% GDP đóng góp do ngành kinh tế tri thức
- Cơ cấu giá trị gia tăng có trên 70% giá trị do lao động trí óc mang lại.
- Cơ cấu lao động có hơn 70% là công nhân trí thức
- Cơ cấu tư bản trên 70% là tư bản con người.
1.2.2 Đặc điểm mới của toàn cầu hóa kinh tế
Ngày nay, toàn cầu hóa kinh tế là đặc trưng và xu hướng phát triển phổ
biến của nền kinh tế thế giới, bất luận đó là nền kinh tế có quy mô và trình độ
phát triển ra sao và thuộc chế độ chính trị - xã hội thế nào. Toàn cầu hoá kinh tế
là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, xu thế này
đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi
phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa
có hợp tác vừa có đấu tranh, vừa tạo ra những cơ hội cho sự phát triển nhưng
cũng vừa có những thách thức đối với các quốc gia, nhất là các quốc gia đang ở
trình độ kém phát triển
Tác động tích cực của toàn cầu hóa:
- Thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất
- Mở rộng và phát triển thị trường ra khu vực và toàn cầu

- Bổ sung và phân bổ lại nguồn lực
- Thúc đẩy cải cách kinh tế và hợp tác phát triển
- Tiền đề cho sự phát triển bền vững
- Nâng cao đời sống nhân dân thông qua tăng trưởng kinh tế và tiếp cận của
người dân với các sản phẩm và dịch vụ cao cấp quốc tế, cơ hội học tập và
du lịch nước ngoài.
Tác động tiêu cực của toàn cầu hóa:
- Chịu hiệu ứng “lây lan” của những bất ổn khu vực và toàn cầu.
- Làm trầm trọng thêm khoảng cách giàu nghèo trong một xã hội, giữa các
nước và các khu vực.
Như vậy, có thể nói rằng, toàn cầu hoá đang đặt ra hàng loạt những thách thức
hết sức khó khăn cho tất cả các nước. Đó chính là những vấn đề toàn cầu mà
nhân loại đang và sẽ phải đối mặt. Nhận thức cho được các vấn đề này và tìm ra
đối sách để giải quyết chúng là nhiệm vụ không dễ dàng, nhưng đó lại là việc
không thể không làm một cách tích cực, từng bước và làm một cách khoa học.
Có vượt qua được những thách thức đó, chúng ta mới có cơ hội phát triển nhanh
hơn trong tương lai. Vì vậy, "nắm bắt cơ hội: vượt qua thách thức, phát triển
mạnh mẽ trong thời kỳ mới, đó là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và
nhân dân ta”.
Rõ ràng bối cảnh quốc tế tạo cho chúng ta nhiều cơ hội nhưng cũng không ít
thách thức. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hội nhập quốc tế là phải vượt
qua các thách thức đó, tranh thủ được các cơ hội để tạo lập một cơ cấu kinh tế
mới phù hợp, tiến bộ và hiệu quả hơn.
1.3 Bối cảnh kinh tế trong nước
Quá trình đổi mới hơn 20 năm qua, nhất là từ năm 1991, thực hiện chính
sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế khu vực, quốc tế, thế và lực phát triển
của nền kinh tế Việt Nam đã có sự thay đổi lớn.
Kinh tế tăng trưởng nhanh và tương đối ổn định, GDP năm sau cao hơn
năm trước, tiềm lực kinh tế đã lớn mạnh hơn. Cơ cấu ngành nói riêng và cơ cấu
kinh tế nói chung đã có bước chuyển dịch đáng kể theo hướng công nghiệp hóa

và từng bước hiện đại hóa.
Vừa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, vừa tiếp tục hội nhập sâu hơn
vào nền kinh tế khu vực và thế giới, quan hệ kinh tế đối ngoại được tiếp tục củng
cố và mở rộng.
Khung khổ pháp lý cho hoạt động của các loại thị trường đã dần được bổ
sung và hoàn thiện. Cơ chế quản lý mới hệ thống doanh nghiệp nhà nước đã
được xác định; tổ chức triển khai sâu rộng Luật doanh nghiệp; sửa đổi bổ sung
Luật thuế, Luật đất đai; thị trường hàng hóa sôi động và phát triển nhanh; thị
trường lao động có bước phát triển, hệ thống thị trường tài chính tiền tệ đã phát
triển và đạt được kết quả khả quan.
Các yếu tố ngoại lực (vốn, kỹ thuật – công nghệ, tri thức, thị trường) đã
trở thành lực lượng quan trọng và được kết hợp với yếu tố nội lực đã tạo thành
sức mạnh tổng hợp thúc đẫy nền kinh tế phát triển. Những động lực phát triển
mới đã xuất hiện: cạnh tranh theo nguyên tắc thị trường, các nhu cầu được mở
rộng làm mở rộng các cơ hội phát triển, do đó, đã tạo nhiều khả năng lựa chọn
các cơ hội phát triển cho xã hội
Tóm lại, bước vào thời kỳ phát triển mới, nền kinh tế nước ta đã có sự
thay đổi về thế và lực: cấu trúc kinh tế mới, tiềm lực mới, thế path triển mới,
động lực mới và lực lượng chủ thể mới.
CHƯƠNG 2
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP
2.1 Thực trạng cơ cấu kinh tế tại Việt Nam
Sang thế kỷ XXI, thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng về đẩy nhanh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ,cơ cấu kinh tế quốc dân chuyển dịch nhanh theo
hướng tích cực nhưng tốc độ vẫn còn chậm. Năm 2000 - 2005, GDP bình quân
mỗi năm đạt 7,5%. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng đạt 8,4%, GDP theo giá hiện
hành, đạt 838 nghìn tỷ đồng, bình quân đầu người đạt trên 10 triệu đồng, tương
đương với 640 USD. Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu 50 vạn - 1
triệu tấn lương thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới.

