Tải bản đầy đủ (.docx) (156 trang)

Nghiên cứu các vấn đề về kỹ thuật, công nghệ của ISP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 156 trang )

Nghiên cứu các vấn đề về kỹ thuật, công nghệ của ISP
Lời mở đầu
Mạng Internet đã được triển khai tại Việt Nam vào cuối năm 1997 với các nhà cung cấp dịch
vụ đang khai thác chính thức là VNPT, FPT, Saigon Postel và Netnam dưới sự quản lý trực tiếp
của Ban điều phối Internet quốc gia. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, mức sống của nhân dân
ngày một tăng, nhu cầu sử dụng Internet đang trở nên thiếu yếu và đang là một thị trường mở
đầy tiềm năng và có tính cạnh tranh cao. Hiện nay ngoài các ISP đang khai thác cũ đã xuất hiện
thêm nhiều ISP mới được cấp phép, đồng thời còn có cả nhà cung cấp dịch vụ IXP mới, cạnh
tranh mạnh mẽ dưới các hình thức khác nhau, việc cạnh tranh mạng sẽ càng ngày càng quyết liệt
hơn nhằm chiếm lĩnh thị trường và thị phần. Bên cạnh đó, có nhiều yếu tố dự báo và dẫn đến sự
phát triển mạnh của Internet của Việt nam như trình độ dân trí, mức sống, chính sách quản lý
Với những yếu tố tích cực và thử thách như trên, trong bản thân nội tại của VNPT cần có
những chính sách quản lý, khai thác, cung cấp dịch vụ linh hoạt mới tạo thành thế mạnh mới
thích ứng với những điều kiện cạnh tranh mới. Dịch vụ Internet càng phát triển, xu thế nhà cung
cấp dịch vụ viễn thông + Internet đang là một xu thế tất yếu. Thị trường dịch vụ viễn thông
VNPT có thể giảm xuống do sự xuất hiện của các IAP, ISP, ICP mới, nhưng do sự phổ cập hoá
các dịch vụ thông tin, sự lệ thuộc ngày càng nhiều của người sử dụng mạng Internet cùng những
tiến bộ mới trong công nghệ cũng tạo nên những cơ hội mới cho VNPT
Về phía Bưu điện TP Hà nội, hiện nay, Bưu điện TP Hà nội được Tổng Công ty BCVT Việt
nam giao làm chủ đầu tư dự án phân tải mạng VNN tại địa bàn Hà nội với mục đích chia tải cho
hệ thống VNN, do số lượng thuê bao VNN phát triển rất lớn, đồng thời khắc phục những bất cập
của mô hình cũ, thống nhất trong việc quản lý dịch vụ. Nhiệm vụ được giao phải xây dựng, triển
khai và vận hành hệ thống một cách an toàn, hiệu quả; có hàng loạt các vấn đề đặt ra, khó khăn
gặp phải rất nhiều, nhưng nổi bật nhất vẫn là thiếu đội ngũ cán bộ kỹ thuật có nhiều kinh
nghiệm.
Đứng trước khối lượng công việc như vậy đòi hỏi đội ngũ kỹ thuật của BĐHN phải có chuẩn
bị và đầu tư nghiên cứu nghiêm túc về vấn đề này. Vì vậy, nhóm tác giả đã tập trung nghiên cứu
một cách tổng thể những vấn đề về kỹ thuật công nghệ về mạng nói chung, trong đó chú trọng
nhấn mạnh những điểm cần lưu ý khi xây dựng một hệ thống cung cấp dịch vụ Internet –ISP cho
khách hàng; đồng thời đưa ra những khuyến nghị là những kết luận rút ra qua việc nghiên cứu về
các bước triển khai thực hiện.


Nội dung đề tài tập trung vào 3 phần chính:
+ Phần 1: Tóm tắt tổng quan những vấn đề kỹ thuật, công nghệ mạng máy tính nói chung.
+ Phần 2: Phân tích những vấn đề về kỹ thuật, công nghệ của mạng cung cấp dịch vụ ISP.
Trang 1
1
Nghiên cứu các vấn đề về kỹ thuật, công nghệ của ISP
+ Phần 3: Dựa trên những kết quả nghiên cứu, nhóm đề tài đã xây dựng cấu hình mạng ISP đề
xuất có thể triển khai tại Bưu điện Hà nội.
Thông qua nội dung nghiên cứu, nhóm tác giả hy vọng các kiến thức tổng hợp trong đề tài sẽ
là một tài liệu có ích cho các nhà quản lý có được một hình dung tổng quan nhất về một mạng
cung cấp dịch vụ truy nhập Internet, các bước thực hiện và các vấn đề cần giải quyết ; đồng thời
sẽ là một tài liệu chuyên môn tham khảo hữu ích cho các cán bộ làm công tác kỹ thuật của Bưu
điện Hà nội, cũng là tài liệu chuẩn bị cho dự án phân tải VNN tại BĐ TP Hà nội trong thời gian
sắp tới.
Nội dung của đề tài đề cập tới rất nhiều vấn đề về kỹ thuật và công nghệ, nhưng với khuôn
khổ trình bầy của quyển đề tài, nhóm tác giả đã cố gắng biên tập một cách cô đọng nhất; tuy vậy
chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót nhất định; rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng
góp của bạn đọc.
Trang 2
2
Nghiên cứu các vấn đề về kỹ thuật, công nghệ của ISP
Phần I - Internet và tcp/IP
Mục đích:
Giới thiệu tổng quát lại những khái niệm, kiến thức cơ bản về mạng máy tính nói chung và
mạng Internet nói riêng. Để tránh dàn trải, đề tài chỉ tập trung tới những vấn đề liên quan trực
tiếp tới mạng trên công nghệ TCP/IP và cho các ISP
Chương I Giới thiệu công nghệ mạng trên công nghệ TCP/IP
I -Lịch sử phát triển Internet và công nghệ TCP/IP
1- Lịch sử phát triển mạng Internet
Tháng 6/1968, cơ quan ARPA(Advanced Research Project Agency) của Bộ Quốc phòng Mỹ

(DoD) đã xây dựng dự án nối các trung tâm nghiên cứu lớn trong toàn liên bang, mở đầu là 4 cơ
sở. Mục tiêu là từ các trạm ban đầu này sẽ mở rộng ra các cơ sở nghiên cứu liên quan đến lĩnh
vực quân sự, hình thành một mạng máy tính có độ tin cậy cao phù hợp với yêu cầu của các hoạt
động quốc phòng, an ninh. Giải pháp ban đầu được chọn là của Bolt Beranek và Newman
(BBN), lúc đó chưa có các khái niệm LAN, WAN và cũng chưa có các máy tính PC như ngày
nay. Giải pháp của BBN bao gồm các nút mạng (gọi là IMP- Interface Message Processor) là tổ
hợp của phần cứng-phần mềm cài đặt trên các máy tính mini. Năm 1969, 4 trạm đầu tiên được
kết nối nhau thành công, đánh dấu sự ra đời của ARPANET- tiền thân của Internet hôm nay.
Giao thức truyền thông dùng trong ARPANET lúc đó được đặt tên là NCP(Network Control
Protocol).
Tuy nhiên từ nhu cầu thực tế, các nhà thiết kế ARPANET ngay từ lúc đó đã nhận thức được
cần xây dựng một mạng của các máy tính là một "mạng của các mạng". Giữa những năm 70, họ
giao thức TCP/IP được Vint Cerf (Đại học Stanford) và Robert Kahn (BBN) phát triển, ban đầu
cùng tồn tại với NCP và đến năm 1983 thì hoàn toàn thay thế NCP trong ARPANET.
ARPANET nhanh chóng mở rộng thêm các nút mới và trở thành một mạng quốc gia. Trong
thời gian đó, trung tâm nghiên cứu Palo Alto của hãng Xerox đã phát triển một trong những công
nghệ sớm nhất và phổ biến nhất của mạng cục bộ là Ethernet, với phương pháp truy nhập
phương tiện vật lý CSMA/CD nổi tiếng. TCP/IP được tích hợp vào môi trường điều hành Unix
và sử dụng chuẩn Ethernet để kết nối các trạm làm việc với nhau. Đến khi xuất hiện các máy tính
cá nhân PC thì TCP/IP lại được chuyển sang môi trường PC, cho phép các máy PC chạy DOS và
các trạm làm việc chạy Unix có thể liên tác trong cùng một mạng; cứ thế TCP/IP ngày càng được
sử dụng nhiều trong cả các mạng diện rộng lẫn các mạng cục bộ.
Thuật ngữ "Internet" lần đầu xuất hiện trong một tài liệu kế hoạch vào khoảng 1974. Nhưng
mạng với tên gọi ARPANET vẫn tồn tại chính thức đến đầu những năm 80. Lúc đó, Bộ Quốc
phòng Mỹ (DoD) đã quyết định tách phần quân sự ra thành mạng Milnet, còn phần dân sự vẫn
Trang 3
3
Nghiên cứu các vấn đề về kỹ thuật, công nghệ của ISP
được gọi là ARPANET. Bước ngoặt trong lịch sử Internet xảy ra chính vào thời điểm đó, với vai
trò tiên phong của NSF(National Science Foundation). Năm 1985, NSF bảo trợ cho 5 trung tâm

