Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam trong thời kỳ hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.32 KB, 26 trang )

Chuyên đề kinh tế Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nhận thấy rằng đường lối,
chiến lược phát triển kinh tế là yếu tố đầu tiên quyết định sự thành bại trong quá
trình phát triển kinh tế của một đất nước. Trong đó, việc xây dựng một cơ cấu kinh
tế hợp lý là một trong những vấn đề hết sức quan trọng.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, từ năm 1986 đến nay, rõ nhất là từ
năm 1990 cơ cấu kinh tế nước ta đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực phù
hợp với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng các ngành công nghiệp
và dịch vụ tăng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn. Những chuyển biến đó đã góp phần
tạo đà cho nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định.
Tuy nhiên, những tiến bộ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế đó cũng mới chỉ
là bước đầu và nhìn chung sự chuyển dịch cơ cấu còn chậm. Cho đến nay, nước ta
vẫn là nước nông nghiệp, dân cư sống ở nông thôn và lao động nông nghiệp vẫn
chiếm tỷ trọng lớn. Để đạt được mục tiêu đến năm 2020: "Đưa nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế
ngành hợp lý với tỷ trọng ngành nông nghiệp chiếm dưới 10%, công nghiệp 35 -
40%, dịch vụ chiếm 50 - 60% trong tổng GDP" mà Đại hội VIII đã đề ra thì còn
nhiều vấn đề phải được tiếp tục nghiên cứu và có giải pháp sát thực.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, em đã chọn đề tài “Sự chuyển dịch cơ
cấu ngành kinh tế Việt Nam trong thời kỳ hội nhập” nhằm nghiên cứu tình
hình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở nước ta trong thời gian qua và những giải
pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành trong thời gian tới.
2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
2.1 Mục tiêu chung:
Tìm hiểu thực trạng quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở Việt Nam,
từ đó đề ra những giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
2.2 Mục tiêu cụ thể:
- Đánh giá tình hình chuyển dịch cơ cấu ngành trong thời gian qua
- Phân tích những nhân tố thuận lợi và bất lợi ảnh hưởng đến chuyển dịch


cơ cấu ngành

GVHD: TRƯƠNG KHÁNH VĨNH XUYÊN SVTH: VÕ THỊ NGỌC ĐIỆP
1
Chuyên đề kinh tế Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
- Những giải pháp đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả chuyển dịch cơ cấu
kinh tế
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
3.1 Phương pháp thu thập số liệu:
Thu thập số liệu thứ cấp qua niên giám thống kê, tổng cục thống kê, các báo
cáo, tìm hiểu thông tin trên sách, báo, tạp chí, truyền thông, mạng Internet.
3.2 Phương pháp phân tích số liệu:
- Sử dụng phương pháp thống kê mô tả hiệu quả chuyển dịch cơ cấu ngành
kinh tế
- So sánh, phân tích, tổng hợp
- Từ mô tả và phân tích trên, sử dụng các phương pháp suy luận, quy nạp để
đưa ra các biện pháp nhằm thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1 Phạm vi về không gian: cả nước Việt Nam
4.2 Phạm vi về thời gian: từ năm 2007 đến năm 2009
4.3 Phạm vi về đối tượng nghiên cứu: Tốc độ tăng trưởng của các ngành
công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ.