Năm 2005, nước ta đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo, thứ 2 về cà phê,
thứ 4 về cao su, thứ 2 về hạt điều, thứ nhất về hạt tiêu. Về cơ cấu ngành, tỷ trọng
nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1988 là 46,3%, năm 2005 còn 20,9%.
Trong nội bộ ngành nông nghiệp cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch
theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế
cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu. Trong kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, giá trị
sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 5,5%/năm, giá trị tăng thêm bằng khoảng
3,89%/năm. Sản phẩm công nghiệp xuất khẩu ngày càng tăng, có chỗ đứng trong
những thị trường lớn, giá trị sản xuất công nghiệp và xây dựng tăng 15,9%/năm,
giá trị tăng thêm đạt 10,2%/năm. Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP đã tăng từ
33,1% năm 1988 lên 38,1% năm 2005. Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng
hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống.
Bảng 1 : Cơ cấu GDP theo ngành từ 1995-2004
Đơn vị tính:%
1995 2000 2003 2004
Nông lâm thuỷ
sản
27,18 24,53 22,54 21,76
Công nghiệp, xây
dựng
28,76 36,73 39,47 40,09
Dịch vụ 44,06 38,74 37,99 38,165
Nguồn: tổng cục thống kê
Bảng 2: Tỷ lệ đóng góp của từng ngành vào tốc độ tăng GDP(%)
2000 2001 2002 2003 2004
Nông, lâm nghiệp, thuỷ
sản
1,10 0,69 0,91 0,72 0,80
Công nghiệp và xây
dựng

3,46 3,68 3,45 3,86 3,90
Dịch vụ 2,23 2,52 2,68 2,68 3,00
Tổng GDP 6,79 6,89 7,04 7,26 7,60
Nguồn: Tổng cục thống kê
Kết thúc kế hoạch 5 năm 2000-2005, xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh
tế quốc dân theo GDP về cơ bản vẫn như những năm trước đó. Tỷ trọng nông
nghiệp (nghĩa rộng) chiếm 22, l1%, công nghiệp và xây dựng chiếm 39,79%
và dịch vụ chiếm 38, 10% GDP. Như vậy, mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh
tế chỉ có 2 chỉ tiêu đạt được là nông nghiệp, công nghiệp và xây dựng theo
nghĩa rộng, còn dịch vụ không đạt được.
Từ năm 2007 trở lại đây, chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu làm cho tình hình kinh tế thế giới và trong nước có nhiều biến động
phức tạp, khó lường, nền kinh tế nước ta tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức,
tuy nhiên cơ cấu kinh tế ngành và nội bộ ngành đã chuyển dịch tích cực. Tổng
sản phẩm trong nước (GDP) năm 2008 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng
6,23% so với năm 2007, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng
3,79%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,33%; khu vực dịch vụ tăng
7,2%. Năm 2009, GDP tăng 5,32%, bao gồm: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy
sản tăng 1,83%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,52%; khu vực dịch vụ
tăng 6,63%.
Bảng 3: Tốc độ tăng trưởng GDP và các ngành kinh tế thời kỳ 2007-2009
Đơn vị tính: %
2007 2008 2009
Nông nghiệp 3,40 3,79 1,83
Công nghiệp 10,60 6,33 5,52
Dịch vụ 8,69 7,20 6,63
Tổng 8,48 6,23 5,32
Nguồn: Tổng cục thống kê
Hình 1: Cơ cấu GDP Việt Nam phân theo nhóm ngành thời kỳ 1991-2008
Nguồn: Tổng cục thống kê