siêu tính (Supercomputer) của toàn liên bang và muốn kết nối chúng với nhau thành một mạng
xương sống phục vụ cho nghiên cứu khoa học.
Sự xuất hiện của mạng xương sống NSFnet và các mạng vùng đã thúc đẩy mạnh mẽ sự tăng
trưởng của Internet. Về địa lý, Internet cũng đẫ nhanh chóng vượt ra khỏi nước Mỹ và trở thành
một mạng toàn cầu như hiện nay. Đến năm 1990 thì quá trình chuyển đổi sang Internet - dựa trên
NSFnet kết thúc và tên gọi ARPANET đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của mình.
2. Mô hình OSI
Mặc dù xuyên suốt toàn bộ đề tài là các vấn đề về TCP/IP, ở phần sau sẽ trình bầy về mô hình
TCP/IP, tuy nhiên, chúng tôi trình bầy mô hình OSI để có ý nghĩa tham chiếu đối với mô hình
TCP/IP cho người đọc, nhất là những người sẽ làm về mạng có được cái nhìn toàn diện.
Ngành công nghiệp mạng có mô hình bảy lớp tiêu chuẩn cho cấu trúc giao thức mạng, gọi là
Mô hình Liên kết Hệ thống Mở (Open Systems Interconnection - OSI). Năm 1983, tổ chức ISO
(International Standardzation Organization) đưa ra mô hình OSI chuẩn hoá thiết kế hệ thống giao
thức mạng nhằm phát triển sự liên kết qua lại và truy cập tự do giữa các chuẩn giao thức.
Khi kiến trúc tiêu chuẩn OSI xuất hiện thì TCP/IP đã trên con đường phát triển. Xét một cách
chặt chẽ, TCP/IP không tuân theo OSI. Tuy nhiên, hai mô hình này có những mục tiêu giống
nhau và do có sự tương tác giữa các nhà thiết kế tiêu chuẩn nên 2 mô hình xuất hiện những điểm
tương thích. Cũng chính vì thế, các thuật ngữ của OSI thường được áp dụng cho TCP/IP.
So với mô hình TCP/IP, OSI chia nhiệm vụ của Lớp ứng dụng thành 3 phân lớp: ứng dụng,
Trình Bày và Khu vực. Hoạt động của Lớp tương tác mạng trong OSI được tách thành Lớp Kết
nối dữ liệu và Lớp Vật lý. Việc chia nhỏ chức năng làm tăng thêm sự phức tạp, nhưng đồng thời
cũng tạo ra sự linh hoạt cho các nhà phát triển.
Trang 4
4
Nghiên cứu các vấn đề về kỹ thuật, công nghệ của ISP
Mô hình OSI có 7 lớp như sau: Lớp ứng dụng, Lớp Trình diễn, Lớp Phiên, Lớp Giao vận, Lớp
Mạng, Lớp Liên kết dữ liệu, Lớp Vật lý. Mỗi lớp trong mô hình OSI có chức năng cung cấp dịch
vụ cho lớp cao hơn và che dấu đi quá trình xử lý ở các lớp thấp hơn.
Mô hình 7 lớp OSI
* Lớp Vật lý (Physical Layer)

Lớp Vật lý chịu trách nhiệm đặt dữ liệu lên môi trường mạng và truy nhập đường truyền vật
lý nhờ các phương tiện điện, cơ,
* Lớp Liên kết dữ liệu (Data Link Layer)
Lớp Liên kết cung cấp một liên kết không lỗi giữa hai thiết bị mạng. Các gói được chuyển
xuống từ lớp mạng được đóng thành khung (frame) và được chuyển xuống lớp vật lý. Thông tin
kiểm tra lỗi và sửa lỗi được bổ xung vào khung, kiểm tra lỗi ở đây là CRC.
IEEE 802 chia lớp dữ liệu thành hai lớp con là:
+ LLC (điều khiển liên kết logic): cung cấp dịch vụ kết nối định hướng và không kết nối.
+ MAC(điều khiển truy cập thiết bị): cung cấp các chức năng cần thiết để truy cập vào thiết bị
mạng.
* Lớp Mạng (Network Layer)
Lớp Mạng định nghĩa địa chỉ mạng, ví dụ như địa chỉ IP. Các đoạn dữ liệu được chuyển
xuống từ lớp giao vận được chia thành các gói và được chuyển xuống lớp liên kết dữ liệu. Lớp
Mạng xác định đường dẫn tới đích và hướng các gói tới các mạng ở xa.
* Lớp Giao vận (Transport Layer)
Lớp Giao vận nhận dữ liệu từ lớp phiên và chia nó thành các đoạn để chuyển xuống lớp
mạng. Lớp này chịu trách nhiệm đảm bảo các gói được phân phát không lỗi, đúng trình tự và
không có bất kỳ gói nào bị mất hoặc bị lặp lại. ở lớp này còn có phương pháp điều khiển luồng
bằng kỹ thuật Ack. Giao thức TCP(giao thức điều khiển truyền) và UDP (giao thức gói dữ liệu
người dùng) hoạt động ở lớp này.
Trang 5
5
Nghiên cứu các vấn đề về kỹ thuật, công nghệ của ISP
* Lớp Phiên (Session Layer)
Các Phiên truyền thông giữa các trạm mạng được thiết lập, được quản lý và kết thúc tại lớp
này. Các phiên điều khiển các yêu cầu và các đáp ứng về các ứng dụng trên trạm mạng. Các giao
thức hoạt động tại lớp phiên là: NFS(hệ thống file mạng), X Window, DNA SCP(Giao thức điều
khiển phiên kiến trúc mạng số)
* Lớp Trình bày (Presentation Layer)
Lớp Trình diễn chuyển đổi cú pháp dữ liệu để đáp ứng yêu cầu truyền dữ liệu của các ứng

dụng. Các phương pháp như: MIDI, ASCII, MPEG
* Lớp ứng dụng (Application Layer)
Lớp ứng dụng cung cấp giao diện từ mô hình tham chiếu OSI tới ứng dụng của người dùng
đầu cuối. Các giao thức thực hiện tại lớp này gồm: FTP(giao thức truyền file), SMTP (giao thức
truyền thư đơn giản), Telnet
3. Mô hình TCP/IP
Trước khi xem xét các thành phần của TCP/IP, chúng ta nên bắt đầu bằng cách tìm hiểu qua
nhiệm vụ của một hệ thống giao thức. Một hệ thống giao thức như TCP/IP phải đảm bảo khả
năng thực hiện những công việc sau:
- Cắt thông tin thành những gói dữ liệu để có thể dễ dàng đi qua bộ phận truyền tải trung gian.
- Tương tác với phần cứng của adapter mạng.
- Xác định địa chỉ nguồn và đích: Máy tính gửi thông tin đi phải có thể xác định được nơi gửi
đến. Máy tính đích phải nhận ra đâu là thông tin gửi cho mình.
- Định tuyến: Hệ thống phải có khả năng hướng dữ liệu tới các tiểu mạng, cho dù tiểu mạng
nguồn và đích khác nhau về mặt vật lý.
- Kiểm tra lỗi, kiểm soát giao thông và xác nhận: Đối với một phương tiện truyền thông tin
cậy, máy tính gửi và nhận phải xác định và có thể chữa lỗi trong quá trình vận chuyển dữ liệu.
- Chấp nhận dữ liệu từ ứng dụng và truyền nó tới mạng đích.
Để có thể thực hiện các công việc trên, người ta chia TCP/IP thành những phần riêng biệt,
theo lý thuyết, hoạt động độc lập với nhau, mỗi thành phần chịu một trách nhiệm riêng biệt trong
hệ thống mạng.
Cuối những năm 70, tổ chức DARPA đã đưa ra mô hình TCP/IP gồm có 4 lớp: Lớp Xử
lý/ứng dụng, Lớp Host-to-Host, Lớp Internet, Lớp Truy cập mạng. Khi hệ thống giao thức
TCP/IP chuẩn bị cho một khối dữ liệu di chuyển trên mạng, mỗi lớp trên máy gửi đi bổ sung
thông tin vào khối dữ liệu đó để các lớp của máy nhận có thể nhận dạng được.
Trang 6
6
Nghiên cứu các vấn đề về kỹ thuật, công nghệ của ISP
Mô hình TCP/IP
* Lớp Xử lý/ứng dụng:Lớp Xử lý/ứng dụng tương ứng với ba lớp trên cùng của mô hình OSI

(lớp ứng dụng, lớp Trình diễn, lớp Phiên). Lớp này định nghĩa các giao thức cho ứng dụng
truyền thông từ Node tới Node và điều khiển giao diện- người dùng.
Ví dụ các giao thức lớp này gồm có: Telnet, FTP, TFTP (giao thức truyền file giản tiện), NFS
(hệ thống file mạng), SMTP (giao thức truyền thư đơn giản), X Window, DNS (hệ thống tên
vùng), DHCP (giao thức cấu hình Host động)
* Lớp Host-to-Host: Lớp Host-to-Host đặt song song lớp Transport của mô hình OSI. Lớp
này định nghĩa các giao thức thiết lập mức dịch vụ truyền cho các ứng dụng. Nó giải quyết các
vấn đề như tạo sự truyền thông đầu cuối-đầu cuối tin cậy và đảm bảo việc phân phát dữ liệu
không lỗi, kiểm soát luồng dữ liệu, điều khiển trình tự gói và duy trì sự nguyên vẹn của dữ liệu.
Có 2 giao thức hoạt động ở lớp này là: TCP và UDP.
* Lớp Internet: Lớp Internet tương ứng lớp Network của mô hình OSI. Lớp này định rõ các
giao thức liên quan tới truyền các gói trên toàn mạng. Nó quản lý địa chỉ của các Host bằng cách
gán cho mỗi Host một địa chỉ logic (IP address) độc lập với phần cứng và điều khiển định tuyến
các gói giữa các mạng. Nó cũng điều khiển luồng truyền giữa hai Host. Các giao thức làm việc
tại lớp Internet là: IP, ICMP(giao thức bản tin điều khiển Internet), ARP(giao thức giải quyết địa
chỉ), RARP (giao thức giải quyết địa chỉ ngược)
IP được coi là giao thức trung tâm của tập hợp các giao thức (lớp) internet.
* Lớp Truy cập mạng: Lớp Truy cập mạng tương ứng với hai lớp cuối của mô hình OSI là lớp
Datalink và Physical. Lớp này giám sát việc trao đổi dữ liệu giữa Host và mạng. Nó cũng quản lý
địa chỉ phần cứng và định nghĩa các giao thức cho việc truyền dữ liệu vật lý. Các giao thức ở lớp
này là Ethernet, Fast Ethernet, Token Ring, FDDI.
II- Các công nghệ mạng LAN
1- LAN Topology
Trang 7
7
Nghiên cứu các vấn đề về kỹ thuật, công nghệ của ISP
Topology định nghĩa cấu trúc của mạng. Có 2 khái nhiệm: Physical topology, chỉ ra hình dạng
kết nối cáp được dùng nối kết các thiết bị mạng; và Logical topology, định nghĩa cách các thiết
bị truy nhập tới các hosts. Các physical topologies hay được sử dụng gồm có:
+ Các loại Physical topology cơ bản:

- Star topology : Các node nối trực tiếp vào điểm kết nối trung tâm (thường là Hub, Switch).
Star topology có nhược điểm là hoạt động giữa các Node phụ thuộc vào một hub trung tâm,
do đó khi hub này bị hỏng thì sẽ làm toàn mạng không liên lạc được.
- Bus topology: Các Station kết nối trực tiếp thông qua kênh truyền chung. Các station gửi dữ
liệu thông qua kênh truyền chung đó. Dựa vào địa chỉ trên message mà dữ liệu được nhận vào
hay bỏ qua tại các trạm.
Bus topology có ưu điểm đơn giản do chỉ có một kênh truyền duy nhất, không cần điều khiển
gửi nhận. Mọi máy đều bình đẳng với nhau. Nhược điểm là dễ xảy ra xung đột (collision), do
vậy phải xây dựng các cơ chế giải quyết đụng độ trên mạng.
- Ring topology: Các station kết nối tạo vòng kín. Tín hiệu truyền trong vòng dạng message
và đi qua tất cả các station. Mỗi station sẽ phát lại tín hiệu vừa nhận được và truyền đi tiếp; nếu
station là trạm nhận sẽ nhận dữ liệu và xử lý. Station gửi khi nhận trở lại message thì tự hủy đi.
Nhược điểm của topology này là do cấu trúc vòng khép kín nên muốn thêm station mới vào
vòng sẽ làm ngưng hoạt động toàn bộ các station khác. Mỗi station phải có chức năng như bộ
lặp.
Ngoài ra còn có thêm các Topology khác như Star over Bus Topology, Mesh Topology
+ Có 2 loại Logical Topology phổ biến nhất hiện nay là Broadcast và Token-Passing.
- Broadcast : có nghĩa đơn giản là mỗi một host gửi dữ liệu cuả nó tới tất cả các host khác trên
mạng. Máy nào gửi trước sẽ được phục vụ trước.
- Token-passing điều khiển truy nhập bằng một thẻ bài điện tử liên tục tới mỗi trạm. Khi một
trạm nhận được thẻ bài, nó có thể gửi dữ liệu lên mạng; nếu nó không có nhu cầu gửi, nó sẽ
chuyển tiếp thẻ bài sang trạm tiếp theo, và quá trình xử lý được lặp lại.
Trong nội dung đề tài này, chúng tôi sẽ chỉ giới thiệu những công nghệ chính được sử dụng
chủ trong các mạng ISP, do vậy, sẽ chỉ giới thiệu các công nghệ dựa trên Ethernet.
2- Ethernet
Ethernet là mạng cục bộ do các công ty Xerox, Intel và Digital equipment xây dựng và phát
triển. Ethernet là mạng thông dụng nhất đối với các mạng nhỏ hiện nay. Ethernet LAN được xây
dựng theo chuẩn 7 lớp trong cấu trúc mạng của ISO, mạng truyền số liệu Ethernet cho phép đưa
vào mạng các loại máy tính khác nhau kể cả máy tính mini.
Ethernet LAN là một ví dụ của mạng sử dụng cơ chế CSMA/CD (phương pháp đa truy cập sử

dụng sóng mang có phát hiện xung đột), đó là truyền thông tin một cách ngẫu nhiên và truyền lại
khi có xung đột. Mạng CSMA/CD là một ví dụ điển hình của mạng quảng bá vì tất cả các trạm
Trang 8
8
Nghiên cứu các vấn đề về kỹ thuật, công nghệ của ISP
làm việc đều thấy được thông tin truyền trên mạng. Khi một trạm làm việc muốn chuyển thông
tin trên mạng trước tiên nó nghe ngóng xem có ai đang truyền thông tin không. Nếu mạng đang
bận thì phải chờ cho tới khi hết bận mới được chuyển thông tin đi. Thông tin được chia thành các
đơn vị gọi là Frame độ lớn của Frame giới hạn từ 64 đến 1516 Bytes. Do độ dài của mạng có thể
chiếm một khoảng thời gian để gói thông tin có thể đến được giữa hai trạm làm việc,. vì thế có
thể xảy ra hiện tượng cả hai trạm đều có thể cùng lúc gửi thông tin đi. Khi đó xung đột sẽ xuất
hiện, trong trường hợp này 2 máy sẽ ngừng truyền và đợi trong một khoảng thời gian ngẫu nhiên
nào đó rồi tiếp tục truyền lại.
Xung đột thường xảy ra trong trường hợp:
- Số trạm làm việc trên mạng nhiều: số lượng trạm càng nhiều, xung đột càng tăng.
- Độ dài mạng lớn, tần xuất xảy ra xung đột càng nhiều vì có trễ trong khi chuyển gói tin.
- Các gói tin truyền càng lớn thì xung đột cũng xảy ra càng nhiều ví gói tin lớn sẽ chiếm thời
gian truyền nhiều hơn.
Do đó khía cạnh quan trọng của thiết kế Ethernet LAN là đảm bảo số lượng trạm làm việc
trên một đoạn mạng (Network Segment) cũng như độ dài của mạng không vượt quá tiêu chuẩn
và đúng đúng kích cỡ của Frame.
Người quản trị phải tuân theo một số nguyên tắc về cáp mạng. Ethernet có thể sử dụng cáp
đồng trục (10Base5 hoặc 10Base2), cáp quang (10BaseF) hoặc cáp xoắn UTP (10BaseT). Các
loại cáp khác nhau tuân thủ các nguyên tắc và ràng buộc khác nhau. Ethernet tuân thủ theo quy
tắc 5-4-3 nghĩa là trong một collision domain chỉ có thể không quá 5 đoạn vật lý được nối bởi 4
Repeater và các trạm làm việc chỉ được gắn vào 3 đoạn còn 2 đoạn còn lại chỉ có tác dụng liên
kết mà không có trạm làm việc nào được gắn vào đó.
Công nghệ Ethernet đã phát triển từ mạng truyền thống 10Mbps lên đến 100Mbps (Fast
Ethernet) và ngày nay đã đạt được tới tốc độ Gbps (Gigabit Ethernet).
3- Fast Ethernet

Fast Ethernet ra đời năm 1995 gọi là chuẩn 100Base-T do nó sử dụng cùng giao thức
CSMA/CD và nâng tốc độ so với 10 Base-T lên 100Mbits/sec. Do tương thích với các tiêu chuẩn
cáp của 10 Base-T (UTP Cat-5), nên FastEthernet được thương mại hoá rất nhanh do chi phí đầu
tư nhỏ, hơn nữa do là sự nối tiếp của chuẩn Ethernet, có nhiều các công cụ, các ứng dụng phân
tích mạng vẫn có thể tiếp tục chạy với FastEthernet.
Với các loại cable khác nhau, FastEthernet có 3 loại: 100Base-TX và 100Base-T4 sử dụng
chuẩn cáp xoắn, 100Base-FX sử dụng cáp quang. Chuẩn 100Base-TX tương thích với 2 đôi cáp
UTP hay STP, 1 đôi phát và 1 đôi thu, do vậy nó có thể đạt hiệu năng băng thông full-duplex.
Chuẩn 100BaseT4 sử dụng 4 đôi dây, 1 đôi phát, 1 đôi thu và 2 đôi còn lại có thể phát hoặc thu.
Trang 9
9
Nghiên cứu các vấn đề về kỹ thuật, công nghệ của ISP
Chuẩn Fast Ethernet 100Base-FX hoạt động trên cáp quang multimode: 62.5 micron và 125
micron thường dùng làm backbone, tận dụng các đặc tính của cáp quang như tránh được nhiễu
điện từ, tăng tính bảo mật và cho phép cự ly xa hơn giữa các node mạng.
Về lý thuyết , Fast Ethernet giới hạn đường kính 2 điểm mạng hay segment là 250m(so với
2500m của Ethernet) do dựa trên những giới hạn về tốc độ và cơ chế CSMA/CD. Do vậy khi cần
khoảng cách xa hơn có thể sử dụng cáp quang, 100BaseFX cho phép khoảng cách 450m (half-
duplex) hay 2km (full-duplex).
Bên cạnh các vấn đề về cáp, để triển khai mạng FastEthernet cần các thiết bị như Switch,
Hub, Netwokr Adapter có các cổng FastEthernet, và thông thường là loại autosensing.
4- Gigabit Ethernet
Là công nghệ mới nhất của Ethernet hoạt động với tốc độ 1000Mbps, tương thích với công
nghệ cũ do sử dụng CSMA/CD và MAC. Gigabit Ethernet thực sự là sự pha trộn giữa công nghệ
Ethernet và Firbe channel, hỗ trợ 4 loại kết nối và được định nghĩa trong 2 chuẩn 802.3z
(1000Base-X) và 802.3ab (1000Base-T).
Chuẩn 1000Base-X dựa trên công nghệ firbe channel, bao gồm 1000Base-SX (hỗ trợ cáp
quang multimode 850nm), 1000Base-LX (cáp quang sigle mode và multi mode 1300nm),
1000Base-CX sử dụng cáp xoắn STP. Chuẩn 1000Base-T là cho khoảng cách từ 25-100m trên 4
đôi dây cáp đồng UTP Cat-5.