GVHD: TRƯƠNG KHÁNH VĨNH XUYÊN SVTH: VÕ THỊ NGỌC ĐIỆP
2
Chuyên đề kinh tế Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ - NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ
LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1 Lí luận về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế
Cơ cấu kinh tế là tập hợp các bộ phận hợp thành tổng thể nền kinh tế và mối
tương quan tỷ lệ giữa các bộ phận hợp thành so với tổng thể.
Cơ cấu kinh tế theo ngành: là cơ cấu kinh tế trong đó mỗi bộ phận hợp thành
là một ngành hay một nhóm ngành kinh tế. Cơ cấu ngành kinh tế phản ánh phần
nào trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội của
một quốc gia. Nếu đứng trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế để xem xét thì cơ cấu
kinh tế ngành bao gồm ba nhóm ngành chính: nông nghiệp, công nghiệp và dịch
vụ, còn trong phạm vi từng nhóm ngành có thể phân chia thành các ngành chuyên
môn hóa ở những mức độ khác nhau. Cụ thể, nhóm ngành nông nghiệp có thể
phân chia thành các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản; nhóm ngành công
nghiệp chia thành các ngành công nghiệp khai thác, công nghiệp chế biến, công
nghiệp sửa chữa xây dựng; nhóm ngành dịch vụ có thể chia thành các ngành
thương mại, bưu chính viễn thông, giao thông vận tải, du lịch, tài chính, ngân
hàng. Cơ cấu kinh tế theo ngành là tiêu chuẩn cơ bản phản ánh trình độ phát triển
kinh tế cơ bản của một quốc gia. Vì vậy, trong quá trình phát triển các nước đang
phát triển đặc biệt quan tâm đến xây dựng chiến lược chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo ngành, coi đó là điều kiện tiền đề, cơ bản để tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình thay đổi cơ cấu kinh tế từ trạng thái
này sang trạng thái khác ngày càng hoàn thiện hơn, phù hợp hơn với môi trường
và điều kiện phát triển của nền kinh tế. Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
mỗi quốc gia, hay mỗi một ngành kinh tế, hay mỗi vùng, địa phương có thể đưa
vào cơ cấu kinh tế những ngành mới (sản phẩm, dịch vụ mới) hay có thể loại ra
khỏi cơ cấu kinh tế những ngành (những sản phẩm) không còn phù hợp, hoặc có
thể chuyển dịch theo hướng tăng hay giảm tỷ trọng của một ngành một (sản phẩm)
nào đó. Đó là quá trình chuyển từ cơ cấu kinh tế lạc hậu, bất hợp lý sang cơ cấu
kinh tế hợp lý; hoàn thện và bổ sung cơ cấu cũ nhằm biến cơ cấu cũ thành cơ cấu
kinh tế mới hiện đại và phù hợp hơn. Sự thay đổi như vậy không đơn giản chỉ là

GVHD: TRƯƠNG KHÁNH VĨNH XUYÊN SVTH: VÕ THỊ NGỌC ĐIỆP

3
Chuyên đề kinh tế Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
sự thay đổi số lượng các ngành và tỷ trọng của mỗi ngành, mà còn bao gồm sự
thay đội vị trí, tính chất mối quan hệ trong nội bộ cơ cấu ngành.
Nội dung của cơ cấu kinh tế ngành được thể hiện là:
-Đó là số lượng các ngành được hình thành. Số lượng này luôn luôn phát triển theo
phân công lao động xã hội
-Mối quan hệ về số lượng thể hiện ở tỷ trọng của mỗi ngành trong tổng thể.
-Mối quan hệ về chất lượng phản ánh vị trí, tầm quan trọng từng ngành, các mối
liên kết kinh tế - kỹ thuật, kinh tế xã hội và tính chất tác động qua lại lẫn nhau giữa
chúng.
Nói chung, mối quan hệ của các ngành cả về số lượng và chất lượng đều thường
xuyên biến đổi và ngày càng trở nên phức tạp hơn theo sự phát triển của lực lượng
sản xuất và phân công lao động xã hội trong nước và quốc tế.
Chỉ tiêu kinh tế làm cơ sở để biểu hiện cơ cấu là GDP (tổng sản phẩm nội địa)
1.2 Bối cảnh kinh tế quốc tế
1.2.1 Sự hình thành nền kinh tế tri thức trên cơ sở phát triển công nghệ kĩ
thuật hiện đại
Sự phát triển có tính bùng nổ của lực lượng sản xuất những năm gần đây
dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại đã làm biến đổi sâu
sắc nền kinh tế thế giới, tạo ra một bước ngoặt mới trong lịch sử phát triển của loài
người, hình thành nền kinh tế tri thức.
Tri thức đã trở thành một dạng cơ bản của tư bản, tăng trưởng kinh tế được
dẫn dắt bởi tích tụ tri thức. Ngày nay các nền kinh tế tiên tiến nhất về công nghệ
đã hoàn toàn dựa trên tri thức.
Nền kinh tế tri thức đã thực sự trở thành mục tiêu then chốt trong chiến lược
phát triển kinh tế xã hội của nhiều quốc gia và cũng đang trở thành tiêu điểm quan
tâm của quảng đại quần chúng. Kinh tế tri thức lấy công nghệ kĩ thuật cao làm lực
lượng sản xuất thứ nhất, lấy trí lực ( năng lực trí tuệ) làm chỗ dựa chủ yếu. Công
nghệ kĩ thuật cao cần tri thức, trí lực, nếu không có nhiều thông tin, tri thức, trí lực

thì nó không phải là kĩ thuật cao. Tư tưởng chỉ đạo của phát minh kĩ thuật cao là
lợi dụng nguồn tài nguyên hiện có một cách khoa học, hợp lý, tổng hợp và hiệu
xuất cao. Đồng thời khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên chưa được khai thác để

