Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

TIỂU LUẬN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (842.77 KB, 37 trang )

Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam trong giai đoạn hiện nay K20-TCDN-Đ1-Nhóm 2
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP

TIỂU LUẬN
MÔN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Đề tài:
PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI
PHIẾU VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn
Khoá: 20
Lớp: TCDN Đêm 1
Nhóm: 02
TP.Hồ Chí Minh, tháng 02 năm 2012
Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam trong giai đoạn hiện nay K20-TCDN-Đ1-Nhóm 2
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN TỔNG QUAN VỀ TRÁI PHIẾU VÀ THỊ TRƯỜNG TRÁI
PHIẾU 1
1.1. Thịtrườngtráiphiếu 1
1.1.1. Kháiniệmvềtráiphiếu 1
1.1.2. Sựkhácbiệtgiữatráiphiếuvàcổphiếu 1
1.1.3. Phânloạitráiphiếu 1
a. Căncứvàochủthểpháthành 1
b. Căncứtheotínhchấtchuyểnnhượng 3
1.1.3. Thịtrườngtráiphiếu 3
a. Phânloạithịtrườngtráiphiếu 3
b. Vaitròcủathịtrườngtráiphiếu 4
1.2. Địnhmứctínnhiệmđốivớithịtrườngtráiphiếu 7
1.2.1. Kháiniệmđịnhmứctínnhiệm 7


1.2.2. Nguyêntắchoạtđộngcủatổchức ĐMTN 8
1.2.3.Sựcầnthiếtchoviệcxâydựnghệthống ĐMTN trongnước 8
CHƯƠNG2. THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM 11


2.1. Cơ sở pháp lý cho quá trình phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam. .11
2.2 ThựctrạngvềthịtrườngtráiphiếuViệt Nam 12
2.2.1. ĐánhgiáchungvềthịtrườngtráiphiếuViệt Namhiện nay 12
2.2.2 PhântíchthịtrườngtráiphiếuViệt Namhiện nay 14
a. Tráiphiếuchínhphủvàtínphiếukhobạc 14
b. TráiphiếuChínhquyềnđịaphương 17
c. Tráiphiếudoanhnghiệp 18
2.3. NguyênnhânkémpháttriểncủathịtrườngtráiphiếuViệt Nam 20
CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
VIỆT NAM HIỆN NAY 26
Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam trong giai đoạn hiện nay K20-TCDN-Đ1-Nhóm 2
3.1 Giảiphápngắnhạn 26
3.2 Giảiphápdàihạn 30
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam trong giai đoạn hiện nay K20-TCDN-Đ1-Nhóm 2
LỜI MỞ ĐẦU
Mặc dù đạt được những thành tích ấn tượng trong quá trình xây dựng và
phát triển kinh tế đất nước, mặc dù luôn nằm trong top những quốc gia có tốc độ
tăng trưởng GDP cao nhất thế giới nhưng hiện tại Việt Nam vẫn là một nước đang
phát triển. Vì vậy để Việt Nam trở thành một nước phát triển, trở thành một cường
quốc về kinh tế thì nhu cầu về vốn để xây dựng và phát triển luôn là một vấn đề
làm đau đầu không những cho các nguyên thủ quốc gia mà còn các nhà lãnh đạo
doanh nghiệp và tập đoàn kinh tế nhà nước lẫn tư nhân.
Để thực hiện mục tiêu đưa Việt Nam trở thành một quốc gia giàu và mạnh

chúng ta cần phải chuẩn bị tốt các nguồn lực, một trong những nguồn lực đóng vai
trò quan trọng đó là vốn. Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang tăng trưởng
mạnh, nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển là rất lớn. Việc huy động vốn trong và
ngoài nước trong thời gian qua đã đạt những kết quả khả quan. Tuy nhiên, việc huy
động vốn trong nước vẫn chưa thật sự phát triển mạnh, đặc biệt là vốn dài hạn.
Hơn lúc nào hết, nhu cầu vốn đặt ra cho Chính phủ một sự quan tâm đặc biệt
để phát triển. Phát triển thị trường vốn Việt Nam, trong đó thị trường chứng khoán
đóng vai trò chủ đạo, đây là kênh dẫn vốn nhanh để phát triển nền kinh tế đất nước.
Tính đến nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đã hoạt động được hơn
mười năm, đã có những bước phát triển cả về quy mô và chất lượng hàng hóa, tiến
tới phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh các hoạt
động mua bán giao dịch cổ phiếu sôi động thì thị trường trái phiếu vẫn chưa thật sự
thu hút được các nhà đầu tư quan tâm. So với thị trường cổ phiếu đã có những phát
triển vượt bậc thì thị trường trái phiếu vẫn còn đang bỏ ngỏ.
Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam trở thành kênh huy động vốn nhanh
và hiệu quả, giải quyết các nhu cầu vốn cho các dự án đầu tư và bù đắp thâm hụt
ngân sách của Chính phủ, đáp ứng nhu cầu vốn phục vụ cho quá trình sản xuất và
tái sản xuất mở rộng của các doanh nghiệp cũng như tạo thêm hàng hoá cho thị
trường và nhà đầu tư. Muốn vậy, cần phải phân tích tìm hiểu nguyên nhân kém
phát triển và đưa ra các giải pháp phát triển thị trường trái phiếu – một thị trường
hết sức tiềm năng hiện nay.
Xuất phát từ những nguyên nhân trên, nhóm đã chọn nghiên cứu đề tài:
“PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY ”
Trong phạm vi một bài tiểu luận, với sự hạn chế về thời gian cũng như kiến
thức của nhóm nghiên cứu chắc chắn đề tài nghiên cứu sẽ có những thiếu sót. Vì
Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam trong giai đoạn hiện nay K20-TCDN-Đ1-Nhóm 2
vậy nhóm nghiên cứu rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến quý báu của thầy để
đề tài được hoàn thiện hơn.
Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam trong giai đoạn hiện nay K20-TCDN-Đ1-Nhóm 2