+ Cùng với sự thay đổi mạnh mẽ tỷ trọng, giá trị sản lượng của các ngành
công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ cũng thay đổi mạnh,cụ thể mức tăng của
khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2008 cao hơn mức tăng năm 2007 và
2006, chủ yếu do sản xuất nông nghiệp được mùa, sản lượng lúa cả năm tăng 2,7
triệu tấn so với năm 2007 và là mức tăng cao nhất trong vòng 11 năm trở lại đây.
Tăng trưởng khu vực công nghiệp và xây dựng năm 2008 đạt mức thấp hơn mức
tăng của năm 2007, chủ yếu do sản xuất của ngành công nghiệp khai thác giảm
nhiều so với năm trước (giá trị tăng thêm giảm 3,8%); công nghiệp chế biến
chiếm tỷ trọng 63,5% trong tổng giá trị tăng thêm công nghiệp nhưng giá trị tăng
thêm chỉ tăng 10%, thấp hơn mức tăng 12,8% của năm 2007; đặc biệt giá trị tăng
thêm của ngành xây dựng năm nay không tăng, trong khi năm 2007 ngành này
tăng ở mức 12%. Hoạt động của khu vực dịch vụ tuy ổn định hơn so với khu vực
công nghiệp và xây dựng nhưng giá trị tăng thêm vẫn tăng thấp hơn mức tăng
8,7% của năm trước.
+ GDP tính theo giá thực tế năm 2008 tăng cao; với mức tăng trưởng và
tăng giá khác nhau ở ba khu vực nên cơ cấu kinh tế năm 2008 tăng ở khu vực
nông, lâm nghiệp và thuỷ sản và giảm ở khu vực công nghiệp, xây dựng. Tuy
nhiên, xu hướng này chỉ là tạm thời trong bối cảnh đặc biệt của năm 2008 với sự
tăng chậm lại của khu vực công nghiệp, xây dựng và giá nông lâm thuỷ sản tăng
cao. Tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 21,99% GDP; khu
vực công nghiệp và xây dựng chiếm 39,91%; khu vực dịch vụ chiếm 38,1%.
Hình 2:Biểu đồ tỷ trọng ngành trong cơ cấu GDP giai đoạn 2003-2008
Nhìn chung, từ năm 2007 trở lại đây sự tăng nhanh tỷ trọng giá trị trong GDP của
các ngành công nghiệp-xây dựng và dịch vụ, đồng thời giảm dần tỷ trọng trong
GDP các ngành nông-lâm-ngư nghiệp đã khẳng định cơ cấu kinh tế nước ta đang
chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
2.2 Thực trạng đầu tư vào các ngành kinh tế
FDI ở Việt Nam là nguồn vốn đầu tư phát triển xã hội, đã đóng góp đáng
kể vào tăng trưởng nền kinh tế. Theo đánh giá của Cục Đầu tư nước ngoài, vốn
FDI đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy chuyển giao công nghệ,

đóng góp vào ngân sách và các cân đối vĩ mô, thúc đẩy cải cách thủ tục hành
chính, tác động lan tỏa đến các thành phần kinh tế khác. Trong năm 2008 có
khoảng 1171 dự án với tổng vốn đăng ký 60,3 tỷ USD, giảm 24,2% về số dự án
nhưng gấp 3,2 lần về vốn đăng ký so với năm 2007. Bình quân vốn đăng ký của
một dự án năm nay đạt 51,5 triệu USD, tăng 39 triệu USD so với mức bình quân
12,5 triệu USD/dự án của năm 2007. Trong tổng số dự án được cấp phép mới
trong năm 2008, các dự án thực hiện theo hình thức 100% vốn nước ngoài chiếm
75,3% về số dự án và 51,7% về vốn đăng ký. Nếu tính cả 3,7 tỷ USD vốn đăng
ký tăng thêm của 311 dự án được cấp phép từ các năm trước thì năm 2008 cả
nước đã thu hút được 64 tỷ USD vốn đăng ký, gấp gần 3 lần năm 2007, đạt mức
cao nhất từ trước tới nay. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2008
đạt 11,5 tỷ USD, tăng 43,2% so với năm 2007. Vốn đầu tư nước ngoài trong các
dự án được cấp giấy phép mới năm 2008 tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công
nghiệp và xây dựng với 32,6 tỷ USD, chiếm 54,1% tổng vốn đăng ký; dịch vụ
27,4 tỷ USD, chiếm 45,5%; nông, lâm nghiệp và thủy sản 252,1 triệu USD,
chiếm 0,4%. Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài năm 2009 đạt thấp do ảnh
hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới. Tính đến ngày 15/12/2009, đầu tư trực
tiếp nước ngoài đạt 21,5 tỷ USD, giảm 70% so với cùng kỳ năm 2008, bao gồm:
Vốn đăng ký của 839 dự án được cấp phép mới đạt 16,3 tỷ USD (giảm 46,1% về
số dự án và giảm 75,4% về vốn); vốn đăng ký bổ sung của 215 dự án được cấp
phép từ các năm trước đạt 5,1 tỷ USD, giảm 1,7%. Vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài thực hiện năm 2009 ước tính đạt 10 tỷ USD, giảm 13% so với năm 2008.
Trong năm 2009, lĩnh vực kinh doanh bất động sản thu hút sự quan tâm lớn nhất của các
nhà đầu tư nước ngoài với 7,4 tỷ USD vốn đăng ký của các dự án được cấp phép mới,
chiếm 45,1% tổng vốn đăng ký mới; tiếp đến là lĩnh vực dịch vụ lưu trú và ăn uống 5 tỷ
USD, chiếm 30,5%; công nghiệp chế biến, chế tạo với 2,2 tỷ USD, chiếm 13,6%.
Hình 3: Biểu đồ đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 2000-2008
Hình 4: Cơ cấu FDI năm 2007
Theo số liệu của Cục Đầu tư nước ngoài, cơ cấu vốn FDI đã có sự thay đổi mạnh
mẽ trong giai đoạn từ năm 2001 đến 2009. Nếu như những năm đầu của thế kỷ