GVHD: TRƯƠNG KHÁNH VĨNH XUYÊN SVTH: VÕ THỊ NGỌC ĐIỆP
4
Chuyên đề kinh tế Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
thay thế cho nguồn tài nguyên thiên nhiên khan hiếm đã gần cạn kiệt. Kinh tế tri
thức là kinh tế thúc đẩy điều hòa giữa con người và thiên nhiên nên phát triển bền
vững.
Ngày nay ngoài các ngành truyền thống, trong nền kinh tế thế giới đang hình
thành và phát triển mạnh mẽ các ngành công nghiệp mới mà nguyên liệu đầu vào
chủ yếu là thông tin và tri thức, với tốc độ tăng trưởng cao gấp nhiều lần so với
phát triển kinh tế nói chung. Đã xuất hiện hiện tượng thần kỳ về phát triển kinh tế
chưa từng thấy trong lịch sử, vượt xa sự phỏng đoán của hầu hết các chuyên gia
tầm cỡ thế giới cũng như sức tưởng tượng và hình dung của con người dựa vào
những kinh nghiệm trong quá khứ. Nền kinh tế thế giới đang chuyển từ kinh tế
công nghiệp sang kinh tế tri thức, nền văn minh loài người chuyển từ văn minh
công nghiệp sang văn minh trí tuệ.
Một nước có thể được gọi là nền kinh tế tri thức khi :
- Có hơn 70% GDP đóng góp do ngành kinh tế tri thức
- Cơ cấu giá trị gia tăng có trên 70% giá trị do lao động trí óc mang lại.
- Cơ cấu lao động có hơn 70% là công nhân trí thức
- Cơ cấu tư bản trên 70% là tư bản con người.
1.2.2 Đặc điểm mới của toàn cầu hóa kinh tế
Ngày nay, toàn cầu hóa kinh tế là đặc trưng và xu hướng phát triển phổ
biến của nền kinh tế thế giới, bất luận đó là nền kinh tế có quy mô và trình độ phát
triển ra sao và thuộc chế độ chính trị - xã hội thế nào. Toàn cầu hoá kinh tế là một
xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, xu thế này đang bị
một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế tư bản xuyên quốc gia chi phối,

chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp
tác vừa có đấu tranh, vừa tạo ra những cơ hội cho sự phát triển nhưng cũng vừa
có những thách thức đối với các quốc gia, nhất là các quốc gia đang ở trình độ
kém phát triển
Tác động tích cực của toàn cầu hóa:
- Thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất
- Mở rộng và phát triển thị trường ra khu vực và toàn cầu

GVHD: TRƯƠNG KHÁNH VĨNH XUYÊN SVTH: VÕ THỊ NGỌC ĐIỆP
5
Chuyên đề kinh tế Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
- Bổ sung và phân bổ lại nguồn lực
- Thúc đẩy cải cách kinh tế và hợp tác phát triển
- Tiền đề cho sự phát triển bền vững
- Nâng cao đời sống nhân dân thông qua tăng trưởng kinh tế và tiếp cận của
người dân với các sản phẩm và dịch vụ cao cấp quốc tế, cơ hội học tập và
du lịch nước ngoài.
Tác động tiêu cực của toàn cầu hóa:
- Chịu hiệu ứng “lây lan” của những bất ổn khu vực và toàn cầu.
- Làm trầm trọng thêm khoảng cách giàu nghèo trong một xã hội, giữa các
nước và các khu vực.
Như vậy, có thể nói rằng, toàn cầu hoá đang đặt ra hàng loạt những thách thức hết
sức khó khăn cho tất cả các nước. Đó chính là những vấn đề toàn cầu mà nhân loại
đang và sẽ phải đối mặt. Nhận thức cho được các vấn đề này và tìm ra đối sách để
giải quyết chúng là nhiệm vụ không dễ dàng, nhưng đó lại là việc không thể không
làm một cách tích cực, từng bước và làm một cách khoa học. Có vượt qua được
những thách thức đó, chúng ta mới có cơ hội phát triển nhanh hơn trong tương lai.
Vì vậy, "nắm bắt cơ hội: vượt qua thách thức, phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ
mới, đó là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và nhân dân ta”.
Rõ ràng bối cảnh quốc tế tạo cho chúng ta nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách

thức. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hội nhập quốc tế là phải vượt qua các
thách thức đó, tranh thủ được các cơ hội để tạo lập một cơ cấu kinh tế mới phù
hợp, tiến bộ và hiệu quả hơn.
1.3 Bối cảnh kinh tế trong nước
Quá trình đổi mới hơn 20 năm qua, nhất là từ năm 1991, thực hiện chính
sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế khu vực, quốc tế, thế và lực phát triển của
nền kinh tế Việt Nam đã có sự thay đổi lớn.