GE và ATM sẽ cùng tồn tại trên thị trường, so với ATM, GE có một số đặc điểm sau:
+ Có nhiều thiết bị hỗ trợ ATM hơn do ATM thương mại hoá trước.
+ ATM thích hợp cho các ứng dụng QoS như Video.
+ Do phát triển từ Ethernet, các ứng dụng chạy trên Ethernet sẽ tương thích với GE.
+ GE có tốc độ cao hơn so với ATM
Do có tốc độ rất cao, Gigabit Ethernet thường được sử dụng để kết nối trong mạng trục, kết
nối máy chủ (backbone, server farm ). Đây có thể coi là yêu cầu tối thiểu trong khi thiết kế các
mạng ISP ngày nay.
5- Fiber Distributer Digital Interface (FDDI)
Năm 1982, Viện ANSI đã lập ra ủy ban X3T9.5 bắt đầu nghiên cứu về truyền thông tốc độ
cao. Ban đầu nó được hình dung như một chuẩn cho các kênh máy chủ tốc độ cao, FDDI (Giao
diện dữ liệu phân tán dùng cáp quang) nhanh chóng trở thành thế hệ mới của mạng LAN dùng
cáp quang (optical fiber) cung cấp một mạng truyền thông tốc độ cao.
Ngày nay, có thể cài đặt các mạng FDDI LAN chuẩn dựa trên nền tảng vật lý và các liên kết
logic theo ISO 9314 và chuẩn ANSI X3T9.5, trong đó mô tả FDDI như là một vòng kiểu bộ đếm
quay vòng (counter-rotating ring) hoạt động ở tốc độ 100 Mbps. Theo nhiều khía cạnh, FDDI
tương tự như IEEE 802.5 token-ring, mặc dù có một số điểm khác. FDDI dùng một giao thức
Trang 10
10
Nghiên cứu các vấn đề về kỹ thuật, công nghệ của ISP
truyền token, mỗi trạm có cơ hội để truyền dữ liệu khi một token đi qua. Một trạm có thể quyết
định có bao nhiêu frame sẽ được truyền bằng cách dùng một thuật toán có phép cấp phát băng
thông (bandwidth). FDDI cũng cho phép một trạm truyền nhiều frame mà không nhả token.
Một mạng FDDI bao gồm một bộ gồm các trạm/thiết bị nối với nhau thành một dãy các
trạm/thiết bị bằng một phương tiện truyền để định dạng một vòng khép kín về mặt vật lý. Thông
tin được truyền tuần tự, như một dòng ký hiệu được mã thích hợp, từ một trạm/thiết bị tích cực
tới một trạm tích cực tiếp theo. Mỗi trạm/thiết bị sẽ tái tạo và lặp lại mỗi tín hiệu đó. Phương
pháp gắn vào mạng FDDI về mặt vật lý có thể thay đổi phụ thuộc vào các yêu cầu cụ thể của
từng ứng dụng. FDDI dùng 2 vòng: vòng chính(Primary Ring) và vòng phụ (Secondary Ring),
các vòng này tương tự như trong thuật ngữ về token-ring. Mỗi vòng bao gồm chỉ một đường cáp

quang tương đương với một cặp dây dẫn đồng.
FDDI cho phép nhiều đơn vị gắn vào (các trạm, concentrator, bridge) theo nhiều cách. Theo
quan điểm đi dây, FDDI tương tự như mạng token-ring dùng cáp quang; tuy nhiên, có những
khác nhau sau đây giữa token-ring và FDDI về kỹ thuật:
- Một thiết bị có thể gắn trực tiếp vào vòng mà không yêu cầu một concentrator như MAU
(Multistation Access Unit) trên một token-ring.
- Một thiết bị có thể gắn một trong hai hoặc cả hai vòng chính và phụ.
Để phân biệt giữa các thiết bị gắn vào một vòng hoặc cả hai vòng, FDDI định nghĩa hai loại
lớp thiết bị:
- Thiết bị Lớp A (Class A) gắn trực tiếp vào cả hai vòng. Nó có thể là một trạm được gọi là
trạm Lớp A hoặc DAS (Dual Attachment Station). Nó có thể là concentrator và có thể gọi là một
DAC (Dual Attachment Concentrator).
- Thiết bị Lớp B (Class B) gắn vào chỉ một trong hai vòng trực tiếp hoặc thông qua một
concentrator. Nó có thể là một trạm và gọi là một trạm Lớp B hoặc SAS (Single Attachment
Station). Nó có thể là một bộ tập trung và được gọi là SAC (Single Attachment Concentrator).
Bộ tập trung là thiết bị hoạt động như hub và tương tự với một đơn vị truy nhập token-ring
tích cực (Như một IBM 8230 Controlled Access Unit).
Khi hoạt động bình thường, vòng chính là tích cực, vòng phụ là vòng standby. Khi gặp sự cố
ở vòng chính, thì vòng phụ sẽ trở nên tích cực khi trạm Lớp A hoặc một DAC cuốn vòng chính
vào vòng phụ để thiết lập chỉ một vòng. Chức năng này là nhằm duy trì độ tin cậy của LAN.
III- Kết nối mạng
Công nghệ WAN dùng để kết nối các mạng trên các vùng địa lý khác nhau do vậy yêu cầu và
lựa chọn của công nghệ WAN cũng khác với LAN. Lý do chính của sự khác nhau đó là công
nghệ WAN thường là thuê bao được cung cấp bởi các nhà cung cấp đường truyền và giá của
chúng thường rất đắt. WAN cũng khác LAN về mặt tốc độ trong khi LAN thường hoạt động ở
Trang 11
11
Nghiên cứu các vấn đề về kỹ thuật, công nghệ của ISP
tốc độ Mbps thì WAN thường ở tốc độ Kbps. Và khuynh hướng kết nối của WAN là Điểm-Điểm
(Point to Point) thì LAN là đa truy cập (MultiAccess).

Việc sử dụng dịch vụ truyền dữ liệu công cộng hay xây dựng một đường truyền riêng là điều
mà các nhà quản lý cần phải cân nhắc. Mỗi hình thức đều có những ưu điểm riêng của nó, dẫn
đến những yêu cầu về mức độ đầu tư khác nhau, không chỉ đầu tư về thiết bị mà còn đầu tư về
nguồn nhân lực để điều hành và duy trì mạng.
Phần dưới đây trình bày một số công nghệ kết nối hiện đang được sử dụng phổ biến để cho
các kết nối mạng WAN, các kết nối Internet trực tiếp có thể khả thi tại Việt nam.
1- Kết nối qua mạng điện thoại công cộng -PSTN
Kết nối qua mạng PSTN thực hiện thông qua modem có ưu điểm chính là linh hoạt, phạm vi
sử dụng rộng và giá rẻ, đây là giải pháp phổ biến nhất hiện nay. Tuy nhiên, tốc độ kết nối chậm,
đội tin cậy không đảm bảo do chất lượng đường dây và nhiễu đường truyền.
ITU-T đã đưa ra nhiều tiêu chuẩn cho modem, liên quan tới tốc độ đường truyền gồm có:
+ V 32bis là khuyến nghị tối thiểu cho giải pháp truy cập từ xa, tốc độ tới 14.4K bps.
+ V.34 hỗ trợ tốc độ truyền tới 28.8K bps; (115.2K với nén tỷ lệ 4:1).
+ V.34+ với tốc độ tới 33.6K bps.
+ V.90 hỗ trợ tốc độ tải xuống tới 56K bps.
2- ISDN (Integrated Service Digital Nework).
ISDN đã phát triển từ những năm 1980 và cho phép các kết nối số trên mạng thoại PSTN.
ISDN là công nghệ truyền số cho phép truyền các thông tin khác nhau như dữ liệu, âm thanh,
video trên đôi cáp đồng điện thoại, cho tốc độ truyền dẫn cao hơn mạng tương tự. ISDN chia
thành 2 lớp dịch vụ BRI và PRI:
- Basic rate interface (BRI): Sử dụng 2 kênh B (Bearer) tốc độ 64kbps để truyền dữ liệu và 1
kênh D(Delta) -16Kbps cho báo hiệu cuộc gọi; BRI còn được gọi là 2B+D. Một trạm truyền dữ
liệu qua ISDN có thể dùng cả hai kênh B đồng thời để cung cấp tốc độ truyền lên tới 128Kbps
(hoặc cao hơn với công nghệ nén).
- Primary Rate Interface (PRI): Cung cấp hỗ trợ cho T1 và E1. Đối với T1 cung cấp 23 kênh
64 Kbps truyền số liệu (kênh B) và 1 kênh 64 Kbps để kiểm soát truyền (kênh D); đối với E1,
PRI cung cấp 30 kênh B- 64Kbps và 1 kênh D-64Kbps.
ISDN cũng cung cấp dịch vụ quay số theo yêu cầu tức là chỉ kết nối khi có nhu cầu và thích
hợp cho cả hai trường hợp cá nhân và tổ chức. Các tổ chức có thể quan tâm hơn đến ISDN có
khả năng cao hơn ("primary" ISDN) với tốc độ tổng cộng bằng tốc độ 1.544 Mbit/s của đường

T1. Cước phí khi sử dụng ISDN được tính theo thời gian, một số trường hợp tính theo lượng dữ
liệu được truyền đi và một số thì tính theo cả hai.
Trang 12
12
Nghiên cứu các vấn đề về kỹ thuật, công nghệ của ISP
Lợi điểm của ISDN là băng thông mạng cao hơn PSTN, tuy nhiên có nhiều nhược điểm về chi
phí hơn so với PSTN, và không phải ở đâu ta cũng có được mạng ISDN.
3- Đường thuê riêng (leased line, dedicated line).
Đây là phương pháp truyền thống nhất cho sự nối kết WAN. Khách hàng thuê đường dây từ
công ty điện thoại (trực tiếp hoặc qua nhà cung cấp dịch vụ) với tốc độ truy cập từ 64Kbps đến
45Mbps và thường chạy các giao thức như là giao thức IP, IPX trên kiểu giao thức truy cập điểm
điểm (PPP – Point to point protocol).
Các router thường được dùng trong kết nối Leased line để kết nối các mạng từ xa với vùng
trung tâm, sử dụng một thiết bị gọi là Chanel Service Unit/Digital Service Unit-CSU/DSU để
nối router với đường Leased line. Leased line cho độ tin cậy và bền vững, tính riêng tư cao. Chi
phí của kết nối rất đắt vì phải luôn luôn thiết lập đường truyền riêng, phụ thuộc vào khoảng cách
giữa 2 điểm và băng thông kết nối. Leased-line chỉ thích hợp cho các tổ chức có ít network
location.
Có nhiều loại kết nối leasedline và phụ thuộc vào tiêu chuẩn của các nước như sau:
+ 64 kbps: Đây là tốc độ của một kết nối thoại số, gọi là tốc độ cơ bản.
Tốc độ này gọi là DS0 (Data Speed 0, Digital Service 0 hay Digital Signal 0 ).
+ T1: T1 còn gọi là DS1 là kết nối 1.5 Mbps (1.544Kbps). Thuật ngữ này được sử dụng tại
Mỹ, Australia và một số quốc gia khác. Một kênh T1 có 24 kênh cung cấp băng thông tổng cộng
là 1.536 Mbps hay 1.344 Mbps và phụ thuộc vào mã hoá kênh là 64 kbps hay 56 kbps.
+ E1: Tương tự như kết nối T1, chuẩn này được sử dụng ở châu Âu, Nam Mỹ và nhiều nước
khác, trong đó có Việt nam. Trong mỗi kênh E1, mỗi mạch bao gồm 32 kênh 64-kbps, cung cấp
băng thông tổng cộng là 2,048Kbps.
+ E3: Trong 1 đường E3 có 480 kênh cho băng thông tổng cộng là 34,368Mbps; được sử
dụng tại châu Âu và các quốc gia khác.
+ T3: Một đường T3 còn gọi là DS3 cung cấp băng thông tổng cộng lên tới 44,736Mbps. Nó