này, vốn FDI đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng chiếm 85%, thì tới
năm 2009 vừa qua, khu vực này chỉ còn chiếm 22% tổng vốn đầu tư. Trong khi
đó, vốn FDI vào lĩnh vực dịch vụ có xu hướng ngược chiều, khi tăng từ 7% lên
77%, cũng trong cùng giai đoạn với các con số thống kê kể trên.
Với mục tiêu ưu tiên là ngăn chặn suy giảm kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội,
trong những năm qua Chính phủ đã tập trung thực hiện các gói kích cầu đầu tư
và tiêu dùng; đồng thời chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án, công trình
trọng điểm nhằm nâng cao hiệu quả vốn đầu tư và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Nhờ vậy, vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện năm 2008 theo giá thực tế ước tính đạt
637,3 nghìn tỷ đồng, bằng 43,1% GDP và tăng 22,2% so với năm 2007, bao gồm
vốn khu vực Nhà nước 184,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 28,9% tổng vốn và giảm 11,4%;
khu vực ngoài Nhà nước 263 nghìn tỷ đồng, chiếm 41,3% và tăng 42,7%; khu vực
có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 189,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 29,8% và tăng
46,9%. Năm 2009 theo giá thực tế ước tính đạt 704,2 nghìn tỷ đồng, tăng 15,3%
so với năm 2008 và bằng 42,8% GDP, bao gồm vốn khu vực Nhà nước 245
nghìn tỷ đồng, chiếm 34,8% tổng vốn và tăng 40,5%; khu vực ngoài Nhà nước
278 nghìn tỷ đồng, chiếm 39,5% và tăng 13,9%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài 181,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 25,7% và giảm 5,8%. Đầu tư nhà nước
chiếm tỷ trọng áp đảo trong tổng vốn đầu tư phát triển xã hội và đóng góp nhất
định vào tăng trưởng kinh tế.
Hình 5: Tăng trưởng GDP và tỷ lệ đầu tư/GDP giai đoạn 1997 – Q1/2009

Hình 4: Cơ cấu vốn đầu tư toàn xã hội theo giá thực tế giai đoạn 2000-2008
2.3 Đánh giá những tác động
-Tác động tích cực: Kết quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một trong
những nguyên nhân quan trọng và cơ bản nhất đưa đến các kết quả, thành tựu
tăng trưởng kinh tế khả quan, tạo ra những tiền đề vật chất trực tiếp để chúng ta
giữ được các cân đối vĩ mô của nền kinh tế như thu chi ngân sách, vốn tích luỹ,
cán cân thanh toán quốc tế…, góp phần bảo đảm ổn định và phát triển kinh tế –
xã hội theo hướng bền vững. Các chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói

giảm nghèo, chương trình về đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội
cho các vùng khó khăn, các chương trình tín dụng cho người nghèo và chính sách
hỗ trợ trực tiếp đã mang lại kết quả rõ rệt. Tỷ lệ hộ nghèo đã giảm từ 17,2% năm
2006 xuống còn 14,7% năm 2007, và năm 2008 còn 13,1%. Chuyển dịch cơ cấu
kinh tế đã làm thay đổi cơ cấu lao động nước ta theo xu hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Số lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng
lên, trong khi số lao động ngành nông nghiệp ngày càng giảm đi.
- Tác động tiêu cực: Những năm qua, cơ cấu ngành đạt được những bước
tiến nhất định, dù chỉ ở trên phương diện tỷ trọng, trong khi đó cơ cấu lao động
chuyển dịch quá chậm, đến mức có thể nói là không có chuyển dịch. Tỷ trọng lao
động trong khu vực nông nghiệp - nông thôn giảm không đáng kể ; tỷ trọng lao
động công nghiệp hầu như không tăng. Còn khu vực dịch vụ, tuy có tạo thêm khá
nhiều việc làm mới nhờ sự phát triển bùng nổ của khu vực tư nhân sau khi Luật
Doanh nghiệp có hiệu lực ban hành song cũng không có khả năng xoay chuyển
tình hình một cách nhanh chóng và căn bản, điều đó làm tăng thêm áp lực việc
làm - thất nghiệp vốn đã cực kỳ gay gắt.
Rõ ràng, lao động nước ta dồi dào đến mức dư thừa, năm 2005 còn đến
5,3% lao động ở thành thị thất nghiệp, trong số này có không ít lao động trẻ khoẻ
và không ít những cử nhân vừa qua đào tạo ở các trường đại học, cao đẳng cũng
tham gia đạo quân thất nghiệp. Ở khu vực nông thôn có tới 20% quỹ thời gian
lao động chưa được sử dụng, số thất thoát thời gian lao động tương đương với 9
triệu lao động thất nghiệp hoàn toàn. Do vậy khu vực nông nghiệp - nông thôn
trong nhiều năm qua trở thành nơi “chứa” lao động dư thừa, tuyệt đại đa số lao
động mới đều tập trung ở đây.
Về cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn, tỷ trọng lao động chưa qua đào
tạo lên đến 76%, tỷ lệ lao động qua đào tạo là 24%, trong đó đặc biệt chú ý là tỷ
lệ lao động đã qua đào tạo nghề chỉ chiếm có 15%. Các số liệu này chứng tỏ nền
kinh tế đang thiếu trầm trọng lao động có tay nghề, mất cân đối trong cơ cấu đào
tạo nghề, với cơ cấu trình độ đào tạo như hiện nay, việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật
vào sản xuất và kinh doanh còn rất nhiều khó khăn, không thể nào đáp ứng được