GVHD: TRƯƠNG KHÁNH VĨNH XUYÊN SVTH: VÕ THỊ NGỌC ĐIỆP
6
Chuyên đề kinh tế Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
Kinh tế tăng trưởng nhanh và tương đối ổn định, GDP năm sau cao hơn
năm trước, tiềm lực kinh tế đã lớn mạnh hơn. Cơ cấu ngành nói riêng và cơ cấu
kinh tế nói chung đã có bước chuyển dịch đáng kể theo hướng công nghiệp hóa và
từng bước hiện đại hóa.
Vừa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, vừa tiếp tục hội nhập sâu hơn vào
nền kinh tế khu vực và thế giới, quan hệ kinh tế đối ngoại được tiếp tục củng cố và
mở rộng.
Khung khổ pháp lý cho hoạt động của các loại thị trường đã dần được bổ
sung và hoàn thiện. Cơ chế quản lý mới hệ thống doanh nghiệp nhà nước đã được
xác định; tổ chức triển khai sâu rộng Luật doanh nghiệp; sửa đổi bổ sung Luật
thuế, Luật đất đai; thị trường hàng hóa sôi động và phát triển nhanh; thị trường lao
động có bước phát triển, hệ thống thị trường tài chính tiền tệ đã phát triển và đạt
được kết quả khả quan.
Các yếu tố ngoại lực (vốn, kỹ thuật – công nghệ, tri thức, thị trường) đã trở
thành lực lượng quan trọng và được kết hợp với yếu tố nội lực đã tạo thành sức
mạnh tổng hợp thúc đẫy nền kinh tế phát triển. Những động lực phát triển mới đã
xuất hiện: cạnh tranh theo nguyên tắc thị trường, các nhu cầu được mở rộng làm
mở rộng các cơ hội phát triển, do đó, đã tạo nhiều khả năng lựa chọn các cơ hội
phát triển cho xã hội

Tóm lại, bước vào thời kỳ phát triển mới, nền kinh tế nước ta đã có sự thay
đổi về thế và lực: cấu trúc kinh tế mới, tiềm lực mới, thế path triển mới, động lực
mới và lực lượng chủ thể mới.

GVHD: TRƯƠNG KHÁNH VĨNH XUYÊN SVTH: VÕ THỊ NGỌC ĐIỆP
7
Chuyên đề kinh tế Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
CHƯƠNG 2
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP
2.1 Thực trạng cơ cấu kinh tế tại Việt Nam
Sang thế kỷ XXI, thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng về đẩy nhanh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ,cơ cấu kinh tế quốc dân chuyển dịch nhanh theo
hướng tích cực nhưng tốc độ vẫn còn chậm. Năm 2000 - 2005, GDP bình quân
mỗi năm đạt 7,5%. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng đạt 8,4%, GDP theo giá hiện
hành, đạt 838 nghìn tỷ đồng, bình quân đầu người đạt trên 10 triệu đồng, tương
đương với 640 USD. Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu 50 vạn - 1
triệu tấn lương thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới.
Năm 2005, nước ta đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo, thứ 2 về cà phê, thứ
4 về cao su, thứ 2 về hạt điều, thứ nhất về hạt tiêu. Về cơ cấu ngành, tỷ trọng nông
nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1988 là 46,3%, năm 2005 còn 20,9%. Trong nội
bộ ngành nông nghiệp cơ cấu trồng trọt và chăn nuôi đã chuyển dịch theo hướng
tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản
phẩm có giá trị xuất khẩu. Trong kế hoạch 5 năm 2001 - 2005, giá trị sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp tăng 5,5%/năm, giá trị tăng thêm bằng khoảng 3,89%/năm.
Sản phẩm công nghiệp xuất khẩu ngày càng tăng, có chỗ đứng trong những thị
trường lớn, giá trị sản xuất công nghiệp và xây dựng tăng 15,9%/năm, giá trị tăng
thêm đạt 10,2%/năm. Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP đã tăng từ 33,1% năm
1988 lên 38,1% năm 2005. Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống.