tương đương với 28 kênh T1 hay 672 kênh 64 kbps.
Các kết nối trên được sử dụng phổ biến, tuy nhiên còn có 2 chuẩn khác là T2 and T4. T2 bao
gồm 4 kênh T1 nhưng không được thương mại hoá; T4 bao gồm 168 kênh T1.
4- Frame relay.
Frame relay được thiết kế để truyền dẫn các khung hay gói tốc độ cao với độ trễ nhỏ nhất và
sử dụng hiệu quả băng thông, là công nghệ chuyển mạch nhanh, có thể bao gồm cả việc sử dụng
truyền dẫn quang. Nó tận dụng ưu điểm chia sẻ cổng của mạng X.25. Đặc điểm thiết kế của
Frame relay là nó bỏ qua bước kiểm tra lổi của DTE. Như vậy Frame relay không thực hiện bước
kiểm tra lỗi mức liên kết mà tập trung để nâng tốc độ mạng.
Trang 13
13
Nghiên cứu các vấn đề về kỹ thuật, công nghệ của ISP
Mạng theo công nghệ Frame relay bao gồm các switch cung cấp bởi nhà cung cấp đường
truyền chịu trách nhiệm hướng luồng dữ liệu trên mạng đến đích. Router sử dụng trong mạng
Frame relay như những thiết bị đầu cuối, các kết nối được cung cấp dựa trên các giao diện
chuẩn.
Các chuẩn Frame relay mô tả cả hai giao diện giữa thiết bị đầu cuối Router và mạng Frame
relay gọi là UNI (user to network interface) và giữa các mạng Frame relay liền kề gọi là NNI
(network to network interface). Có 3 khái niệm quan trọng trongFrame relay:
- Nhận dạng đường nối Date (DLCI: Data Link Connection Identifier) Cũng như trong X.25,
trên một đường nối vật lý Frame relay có rất nhiều đường nối ảo, mỗi đối tác liên lạc được phân
một đường nối ảo riêng để tránh nhầm lẫn, được gọi tắt là DLCI. DLCI tương đương với địa chỉ
MAC trong môi trường LAN. Dữ liệu được đóng gói bởi Router trong frame của Frame relay và
được chuyển qua mạng dựa trên DLCI. DLCI có ý nghĩa cục bộ hay toàn cầu, cả hai đều định
danh duy nhất một kênh truyền thông.
- Permanent Vitual Circuit (PVC); Định nghĩa trước các đường dẫn qua mạng Frame relay để
kết nối 2 trạm làm việc với nhau. Chúng là các đường dẫn logíc trong mạng vị trí được xác định
bởi các DLCI.
- Switched Virtual Circuit (SVC): Khác với PVC, SVC không định nghĩa cố định trong mạng
Frame relay. Thiết bị đầu cuối có thể yêu cầu thiết lập một kết nối khi có yêu cầu truyền dữ liệu.

Các tuỳ chọn liên quan đến quá trình truyền được mô tả trong quá trình thiết lập kết nối. SVC
được kích hoạt bởi các thiết bị đầu cuối như là Router kết nối vào mạng.
Thực tế trên mạng lưới rộng lớn có rất nhiều người sử dụng với vô số frame chuyển qua
chuyển lại, hơn nữa Frame Relay không sử dụng thủ tục sửa lỗi và điều hành thông lượng (Flow
control) ở lớp 3 (Network layer), nên các Frame có lỗi đều bị loại bỏ thì vấn đề các frame được
chuyển đi đúng địa chỉ, nguyên vẹn, nhanh chóng và không bị thừa bị thiếu là không đơn giản.
Để đảm bảo được điều này Frame relay sử dụng một số nghi thức sau.
(1) DLCI (Data link connection identifier) đã trình bày ở trên.
(2) CIR ( committed information rate ) - Tốc độ cam kết.
Đây là tốc độ khách hàng yêu cầu và mạng cần phải đảm bảo thường xuyên đạt được.
(3) CBIR ( Committed burst information rate ) - Tốc độ cam kết khi bùng nổ thông tin.
Khi có lượng tin truyền quá lớn, mạng lưới vẫn cho phép khách hàng truyền quá tốc độ cam
kết CIR tại tốc độ CBIR trong một khoảng thời gian (Tc) rất ngắn vài ba giây một đợt, điều này
tuỳ thuộc vào độ "nghẽn" của mạng cũng như CIR.
(4) DE bit ( Discard Eligibility bit ) - Bit đánh dấu Frame có khả năng bị loại bỏ.
Nếu chuyển các Frame vượt quá tốc độ cam kết, thì những Frame đó sẽ bị loại bỏ và bit DE
được sử dụng, tuy nhiên có thể chuyển các frame đi với tốc độ lớn hơn CIR hay thậm chí hơn cả
CBIR tuỳ thuộc vào trạng thái của mạng Frame relay lúc đó có độ nghẽn ít hay nhiều (thực chất
Trang 14
14
Nghiên cứu các vấn đề về kỹ thuật, công nghệ của ISP
của khả năng này là mượn băng thông của những người sử dụng khác khi họ chưa dùng đến).
Nếu độ nghẽn của mạng càng nhiều (khi nhiều người cùng làm việc) thì khả năng rủi ro bị loại
bỏ của các Frame càng lớn; khi Frame bị loại bỏ, thiết bị đầu cuối phải phát lại.
Do mạng Frame relay không có thủ tục điều hành thông lượng (Flow control) nên độ nghẽn
mạng sẽ không kiểm soát được, vì vậy công nghệ Frame relay sử dụng hai phương pháp sau để
giảm độ nghẽn và số frame bị loại bỏ.
(1) Sử dụng FECN (Forward explicit congestion notification):
- Thông báo độ nghẽn cho phía thu và BECN (Backward Explicit Congestion Notification)
- Thông báo độ nghẽn về phía phát . Thực chất của phương pháp này để giảm tốc độ phát khi

mạng lưới có quá nhiều người sử dụng cùng lúc.
(2) Sử dụng LMI (Local Manegment Interface): thông báo trạng thái nghẽn mạng cho các thiết
bị đầu cuối biết. LMI là trình điều khiển giám sát đoạn kết nối giữa FRAD và FRND.
5- Công nghệ ATM
Công nghệ ATM được hình thành từ công nghệ ATD (phân chia theo thời gian không đồng
bộ) đã được đưa ra trên mạng viễn thông của Pháp năm 1983 và FPS (chuyển mạch gói tốc độ
cao) của Bell Lab của nước Mỹ. ATM là một phương pháp tương đối mới đầu tiên báo hiệu cùng
một kỹ thuật cho mạng cục bộ và liên khu vực. ATM thích hợp cho real-time multimedia song
song với truyền dữ liệu truyền thống.
ATM là sự kết hợp của công nghệ truyền dẫn và công nghệ chuyển mạch qua mạng giao tiếp
chuẩn, dựa vào công nghệ ATM để phân chia và ghép tiếng nói, số liệu, hình ảnh, vào trong
một khối có chiều dài cố định được gọi là tế bào. Đặc điểm chính của ATM là thông tin được cấu
tạo từ các tế bào độ dài thích hợp của thời gian thực truyền tải thông tin, và cách thức truyền tải
có thể chứng minh rằng tất cả các dịch vụ băng rộng không ảnh hưởng tới tốc độ thông tin.
ATM có hai đặc điểm chính:
- ATM sử dụng các gói có kích thước nhỏ và cố định gọi là các tế bào ATM (ATM Cell) có độ
dài 53 bytes, các cell nhỏ cùng với tốc độ truyền lớn sẽ làm cho trễ truyền và biến động trễ
(Delay Jitter) giảm đủ nhỏ đối với các dịch vụ thời gian thực, ngoài ra kích thước nhỏ cũng sẽ
tạo điều kiện cho việc ghép kênh ở tốc độ cao được dễ dàng hơn.
- ATM còn có một đặc điểm rất quan trọng là khả năng nhóm một vài kênh ảo (Virtual
Channel) thành một đường ảo (Virtual Path), nhằm giúp cho việc định tuyến được dễ dàng. Các
header của Cell có các nhận dạng kênh giúp cell được truyền đúng kênh tới đích, các Cell trong
mỗi kênh ảo luôn được tryền trên cùng một đường dẫn trên mạng và được phân phát tới đích
theo đúng trật tự.
Trong mạng ATM tin tức là các tế bào được gửi từ thiết bị đầu cuối được xắp xếp trong tín
hiệu số sao cho mạng với tốc độ xử lý khoảng vài Gbps có thể được sử dụng để truyền hoặc
chuyển mạch các tế bào đó, cũng như vậy toàn bộ các thông tin đã được truyền bằng các tế bào
Trang 15
15
Nghiên cứu các vấn đề về kỹ thuật, công nghệ của ISP