yêu cầu nhân lực mà xã hội đang cần dẫn đến thất nghiệp cơ cấu ngày càng trầm
trọng hơn.
2.4 Những hạn chế chủ yếu của quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Thứ nhất, sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo chiến lược công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, khu vực còn rất chậm, cả
về tỷ trọng lẫn chất lượng. Quá trình chuyển đổi cơ cấu ngành còn chưa làm thay
dịch căn bản về chất của cơ cấu ngành, chưa tạo được sự nhảy vọt trong cơ cấu,
chưa tăng cường sự gắn kết chặt chẽ giữa các ngành công, nông nghiệp và dịch
vụ, giữa các phân ngành, phân nhánh ngành của nội bộ các ngành đó.
Thứ hai, hình thành một cơ cấu ngành khai thác nguồn lực kém hiệu quả,
năng lực cạnh tranh kinh tế thấp cả trên thị trường trong nước và nước ngoài. Cơ
cấu ngành hiện nay còn chưa sử dụng hết các nguồn lực, hơn nữa gây lãng phí.
Thứ ba, cơ cấu ngành chưa tạo được tiềm lực cho phát triển nền kinh tế
vững chắc lâu dài.
2.5 Thời cơ, thách thức đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Việt Nam trong thời gian tới
2.5.1 Thời cơ ( thuận lợi)
Sự phát triển kinh tế tri thức và chuyển dịch cơ cấu kinh tế toàn cầu cũng
như khu vực tạo cơ hội cho quá trình rút ngắn công nghiệp hóa – hiện đại hóa và
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế nước ta. Điều này thể hiện ở một số nội dung
sau đây:
+ Tri thức, khoa học, công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp cho
phép các nước đi sau như Việt Nam có thể tiếp cận chúng ngay cả khi trình độ
phát triển chưa cao. Nhờ tiếp thu từ các nước đi trước các tri thức, công nghệ, kỹ
thuật, về nguồn vốn và thị trường ở trình độ cao và quy mô lớn, Việt Nam có thể
thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa rút ngắn, thực hiện “hiện đại hóa cơ
cấu ngành”, hình thành và phát triển cơ cấu ngành có năng lực cạnh tranh cao
trên trường quốc tế.
+ Thông qua kết nối mạng thông tin, viễn thông toàn cầu, Việt Nam được chia sẽ
nguồn lực thông tin và tri thức, có điều kiện nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

cả về tri thức và kỹ năng sử dụng công nghệ cao.
+ Với hệ thống sản xuất toàn cầu, các doanh nghiệp Việt Nam có thể mở rộng
quy mô sản xuất và bán sản phẩm trên phạm vi toàn thế giới để thu lợi ích nhiều
nhất. Đây là tiềm năng to lớn cho Việt Nam cũng như các nước đi sau khác.
+ Toàn cầu hóa kinh tế làm cho nền kinh tế thế giới cũng như quốc gia trở nên
năng động hơn, được liên kết chặt chẽ hơn, dòng vốn, hàng hóa, công nghệ di
chuyển nhanh hơn tạo nên môi trường phát triển thuận lợi cho mọi nền kinh tế.
+ Việt Nam đã gia nhập vào WTO, ASEAN…, thực hiện các cam kết
CEPT/AFTA, AICO, AIA, APEC, ASEM…từng bước hội nhập sâu hơn vào
kinh tế khu vực và quốc tế. Nhờ đó Việt Nam sẽ có một thị trường rộng lớn,
nhiều tiềm năng do những hàng rào thuế quan và phi thuế quan được dỡ bỏ, lưu
thông hàng hóa, tiền tệ, lao động tự do, thuận lợi, chi phí lưu thông giảm; tiếp
nhận nguồn vốn đầu tư, công ghệ và kĩ thuật cao; người tiêu dùng có cơ hội lựa
chọn các mặt hàng thích hợp, chất lượng tốt và giá rẻ; có vị thế quốc tế trong
đàm phán với các nước lớn, cùng với các nước đang phát triển bảo vệ quyền lợi
quốc gia và khu vực.
- Những thuận lợi trong nước:
+ Thuận lợi cơ bản của Việt Nam là sự ổn định chính trị - xã hội, đường lối đổi
mới đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam phù hợp với xu thế phát triển của
thời đại, vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước và sự ủng hộ, đoàn kết, nhất
trí của toàn dân đối với công cuộc đổi mới, với quyết định chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Tiềm lực kinh tế và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế đã được nâng lên.
+ Nền kinh tế được cơ cấu lại, tốc độ được cơ cấu lại, tốc độ tăng trưởng kinh tế
có xu hướng tăng nhanh và ổn định; cơ cấu ngành kinh tế nói chung và nội bộ
ngành nói riêng thay đổi tích cực theo xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
mở cửa, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế đã đạt trình độ cao hơn hẳn trước
thời kì đổi mới.
+ Chính sách “mở cửa” và hội nhập kinh tế quốc tế tao điều kiện thực hiện chiến
lược cơ cấu ngành hướng vào tăng trưởng xuất khẩu, mở rộng thị trường đa