GVHD: TRƯƠNG KHÁNH VĨNH XUYÊN SVTH: VÕ THỊ NGỌC ĐIỆP
8
Chuyên đề kinh tế Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
Bảng 1 : Cơ cấu GDP theo ngành từ 1995-2004
Đơn vị tính:%
1995 2000 2003 2004
Nông lâm thuỷ
sản
27,18 24,53 22,54 21,76
Công nghiệp, xây
dựng
28,76 36,73 39,47 40,09
Dịch vụ 44,06 38,74 37,99 38,165
Nguồn: tổng cục thống kê
Bảng 2: Tỷ lệ đóng góp của từng ngành vào tốc độ tăng GDP(%)
2000 2001 2002 2003 2004
Nông, lâm nghiệp, thuỷ
sản
1,10 0,69 0,91 0,72 0,80
Công nghiệp và xây
dựng
3,46 3,68 3,45 3,86 3,90
Dịch vụ 2,23 2,52 2,68 2,68 3,00
Tổng GDP 6,79 6,89 7,04 7,26 7,60
Nguồn: Tổng cục thống kê
Kết thúc kế hoạch 5 năm 2000-2005, xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế
quốc dân theo GDP về cơ bản vẫn như những năm trước đó. Tỷ trọng nông
nghiệp (nghĩa rộng) chiếm 22, l1%, công nghiệp và xây dựng chiếm 39,79% và
dịch vụ chiếm 38, 10% GDP. Như vậy, mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế

chỉ có 2 chỉ tiêu đạt được là nông nghiệp, công nghiệp và xây dựng theo nghĩa
rộng, còn dịch vụ không đạt được.
Từ năm 2007 trở lại đây, chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính
toàn cầu làm cho tình hình kinh tế thế giới và trong nước có nhiều biến động phức
tạp, khó lường, nền kinh tế nước ta tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức, tuy
nhiên cơ cấu kinh tế ngành và nội bộ ngành đã chuyển dịch tích cực. Tổng sản
phẩm trong nước (GDP) năm 2008 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 6,23% so
với năm 2007, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,79%; khu
vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,33%; khu vực dịch vụ tăng 7,2%. Năm 2009,

GVHD: TRƯƠNG KHÁNH VĨNH XUYÊN SVTH: VÕ THỊ NGỌC ĐIỆP
9
Chuyên đề kinh tế Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
GDP tăng 5,32%, bao gồm: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,83%;
khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,52%; khu vực dịch vụ tăng 6,63%.
Bảng 3: Tốc độ tăng trưởng GDP và các ngành kinh tế thời kỳ 2007-2009
Đơn vị tính: %
2007 2008 2009
Nông nghiệp 3,40 3,79 1,83
Công nghiệp 10,60 6,33 5,52
Dịch vụ 8,69 7,20 6,63
Tổng 8,48 6,23 5,32
Nguồn: Tổng cục thống kê
Hình 1: Cơ cấu GDP Việt Nam phân theo nhóm ngành thời kỳ 1991-2008
Nguồn: Tổng cục thống kê
+ Cùng với sự thay đổi mạnh mẽ tỷ trọng, giá trị sản lượng của các ngành
công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ cũng thay đổi mạnh,cụ thể mức tăng của khu
vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2008 cao hơn mức tăng năm 2007 và 2006,
chủ yếu do sản xuất nông nghiệp được mùa, sản lượng lúa cả năm tăng 2,7 triệu
tấn so với năm 2007 và là mức tăng cao nhất trong vòng 11 năm trở lại đây. Tăng

trưởng khu vực công nghiệp và xây dựng năm 2008 đạt mức thấp hơn mức tăng
của năm 2007, chủ yếu do sản xuất của ngành công nghiệp khai thác giảm nhiều
so với năm trước (giá trị tăng thêm giảm 3,8%); công nghiệp chế biến chiếm tỷ
trọng 63,5% trong tổng giá trị tăng thêm công nghiệp nhưng giá trị tăng thêm chỉ
tăng 10%, thấp hơn mức tăng 12,8% của năm 2007; đặc biệt giá trị tăng thêm của
ngành xây dựng năm nay không tăng, trong khi năm 2007 ngành này tăng ở mức

GVHD: TRƯƠNG KHÁNH VĨNH XUYÊN SVTH: VÕ THỊ NGỌC ĐIỆP
10

×