với chiều dài cố định. Từ đây ta có thể thiết lập mạng liên kết đa phương tiện mà nó có thể xử lý
nhiều loại hình thông tin khác nhau như tiếng nói, số liệu, hình ảnh, một cách đồng nhất.
ATM thích hợp nhất cho mức NAP hay kết nối giữa các NAP do chi phí đắt tiền, tốc độ của
nó có thể tới 2.488 Gbps, thực tế thường là 155Mbps hoặc 622Mbps.
6- Cable Modem Network (CATV)
Các thiết bị hạ tầng của mạng truyền hình cáp (CATV) thường dùng để truyền tín hiệu video
tương tự theo một chiều. Công nghệ về hạ tầng mạng đã phát triển từ một mạng đơn thuần chỉ có
cable đồng đến mạng lai giữa cable đồng và cable quang (HFC: Hybrid Fiber-Coaxial).
Mạng cable modem điển hình được tạo bởi một mạng quang dẫn tốc độ cao và một mạng
cable đồng mạng mà mang tín hiệu TV đến nhà thuê bao. Các thuê bao ở trong cùng một khu
vực cùng kết nối vào cùng một điểm phân phối gọi là headend. Cable đồng chạy từ điểm
headend đến các thuê bao theo topo hình cây. Tuyến cable là mô tả thiết bị mà có thể chuyển đưa
liệu từ mạng dữ liệu thông qua mạng cable đồng đến thuê bao. Nó cũng nhận các tín hiệu từ
modem cable (thiết bị cho phép kết nối các mạng với nhau thông qua mạng truyền hình cable)
đặt ở nơi các thuê bao chuyển vào trong mạng dữ liệu. PC của các thuê bao trực tiếp kết nối vào
modem cable thông qua card giao tiếp Ethernet như là như kết nối LAN. Công nghệ CATV có
thể cung cấp băng thông theo chiều tải xuống -dowstream từ 30Mbps đến 50 Mbps; tất cả các
thuê bao kết nối vào kênh này cùng chia sẻ băng thông, và cung cấp tốc độ truyền lên từ
500Kbps đến 800Kbps.
7- Digital Subscrible Line (xDSL)
Là công nghệ cho phép truyền thông tin qua đôi dây điện thoại có sẵn ở tốc độ cao hơn tốc độ
của các modem tương tự hiện nay, không giống như modem truyền thống, đường thoại vẫn rỗi
để có thể gửi và nhận cuộc gọi. xDSL gồm có nhiều công nghệ cho DSL như:
- Asymmetric Digital Subscrible Line (ADSL)
- Symmetric Digital Subscrible Line (SDSL)
- High-Speed Digital Subscrible Line (HDSL)
- Variable Digital Subscrible Line (VDSL)
Công nghệ xDSL có khả năng cung cấp băng thông downstream lên tới 30Mbps và upstream
là 600Kbps. Trên đường truyền xDSL có thể kết hợp cả tín hiệu PSTN 4KHz và tín hiệu số để
truyền đồng thời. Các thuê bao của xDSL kết nối tới một thiết bị gọi là DSLAM theo kiểu điểm

điểm. PC của thuê bao được kết nối với modem qua giao diện Ethernet, USB hoặc ATM. Đặc
điểm của các công nghệ này là tốc độ phụ thuộc rất nhiều vào khoảng cách đôi dây từ CO tới nhà
thuê bao; nhiễu xuyên âm giữa các đôi dây gần nhau, giữa các mối nối, sinh ra các tín hiệu trên
4KHz, các nhiễu đường dây ngẫu nhiên Thực tế có thể đặt các bộ khuếch đại đường dây để mở
rộng thêm độ dài của đường truyền xDSL (vài ngàn feet).
Trang 16
16
Nghiên cứu các vấn đề về kỹ thuật, công nghệ của ISP
Công nghệ thường được sử dụng nhất là ADSL và SDSL. ADSL có tốc độ tải xuống cao hơn
nhiều tốc độ tải lên, SDSL cân bằng băng thông cả 2 chiều. Tốc độ của ADSL theo lý thuyết có
thể đạt tới 7.1 Mbps downstream và 1.5 Mbps upstream trong khoảng cách 3600m (12.000) feet
từ CO, tuy nhiên, thực tế không thể đạt được tới tốc độ đó ngay cả điều kiện trong phòng thí
nghiệm (theo www.dslreports.com). Thực tế, tốc độ của ADSL tụt xuống 1.5 Mbps (down) và
384Kbps(Up) khi khoảng cách tăng quá 3000m(10.000 feet); và khi quá 5400m (18.000 feet) thì
chỉ còn 384Kbps (Down) và 128 Kbps (Up).
Loại Chi tiết Tốc độ Khoảng cách ứng dụng
ADSL
(Asymmetric
DSL)
6Mbps
Downstream,
16-640 Kbps
Upstream
18.000f
(5.400m)
Internet/intranet
access, video-on-
demand, remote
LAN access,
HDSL

(High bit rate DSL)
Công nghệ đối xứng,
sử dụng nhiều đôi dây
2Mbps 15000feet
(4500m)
Lựa chọn thay thế
T1/E1
SDSL
(Symmetric
DSL)
Công nghệ đối xứng
giống HDSL, sử dụng
một đôi dây
1.2Mbps 10000feet
(3000m)
Thích hợp cho
các ứng dụng cần
băng thông đối
xứng
VDSL (Very
High bit rate
DSL)
Công nghệ DSL
nhanh nhất, khoảng
cách ngắn
13-53M bps
downstream;
1.5-
2.3M bps
upstream

1000-4500 feet Internet/intranet,
video-on-
demand, remote
LAN access;
HDTV
Kết nối phía nhà thuê bao được thực hiện qua thiết bị ATU-R (ADSL transmission unit-
remote), ngoài chức năng DSL modem, ATU-R còn có thể thực hiện các chức năng như
bridging, routing, TDM. Các nhà cung cấp DSL kết hợp nhiều kênh DSL vào mạng trục tốc độ
cao qua DSLAM (DSL access multiplexer), DSLAM thường kết nối với vào mạng ATM để tới
các ISP.
Đối với các doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng cao hơn khách hàng cá nhân thường lựa chọn
sử dụng SDSL để đáp ứng nhu cầu băng thông rộng 2 chiều, băng thông đạt được tương đương
T1/E1, SDSL thực sự đang được sử dụng kết nối Internet thay thế cho kết nối T1/E1 truyền
thống.
ADSL thường được sử dụng cho các dịch vụ truy cập internet, Video on-demand, truy cập
CSDL hay cho các mạng LAN ở xa Đây là một công nghệ khá mới và rẻ tiền, nhưng mạng lại
tốc độ truyền rất cao. xDSL sẽ được triển khai tại các mạng của Viêt nam trong một thời gian
ngắn. DSL rất thích hợp cho cả đối tượng khách hàng là một doanh nghiệp
Trang 17
17
Nghiên cứu các vấn đề về kỹ thuật, công nghệ của ISP
8- Mạng không dây (Wireless Network)
Mạng Wireless cho phép các khách hàng kết nối không dây có thể truy nhập mạng tại bất cứ
đâu. Nhược điểm của mạng Wireless là tốc độ nói chung thấp hơn so với các giải pháp kết nối
dây dẫn, mức độ bao phủ và độ tin cậy nói chung không đồng đều, chi phí cao.
Trong thời gian gần đây, công nghệ mạng không dây hiện nay đã có những tiến bộ vượt bậc,
đó là mạng không dây thế hệ 3 (3G) đang dần được thương mại hoá. 3G đã được hình thành từ
năm 1992 khi ITU xây dựng chuẩn IMT-2000. Số 2000 có 3 ý nghĩa, đó là năm mà dịch vụ có
thể thương mại, dải tần (MHz) có thể sử dụng và tốc độ truyền dữ liệu (Kbits/sec). Ban đầu ITU
dự tính xây dựng IMT-2000 là một tiêu chuẩn duy nhất, nhưng không có được sự thống nhất từ

các nhà sản xuất nên hiện tại IMT-2000 có ít nhất 3 loại, và không đảm bảo được các thuê bao
của các mạng sẽ có thể làm việc được với nhau. Hai trong 3 loại IMT-2000 dựa trên công nghệ
CDMA, cho phép nhiều người dùng chia sẻ cùng băng tần tại cùng thời điểm, các tín hiệu được
mã hoá khác nhau nên các đầu cuối có thể nhận và giải mã được.
3G hứa hẹn mang lại các khả năng và đặc điểm như :
+ Khả năng multimedia (voice, data, video, remote control ).
+ Thích hợp cho tất cả các dịch vụ như cellular phone, e-mail, paging, fax, videoconferencing,
Web browsing chất lượng cao.
+ Là dịch vụ băng rộng tốc độ cao (hơn 2Mbps)
+ Định tuyến linh hoạt (qua bộ lặp, vệ tinh, LAN )
+ Có khả năng roaming giữa các khu vực như châu Âu, Nhật và Bắc Mỹ.
Trang 18
18
Nghiên cứu các vấn đề về kỹ thuật, công nghệ của ISP
Chương II địa chỉ ip
Mỗi một máy (host) trên mạng TCP/IP được định danh bởi một địa chỉ IP (IP address). Địa
chỉ IP này thuộc lớp mạng trong mô hình 7 lớp OSI, nó không lệ thuộc vào địa chỉ của lớp liên
kết dữ liệu (data-link layer) ví dụ như địa chỉ kiểm soát truy nhập môi trường (MAC address) của
một card mạng. Một địa chỉ IP cho mỗi máy hay bất cứ một thành phần nào của mạng phải đảm
bảo duy nhất khi liên kết với nhau sử dụng giao thức TCP/IP.
Địa chỉ IP định danh được vị trí của hệ thống trên toàn mạng, mỗi một địa chỉ IP là duy nhất
và được cấu thành từ định danh mạng (network ID) và định danh máy (host ID)
-Định danh mạng còn được gọi là địa chỉ mạng (network address) định dạng tất cả các hệ
thống trên một mạng vật lý được giới hạn bởi các router. Mọi hệ thống trên cùng một mạng vật
lý phải có cùng địa chỉ mạng, địa chỉ mạng phải duy nhất trong liên mạng.
-Định danh máy còn gọi là địa chỉ máy (host address) định dạng các trạm làm việc, máy chủ,
router hay các thành phần khác của mạng TCP/IP trong một mạng; mỗi một địa chỉ máy như vậy
là duy nhất cho mỗi địa chỉ mạng.
Khái niệm địa chỉ mạng đúng cho tất cả các loại địa chỉ mạng tồn tại như địa chỉ mạng theo
lớp (class-based network address), địa chỉ mạng của mạng con, hay địa chỉ mạng của siêu mạng.