phương, tăng cường thu hút FDI, ODA, các nguồn lực thông tin tri thức khác để
phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu ngành.
+ Vai trò của nhà nước trong điều hành kinh tế, thực hiện quá trình cơ cấu lại các
ngành kinh tế được tăng cường. Đời sống của mọi tầng lớp nhân dân cải thiện
từng bước, giảm bớt tỷ lệ đói nghèo.
+ Việt Nam có nhiều nguồn lực trong đó có những lợi thế so sánh làm cơ sở cho
hoạch định chiến lược cơ cấu ngành, đảm bảo cho sự tăng trưởng nhanh, chuyển
dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa hội
nhập kinh tế khu vực và quốc tế như: vị trí địa lí kinh tế - chính trị thuận lợi, tài
nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng; dân số trẻ và có học vấn tương đối khá;
nguồn nhân lực có năng lực tiếp thu khoa học công nghệ mới để thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế; nguồn lực về vốn
được nâng lên do tích lũy vốn trong nội bộ nền kinh tế có tiến bộ và lượng vốn
nhàn rỗi còn nhiều ở trong dân là yếu tố thuận lợi cho chuyển dịch cơ cấu ngành.

2.5.2 Thách thức ( khó khăn)
Thách thức to lớn đối với Việt Nam cũng như các nước đi sau là tụt hậu,
tức là không bắt nhịp được vào trình độ phát triển nhanh và cao của kinh tế toàn
cầu. Nguyên nhân cơ bản là do nghèo và kém phát triển nên thiếu năng lực, điều
kiện cần thiết để tiếp nhận và tận dụng hiệu quả các yếu tố, cơ hội phát triển.
Thiếu tiềm lực tài chính – kinh tế , năng lực trí tuệ, kinh nghiệm quản lí vĩ mô
nền kinh tế hiện đại, tiếp nhận và vận dụng tri thức, do đó, năng lực, trình độ phát
triển thường thấp hơn các nước phát triển. Năng lực và kinh nghiệm quản lý kinh
tế của nhà nước còn yếu nên phản ứng chính sách trước những biến dịch nhanh,
khó lường của thế giới và khu vực còn rất lúng túng, thiếu khả năng phòng tránh
các rủi ro. Vì vậy, trong xu thế toàn cầu hóa và kinh tế tri thức, một số nước
nghèo và thiếu tri thức có nguy cơ tụ hậu phát triển so với các nước giàu. Đối với
Việt Nam, từ điểm xuất phát thấp, nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình
chuyển đổi và phát triển, đây cũng là thách thức lớn và bao trùm hiện nay. Tiến
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và cơ cấu lại ngành kinh tế những thập kỉ tới

phải đối mặt với thách thức to lớn này.
Tăng trưởng và phát triển chưa ổn định, vững chắc, nền kinh tế nước ta
còn kém phát triển, nhiều nguồn lực và tiềm năng trong nước để phát triển kinh
tế chưa được huy động và sử dụng tốt.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh, năng suất, chất lượng sản phẩm, trình độ
khoa học – công nghệ thấp, sức cạnh tranh của cả nền kinh tế cũng như từng
ngành hàng, sản phẩm và doanh nghiệp chưa cao.
Những tàn dư của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp vẫn
chua khắc phục hết.
Tích lũy vốn từ nội bộ nền kinh tế và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư còn
thấp.
Ngoài ra còn phải kể đến những nhược điểm trong chính sách kinh tế và
cơ chế quản lí gây thất thoát, lãng phí khá nghiêm trọng trong quản lí kinh tế.
Tình trạng quan liêu, tham nhũng … còn phổ biến.
CHƯƠNG 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
NGÀNH KINH TẾ Ở VIỆT NAM
3.1 Quan điểm về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
3.1.1 Quan điểm cơ bản về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Để phấn đấu đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm
2020, trong thời gian tới, mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là tăng
nhanh tỉ trong công nghiệp và dịch vụ, giảm tỉ trọng nông nghiệp trong GDP.
Bảng 3: Mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế (% GDP)
2010 2020
Nông nghiệp 16 – 17 10
Công nghiệp 40 35 - 40
Dịch vụ 43 50 - 60
Để đảm bảo thực hiện những mục tiêu này, những quan điểm cơ bản cần
chú ý là:
Chuyển dịch cơ cấu ngành phải gắn liền với tiến trình hội nhập kinh tế của