I- Địa chỉ IP phiên bản 4 (IP Version 4)
Một địa chỉ IP (phiên bản 4) bao gồm 32 bits được chia thành 4 trường 8 bits được gọi là bộ
tám hay octet. Mỗi một bộ tám này được chuyển sang số thập phân và như vậy mỗi một octet có
thể có giá trị thập phân từ 0 đến 255. Các octets được phân cách nhau bởi dấu chấm. Cách viết
này được gọi là cách viết chấm thập phân hay dotted decimal notation.
a- Các lớp địa chỉ
Hiệp hội Internet (Internet community) định nghĩa 5 lớp địa chỉ cho các mạng có kích cỡ khác
nhau. Lớp địa chỉ định nghĩa số bits được sử dụng cho địa chỉ mạng và số bits được sử dụng cho
địa chỉ máy, cho biết số lượng mạng và số lượng máy trong một mạng.
* Địa chỉ Lớp A (/8prefix)
Lớp A được phân phối cho các mạng có số lượng máy rất lớn trong mạng. Địa chỉ lớp A sử
dụng octet đầu tiên để miêu tả địa chỉ mạng trong đó bit cao nhất luôn bằng 0, tổ hợp của 7 bits
còn lại của octet đầu tiên này sẽ tạo ra địa chỉ mạng cho lớp A. 24 bits của 3 octets còn lại được
sử dụng để miêu tả các máy trong mạng. Như vậy lớp A có 126 mạng, mỗi mạng có thể có tới
16.777.214 máy.
Trang 19
19
Nghiên cứu các vấn đề về kỹ thuật, công nghệ của ISP
* Địa chỉ lớp B (/16prefix)
Lớp B sử dụng 2 octets cho địa chỉ mạng trong đó 2 bits đầu tiên của 16 bits là 10 (nhị phân),
các bits khác sẽ mô tả các địa chỉ mạng của lớp B. 16 bits của hai octet sau được sử dụng để
đánh dấu các máy trong mạng lớp B. Lớp B cho phép 16.384 mạng và 65.534 máy trong một
mạng.
* Địa chỉ lớp C (/24prefix)
Lớp C được sử dụng cho các mạng nhỏ. Lớp C sử dụng 3 octets (24 bits) làm địa chỉ mạng,
trong đó 3 bits đầu tiên là 110. Các bit còn lại của 3 octets đầu sẽ mô tả địa chỉ mạng của lớp C.
8 bits của octet thứ 4 được sử dụng để đánh dấu các máy trên mạng lớp C. Như vậy có
2.097.152 mạng lớp C và 254 máy trong mỗi mạng.
* Địa chỉ lớp D
Địa chỉ lớp D được bảo toàn cho các địa chỉ gửi đi đa nơi (multicast address). 4 bits đầu tiên

mang giá trị là 1110. Các bits còn lại dành cho địa chỉ mà các máy liên quan nhận ra được. Các
địa chỉ lớp D có thể sử dụng cho các ứng dụng để gửi dữ liệu đa nơi tới các máy có khả năng gửi
đi đa nơi (multicast-capable host) trong một liên mạng.
* Địa chỉ lớp E
Địa chỉ lớp E là địa chỉ thử nghiệm và để bảo lưu cho việc sử dụng trong tương lai. 4 bits đầu
tiên mang giá trị 1111.

b- Nguyên tắc trong định danh mạng
Định danh mạng nhận dạng các máy nằm trên cùng một mạng vật lý. Tất cả các máy nằm trên
cùng một mạng vật lý có một định danh mạng giống nhau để có thể giao lưu với nhau.
Trang 20
20
Nghiên cứu các vấn đề về kỹ thuật, công nghệ của ISP
Định danh mạng phải là duy nhất trong toàn bộ liên mạng IP.
Định danh mạng không thể bắt đầu bằng số 127. Số 127 trong lớp A được giữ cho các chức
năng quay vòng bên trong.
Tất cả các bit trong định danh mạng không thể đặt bằng 1. Một định danh mạng với toàn bộ
các bit được đặt bằng 1 được sử dụng làm địa chỉ broadcast address.
Tất cả các bit trong định danh mạng không thể đặt bằng 0. Một định danh mạng với toàn bộ
các bit bằng 0 sử dụng để biểu thị máy trên mạng cục bộ và không thể được định tuyến.
Bảng dưới đây liệt kê khoảng đinh danh mạng có hiệu lực theo các lớp A, B, C tương ứng.
Address Class First Network ID Last Network ID
Class A 1.0.0.0 126.0.0.0
Class B 128.0.0.0 191.255.0.0
Class C 192.0.0.0 223.255.255.0
* Nguyên tắc định danh máy
Định danh máy nhận dạng một máy trên mạng; sự kết hợp giữa định danh mạng và định danh
máy cho ta địa chỉ IP. Dưới đây là là một số nguyên tắc khi phân định danh máy
Định danh máy phải là duy nhất đối với định danh mạng
Tất cả các bit trong định danh máy không thể được đặt bằng 1 bởi vì định danh này được sử

dụng làm địa chỉ gửi khắp nơi để gửi thông tin tới tất cả các máy trên mạng
Tất cả các bit trong định danh máy không thể bằng 0 bởi định danh này được giữ để biểu thị
định danh mạng
c- Mạng con và mặt nạ của mạng con
Các lớp địa chỉ Internet cung cấp 3 khả năng cho các liên mạng IP, tuy nhiên, nếu để ý các địa
chỉ lớp A, mỗi địa chỉ lớp A có khả năng cung cấp hơn 16 triệu máy trong một mạng. Tất cả các
máy trong một mạng vật lý được ngăn cách bới các bộ định tuyến sử dụng chung broadcast
traffic, chúng ở trong cùng một vùng broadcast domain. Trong thực tế không thể để 16 triệu máy
trên cùng một vùng broadcast domain. Kết quả là phần lớn địa chỉ không được gán, gây lãng phí
lớn về địa chỉ, ngaycả 1 mạng lớp B với khả năng hơn 65 ngàn máy cũng là điều phi thực tế.
Để có thể tạo ra các vùng nhỏ hơn và sử dụng các bits dùng đánh dấu máy trên mạng được tốt
hơn. Một mạng IP lớn có thể được chia nhỏ thành các mạng con, được giới hạn bởi các bộ định
tuyến và được gán một địa chỉ mạng con, là một phần của địa chỉ mạng cơ sở lớp (class-based
network address).
Các mạng con được tạo ra từ một mạng IP lớn có địa chỉ mạng duy nhất của mình (subnetted
network address). Địa chỉ mạng của các mạng con được tạo ra bằng cách sử dụng thêm một số
lượng bits nhất định từ phần của địa chỉ máy cùng với số lượng bits của địa chỉ mạng của mạng
dựa trên lớp (classed-based).
Trang 21
21
Nghiên cứu các vấn đề về kỹ thuật, công nghệ của ISP
Ví dụ một địa chỉ mạng lớp B 139.12.0.0 có thể có tới 65.534 máy, trên thực tế một số lượng
máy lớn như thế không thể nằm trên cùng một mạng được, do các broadcast traffic sẽ làm mạng
bị bão hòa. Việc chia nhỏ mạng 139.12.0.0 phải thực hiện như thế nào để không làm ảnh hưởng
tới toàn bộ liên mạng IP còn lại.
Mạng 139.12.0.0 trước khi chia mạng con
Bằng việc sử dụng 8 bits của phần địa chỉ máy (toàn bộ octet thứ 3) cho địa chỉ mạng, mỗi
mạng con sẽ có riêng địa chỉ mạng của mình, ví dụ ba mạng con 139.12.1.0, 139.12.2.0,
139.12.3.0. Bộ định tuyến nhận thức được sự chia mạng con này và chuyển các gói chính xác
đến từng mạng con một.

Phần còn lại của liên mạng vẫn coi như tất cả các máy trong 3 mạng con này vẫn là máy của
mạng 139.12.0.0. Các bộ đinh tuyến khác không hề biết đến sự chia mạng con này và như vậy
không đòi hỏi bất cứ một sự thay đổi nào khác trong cấu hình mạng.
Mạng 139.12.0.0 sau khi chia mạng con
Mặt nạ mạng con hay subnet mask được sử dụng để thông báo có các nút IP cách phân biệt
đâu là địa chỉ mạng dựa trên lớp, đâu là địa chỉ mạng của mạng con đã được chia.
* Mặt nạ mạng con
RFC 950 định nghĩa việc sử dụng mặt nạ mạng con hay còn gọi là mặt nạ địa chỉ (address
mask). Mặt nạ là một giá trị 32 bits được sử dụng để phân biệt phần địa chỉ mạng với phần địa
chỉ máy cho một địa chỉ IP bất kỳ, trong đó tất cả các bits tương ứng với địa chỉ mạng được đặt
bằng 1, tất cá các bits tương ứng với địa chỉ máy được đặt bằng 0.
Tất các các máy trong một mạng TCP/IP đòi hỏi phải có một mặt nạ mạng cho dù chúng ở
trong cùng một segment. Hoặc là một mặt nạ mạng con mặc định (default subnet mask) cho các
Trang 22
22
Nghiên cứu các vấn đề về kỹ thuật, công nghệ của ISP
máy trên mạng dựa trên lớp hay là một mặt nạ mạng con tùy biến (custom subnet mask) cho các
mạng con được chia hay là siêu mạng (supernet).
Mặt nạ mạng con cũng được viết theo cách chấm thập phân. Sau khi các bits được đặt các giá
trị tương ứng với địa chỉ mạng và địa chỉ máy. Giá trị 32 bits này cũng được chuyển sang dạng
chấm thập phân. Mặc dù được diễn tả dưới dạng chấm thập phân nhưng một mặt nạ mạng không
bao giờ là một địa chỉ IP cả.
Các mặt nạ mạng con mặc định được dựa trên các lớp địa chỉ và được sử dụng cho các mạng
TCP/IP chuẩn (không bị chia nhỏ). Bảng dưới đây liệt kê các mặt nạ mạng mặc định sử dụng
dạng chấm thập phân.
Address Class Bits for Subnet Mask Subnet Mask
Class A 11111111 00000000 00000000 00000000 255.0.0.0
Class B 11111111 11111111 00000000 00000000 255.255.0.0
Class C 11111111 11111111 11111111 00000000 255.255.255.0
Các mặt nạ mạng con tùy khác với các mặt nạ mặc định, nếu như chúng được sử dụng để chia

mạng (subnetting) hay ghép mạng (supernetting). Ví dụ 138.96.58.0 là một địa chỉ mạng đã được
chia từ một địa chỉ lớp B sử dụng 8 bit cho việc chia mạng. Vì 8 bits được sử dụng cho việc chia
mạng, do đó mặt nạ mạng đã sử dụng 24 bits cho việc chia mạng và mang giá trị 255.255.255.0.
Như vậy địa chỉ mạng và mặt nạ của mạng con này tương ứng sẽ là 138.96.58.0, 255.255.255.0
Bởi vì số lượng bits sử dụng cho địa chỉ mạng luôn liền nhau tính từ bit cao nhất, do đó việc
trình bày mặt nạ mạng có thể thể hiện bằng số lượng bits sử dụng để định nghĩa địa chỉ mạng,
gọi là tiếp đầu mạng (network prefix), cách viết: /<số lượng bits>
Ví dụ một địa chỉ lớp B 138.96.0.0 với mặt nạ tương ứng 255.255.0.0 có thể được biểu diễn
dưới dạng 138.96.0.0/16. Còn ví dụ ở trên của một địa chỉ mạng con có thể biểu diễn dưới dạng
tiếp đầu mạng như sau: 138.96.58.0/24.
Cách viết tiếp đầu mạng còn gọi là cách viết của định tuyến liên vùng phi lớp hay classless
interdomain routing (CIDR).
d- Địa chỉ công cộng và địa chỉ dùng riêng
Nếu một mạng Intranet không được kết nối với mạng Internet, thì việc sử dụng địa chỉ IP có
thể áp dụng một cách ngẫu hứng. Nếu việc kết nối mạng Intranet được nối với mạng Internet
hoặc là trực tiếp (routed) hoặc là gián tiếp (proxy or translator) là cần thiết, cần phân biệt hai loại
địa chỉ trên Internet, địa chỉ công cộng và địa chỉ tư.
+ Địa chỉ công cộng
Địa chỉ công công được quản lý bởi InterNIC (Internet Network Information Center). Các địa
chỉ này được phân phối theo các địa chỉ mạng dựa trên lớp hay là một block gồm các địa chỉ
dựa trên CIDR hay được gọi là CIDR blocks, và đảm bảo tính duy nhất trên Internet.
Trang 23
23
Nghiên cứu các vấn đề về kỹ thuật, công nghệ của ISP
Khi các địa chỉ công cộng được cung cấp ra, các lộ trình (route) được đưa vào chương trình
cho các router trên Internet, làm như vậy để bảo đảm cho giao thông tới các địa chỉ công công
vừa được phân phối có thể đạt tới đích của mình. Giao thông tới đích là một địa chỉ công công có
thể đạt được trên Internet.
* Các địa chỉ không hợp lệ
Các mạng Intranet riêng không định kết nối vào Internet có thể lựa chọn địa chỉ một cách

ngẫu hứng, thậm chí các địa chỉ đã được InterNIC phân phối; Nếu sau này có nhu cầu kết nối
Intranet của mình vào mạng Internet, lúc đó địa chỉ IP hiện hành có thể trùng với địa chỉ IP đã
được phân phối bởi InterNIC cho các tổ chức khác. Các địa chỉ này là các địa chỉ IP đúp và
chúng được coi là các địa chỉ IP không hợp lệ. Các kết nối từ các địa chỉ IP không hợp lệ đến các
địa điểm trên Internet không thể thực hiện được.
+ Địa chỉ riêng (Private IP Address)
Mỗi một nút IP đòi hỏi có một địa chỉ IP duy nhất trên toàn liên mạng. Trong trường hợp của
mạng Internet, mỗi một nút IP trên một mạng kết nối vào Internet đòi hỏi có một địa chỉ IP duy
nhất trên toàn mạng Internet. Khi mạng Internet tăng trưởng nhanh, các tổ chức kết nối vào mạng
Internet đòi hỏi phải có địa chỉ công cộng cho mỗi nút trên mạng Intranet của mình. Đòi hỏi này
đã đặt ra một nhu cầu rất lớn cho địa chỉ công cộng.
Các máy còn lại trên mạng Intranet không đòi hỏi phải có quyền truy cập trực tiếp vào
Internet. Cho các máy này chỉ cần sử dụng các địa chỉ IP chưa được phân phối làm địa chỉ công
cộng. Để giải quyết vấn đề này các nhà thiết kế đã bảo lưu một phần khoảng địa chỉ IP và gọi các
khoảng địa chỉ này là khoảng địa chỉ riêng(private address space). Một địa chỉ IP trong khoảng
địa chỉ IP riêng không bao giờ được phân phối thành địa chỉ IP công cộng. Các địa chỉ IP trong
khoảng địa chỉ IP riêng này được gọi là địa chỉ IP riêng.
Khoảng địa chỉ riêngđược ghi trong RFC 1918, được định nghĩa bởi 3 block địa chỉ:
- 10.0.0.0/8 là một mạng tư với địa chỉ lớp A và do đó cho phép các địa chỉ máy trong khoảng
từ 10.0.0.1 đến 10.255.255.254. Mạng riêng này có 24 bits để đánh dấu các máy, và có thể sử
dụng tùy ý cho việc chia mạng con trong mạng nội bộ.
-172.16.0.0/12 là một mạng riêng được minh họa hoặc là một block của 16 địa chỉ lớp B hoặc
là một khoảng địa chỉ với 20 bits cho việc đánh dấu máy, và có thể sử dụng tùy ý cho việc chia
mạng con trong mạng nội bộ
-192.168.0.0/16 là một mạng tư được minh họa hoặc là một block của 256 địa chỉ lớp C hoặc
là một khoảng địa chỉ với 16 bits cho việc đánh dấu máy, và có thể sử dụng tùy ý cho việc chia
mạng con trong mạng nội bộ
Giao thông Internet từ một máy có địa chỉ riêng phải được gửi qua một cổng lớp ứng dụng
(proxy server) có địa chỉ công cộng, hoặc địa chỉ riêng này phải được dịch sang một địa chỉ công
cộng có giá trị sử dụng NAT(Network Address Translation).

Trang 24
24
Nghiên cứu các vấn đề về kỹ thuật, công nghệ của ISP
II- Địa chỉ IP phiên bản 6 (IP version 6)
IP phiên bản 6 (IPv6) là bước phát triển tiếp theo của IPv4, các tính năng của IPv4 đều được
giữ lại trong IPv6. IPv6 (Internet Protocol version 6) được công bố chính thức vào ngày 14 tháng
7 năm 1999 bởi IANA (Internet Assigned Numbers Authority). IPv4 bao gồm 32 bit, theo lý
thuyết có thể cung cấp không gian 2
32
=4.294.967.296 địa chỉ, IPv6 có 128 bit địa chỉ theo lý
thuyết có thể cung cấp không gian 2
128
địa chỉ, số lượng địa chỉ này cực lớn có thể cung cấp cho
toàn bộ nhu cầu về đánh địa chỉ của loài người. Nhu cầu hiện tại chỉ cần khoảng 15% khoảng địa
chỉ IPv6, còn lại để dự phòng.
Việc đưa ra IPv6 nhằm tới các mục đích sau:
+ Mở rộng khoảng địa chỉ và định tuyến.
+ Tự động cấu hình.
+ Các khả năng xác thực và bảo mật.
Địa chỉ IPv6 là các số định danh (identifier) 128 bits cho các giao diện hoặc tập hợp các giao
diện. Các địa chỉ IPv6 được chia là 3 loại:
+ Unicast (địa chỉ đơn hướng): Là số định danh cho một giao diện đơn. Khi một gói được gửi
đến unicast address, gói đó sẽ được chuyển trực tiếp đến giao diện định dạng qua địa chỉ này.
+ Anycast (Địa chỉ bất kỳ hướng nào): Là số định danh cho một tập hợp các giao diện, thường
là thuộc về các nút khác nhau. Khi một gói được gửi đến một anycast address, gói đó sẽ được
chuyển đến một địa chỉ gần nhất ứng trong tập hợp đó với khoảng cách được đo bởi giao thức
định tuyến (routing protocol).
+ Multicast (Địa chỉ đa hướng): là số định danh cho một tập hợp các giao diện, thường là
thuộc về các nút khác nhau. Khi một gói được gửi đến một multicast address, gói này sẽ được
chuyển đến tất cả các giao diện được định dạng bởi địa chỉ này.

Trong IPv6 không còn tồn tại broadcast address nữa vì chức năng của loại địa chỉ này đã được
thay thế bởi các multicast address. Trong tài liệu này mỗi trường trong địa chỉ được gán cho một
tên nhất định, ví dụ "subscriber". Nếu như tên này được sử dụng cùng với từ ID (idendifier), ví
dụ "subscriber ID", thì nó ám chỉ nội dung của trường có tên đó. Nếu như tên được sử dụng cùng
với từ "prefix", ví dụ "subscriber prefix", thì nó ám chỉ tất cả các địa chỉ tới và chứa trường này
(it refers to all of the address up to and including this field).
Trong IPv6 tất cả các số 0 và tất cả các số 1 đều là những giá trị hợp lệ cho một trường nào
đó, trừ khi chúng bị loại trừ ra một cách rõ ràng. Ngoài ra các tiếp đầu (prefix) có thể các trường
có giá trị 0 hoặc là kết thúc bởi 0.
* Mô hình đánh địa chỉ
Các địa chỉ IPv6 của tất cả các loại được gán cho các giao diện (interface), không gán cho nút
(node). Một địa chỉ IPv6 loại Unicast được gán cho một giao diện đơn, vì mỗi một giao diện
thuộc về một nút đơn, do đó mỗi địa chỉ unicast định danh một giao diện sẽ định danh một nút.
Trang 25
25

×