đất nước. Cái mốc quan trọng cho việc mở cửa kinh tế và tự do hóa thương mại
của Việt Nam và bước chuyển dịch ngành kinh tế là vào năm 2006, 2010 và
2020. Cái mốc này cũng phù hợp với kế hoạch 5 năm đầu thế kỷ 21, chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 và mục tiêu đưa đất nước cơ bản trở
thành công nghiệp hóa vào năm 2020.
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phải dựa trên hiệu quả và lợi ích của toàn
bộ nền kinh tế quốc dân. Để điều chỉnh cơ cấu ngành kinh tế phù hợp với xu thế
hội nhập sẽ có những ngành, những doanh nghiệp nâng cao được khả năng cạnh
tranh, đứng vững trên thị trường trong và ngoài nước. Ngược lại, cũng có những
ngành, những doanh nghiệp phải thu hẹp hoặc chuyển hướng sản xuất kinh
doanh. Trong mọi trường hợp cần đặt tổng thể nền kinh tế lên trên lợi ích của
từng ngành , từng địa phương khi đưa ra các quyết định. Nhà nước cần giữ vai
trò là người điều hòa các nguồn lợi có được trong quá trình hội nhập để có những
hổ trợ cần thiết cho các ngành, các doanh nghiệp phải điều chỉnh cơ cấu.
Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu, trước mắt có ngành cần bảo hộ. Nhưng
việc bảo hộ phải đảm bảo nguyên tắc. Bảo hộ có thời hạn, có điều kiện, có định
hướng; Cần yêu cầu các ngành hàng, các doanh nghiệp được bảo hộ phải có
chương trình, biện pháp cụ thể để từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh và có
thể đứng vững trên thị trường khi chấm dứt bảo hộ.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đòi hỏi phải tiến hành từng bước với sự nỗ lực
đồng bộ của các ngành, các cấp và cả người lao động trong việc huy động sức
người, sức của và tổ chức thực hiện. Trước mắt cần khẩn trương triển khai đưa
vào nội dung của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, kế hoạch 5 năm và hằng
năm. Hội nhập kinh tế và chuyển dịch cơ cấu cần được tiến hành theo các
chương trình kế hoạch với các bước đi vững chắc.
Chuyển dịch cơ cấu ngành cần kết hợp với cơ cấu thành phần và cơ cấu
vùng - lãnh thổ. Cơ cấu ngành kết hợp với cơ cấu thành phần thể hiện ở việc sử
dụng các chính sách, biện pháp động viên sự phát triển của các thành phần kinh
tế để thu hút tối đa và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước. Cơ cấu
ngành gắn với cơ cấu vùng – lãnh thổ thông qua việc xây dựng các khu công

nghiệp, khu chế xuất, các trung tâm công nghiệp, vừa tạo động lực cho phát triển
kinh tế, vừa tạo điều kiện để đô thị hóa nông thôn; Cần chú ý phát triển công
nghiệp địa phương và công nghiệp nông thôn theo hướng phát huy thế mạnh của
mỗi vùng, mỗi địa phương, thực hiện chuyển đổi cơ cấu lao động tại chỗ.
3.1.2 Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là vấn đề mang tính quy luật đối với các
nước trong quá trình phát triển.Cơ cấu ngành kinh tế lại có thể xét thấy trên nhiều
góc độ. Với việc xem xét các yếu tố đầu vào là cơ cấu lao động, cơ cấu kĩ thuật.
Thông thường cơ cấu đầu ra tính theo giá trị sản xuất được sử dụng để phản ánh
cơ cấu ngành. Sự chuyển dịch cơ cấu này mang tính quy luật, đó là thu nhập đầu
người tăng lên thì tỉ trọng nông nghiệp trong tổng sản phẩm sẽ giảm xuống, còn
tỉ trọng của công nghiệp và dịch vụ sẽ tăng lên. Khi đạt đến trình độ nhất định, tỉ
trọng của dịch vụ sẽ tăng nhanh hơn tỉ trọng của công nghiệp.
Xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành đã được hai nhà kinh tế học là E.
Engel và A. Fisher nghiên cứu khi đề cập đến sự thay đổi về nhu cầu chi tiêu và
sự thay đổi cơ cấu lao động. Ngay từ cuối thế kỷ 19, E. Engel đã nhận thấy rằng,
khi thu nhập của các gia đình tăng lên thì tỉ lệ chi tiêu cho lương thực, thực phẩm
giảm đi nên tất yếu dẫn đến tỉ trọng nông nghiệp trong toàn bộ nến kinh tế sẽ
giảm đi khi thu nhập tăng lên. Quy luật E. Engel được nghiên cứu cho sự tiêu
dùng lương thực, thực phẩm, nhưng có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng
nghiên cứu tiêu dùng cho các loại sản phẩm khác. Các nhà kinh tế gọi lương
thực, thực phẩm là sản phẩm thiết yếu, hàng công nghiệp là sản phẩm tiêu dùng
lâu bền và việc cung cấp dịch vụ là hàng tiêu dùng cao cấp. Thực tế phát triển
của các nước đã chỉ ra xu hướng chung là khi thu nhập tăng lên thì tỉ lệ chi tiêu
cho hàng tiêu dùng lâu bền tăng phù hợp với tốc độ tăng thu nhập, còn chi tiêu
cho hàng tiêu dung cao cấp có tốc độ tăng nhanh hơn.
Cùng với quy luật tiêu thụ sản phẩm E. Engel, quy luật tăng năng suất lao
động của A. Fisher cũng làm rõ xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế qua
việc phân bố lao động. Trong quá trình phát triển, việc tăng cường sử dụng máy
móc và các phương thức canh tác mới đã tạo điều kiện nâng cao năng suất lao

động. Kết quả là, để đảm bảo lương thực, thực phẩm cho xã hội sẽ không cần đến
lực lượng lao động như cũ, có nghĩa là tỉ lệ lao động trong nông nghiệp sẽ giảm.
Ngược lại, tỉ lệ lao động được thu hút vào công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng
do tính co dãn về nhu cầu sản phẩm của hai khu vực và khả năng hạn chế hơn
trong việc áp dụng tiến bộ kỹ thuật để thay thấ lao động, đặc biêt là hoạt động
dịch vụ.
Từ những cơ sở lý thuyết nêu trên có thể rút ra xu hướng có tính quy luật
chung của sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành đối với các nước tử nền kinh tế
nông nghiệp đi lên là chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong quá trình này, các ngành công nghệp và dịch vụ có tốc độ tăng trưởng cao
hơn nông nghiệp. Do đó, tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu của nền kinh tế giảm
dần, tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ tăng lên. Đối với các nước đã công
nghiệp hóa thành công thì xu hướng chung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế là
phát triển mạnh các ngành dịch vụ. Trong quá trình này không chỉ nông nghiệp
mà cả công nghiệp tăng trưởng chậm hơn so với dịch vụ. Do đó, dần dần tỷ trọng
nông nghiệp và công nghiệp giảm dần, tỷ trọng dịch vụ tăng lên.
3.2 Các giải pháp khắc phục khó khăn trong qúa trình chuyển dịch cơ cấu
ngành kinh tế
Trong Báo cáo của Chính phủ trình bày tại kỳ họp thứ tư, Quốc hội khoá
XII (tháng 10-11-2008) đã nêu rõ có nhiều nguyên nhân khiến cho kinh tế nước
ta lâm vào tình trạng lạm phát và suy giảm tăng trưởng từ đầu năm 2008 đến nay,
trong đó có một nguyên nhân cơ bản là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa còn chậm. Vì thế đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa vẫn được coi là một trong những giải
pháp quan trọng hàng đầu để phát triển bền vững. Cụ thể, để phấn đấu đạt được
mục tiêu kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế đến hết năm 2010 như Đại hội X
đã đề ra, cần thực hiện tốt hơn nữa những vấn đề sau đây:
Tăng mạnh hơn nữa tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ trong tổng sản
phẩm quốc nội (GDP). Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở nước ta trước hết chính là quá trình phát triển mạnh các ngành

nghề phi nông nghiệp, thông qua đó giảm bớt lao động trong lĩnh vực nông
nghiệp, tăng khả năng tích luỹ cho dân cư. Đây lại chính là điều kiện để tái đầu
tư, áp dụng các phương pháp sản xuất, công nghệ tiên tiến hiện đại vào sản xuất,
trong đó có cả sản xuất nông nghiệp. Kết quả là, tất cả các ngành kinh tế đều phát
triển, nhưng ngành công nghiệp và dịch vụ cần phát triển nhanh hơn, biểu hiện là
tăng tỷ trọng của sản phẩm công nghiệp và dịch vụ trong GDP.
Hình thành các vùng kinh tế dựa trên tiềm năng, lợi thế của vùng, gắn với
nhu cầu của thị trường. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa là quá trình chuyển biến căn bản về phân công lao động xã hội theo
lãnh thổ. Xoá bỏ tình trạng chia cắt về thị trường giữa các vùng; xoá bỏ tình
trạng tự cung tự cấp, đặc biệt là tự cung, tự cấp về lương thực của từng vùng,
từng địa phương. Mỗi địa phương cần đặt mình trong một thị trường thống nhất,
không chỉ là thị trường cả nước mà còn là thị trường quốc tế, trên cơ sở đó xác
định những khả năng, thế mạnh của mình để tập trung phát triển, tham gia vào
quá trình phân công và hợp tác lao động có hiệu quả.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với quá trình hình thành các trung tâm kinh tế thương mại, gắn liền với quá trình
đô thị hoá. Mặt khác, việc quy hoạch xây dựng các khu đô thị, trung tâm kinh tế,
thương mại có ảnh hưởng trực tiếp trở lại tới quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế.
Giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng số lao
động xã hội. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa là quá trình phân công lao động xã hội, là quá trình chuyển dịch lao động từ
ngành nông nghiệp sang các ngành công nghiệp và dịch vụ. Đây là giải pháp vừa
cấp bách, vừa triệt để để giải quyết tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn hiện
nay, đồng thời là hệ quả tất yếu của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

×