CHƯƠNG I
LÝ LUẬN TỔNG QUAN VỀ TRÁI PHIẾU VÀ THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU
1.1. Thị trường trái phiếu
1.1.1. Khái niệm về trái phiếu
Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của
người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành. Chứng khoán là
bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản
hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức
chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử. (Điều 6 – Luật Chứng khoán
2006).
1.1.2. Sự khác biệt giữa trái phiếu và cổ phiếu:
Đều là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người chủ sở
hữu nhưng trái phiếu có nhiều điểm khác biệt và chính nhưng điểm khác biệt này
làm cho trái phiếu ít rủi ro cho nhà đầu tư hơn so với cổ phiếu.
Đặc điểm Trái phiếu Cổ phiếu
Loại hình Chứng khoán nợ. Chứng khoán vốn.
Thời hạn Trái phiếu có thời gian đáo
hạn cụ thể.
Cổ phiếu không có thời
gian đáo hạn.
Thu nhập Thu nhập cố định là tiền lãi.
Lãi suất của trái phiếu được
ấn định trước khi phát hành,
không tùy thuộc vào lợi
nhuận doanh nghiệp.
Thu nhập là cổ tức, tuỳ
thuộc vào lợi nhuận của
doanh nghiệp.
Khả năng thu hồi Trái phiếu được doanh
nghiệp thanh toán trước.

Cổ phiếu được thanh
toán sau.
Quyền kiểm soát và
biểu quyết
Trái chủ không có quyền Cổ đông có quyền kiểm
soát và tham gia biểu
quyết trong doanh
nghiệp.
Giải thể Trái chủ được ưu tiên thanh
toán trước.
Cổ đông được phân chia
tài sản còn lại theo tỷ lệ
cổ phần nắm giữ.
1.1.3. Phân loại trái phiếu
a. Căn cứ vào chủ thể phát hành
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 1
Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam trong giai đoạn hiện nay K20-TCDN-Đ1-Nhóm 2
Trái phiếu được chia thành hai loại chính: trái phiếu Chính phủ (TPCP), trái
phiếu Chính quyền địa phương (TPCQĐP) và trái phiếu doanh nghiệp (TPDN).
 Trái phiếu chính phủ và trái phiếu chính quyền địa phương
Là chứng khoán nợ do Chính phủ hoặc Chính quyền địa phương phát hành
nhằm mục đích bù đắp thiếu hụt ngân sách và tài trợ các dự án xây dựng các cơ sở
hạ tầng, công trình phúc lợi công cộng trung ương và địa phương. Khoản nợ này
được Chính phủ dùng ngân sách quốc gia để thanh toán. Xuất phát từ nhu cầu chi
tiêu của Chính phủ hay Chính quyền địa phương, có thể phát hành trái phiếu: ngắn
hạn, trung hạn hay dài hạn. Có các loại trái phiếu tiêu biểu:
- Trái phiếu kho bạc: là trái phiếu nợ trung, dài hạn từ 5 đến 30 năm hay hơn
nữa, do kho bạc phát hành khi huy động vốn để bổ sung bù đắp ngân sách…
- Trái phiếu đô thị: là trái phiếu dài hạn từ 10 đến 30 năm do Chính phủ hay
Chính quyền địa phương phát hành nhằm huy động vốn tài trợ cho các dự án đầu

tư hạ tầng.
 Trái phiếu doanh nghiệp
Là chứng khoán nợ do các công ty phát hành với mục đích huy động vốn cho
đầu tư phát triển. Các công ty phát hành trái phiếu khi muốn huy động một số vốn
lớn và có tính chất dài hạn, khi đó công ty là người đi vay và cam kết trả cho người
mua trái phiếu doanh nghiệp cả gốc và lãi theo những quy định trong hợp đồng
phát hành trái phiếu. Để quyết định việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp cần căn
cứ vào các nhân tố: tình hình của công ty, tình hình thị trường, tình hình lãi suất
ngân hàng, tính chất của dự án đầu tư. Trái phiếu doanh nghiệp có rất nhiều loại,
tùy thuộc vào điều kiện, sự tính toán của công ty có thể lựa chọn một trong những
loại trái phiếu đặc trưng sau để phát hành:
- Trái phiếu thế chấp (mortagage bonds) còn gọi là trái phiếu bảo đảm: là
loại trái phiếu khi phát hành đòi hỏi phải có một lượng tài sản tương ứng ký thác
tại cơ quan ủy thác để đảm bảo chắc chắn khả năng hoàn trả của trái phiếu. Tài sản
thế chấp có thể là nhà máy, thiết bị, chứng khoán (cổ phiếu của công ty mua của
công ty khác, TPCP, TPCQĐP) do công ty nắm giữ. Trái phiếu thế chấp là loại
được xếp hạng bảo vệ cao, có hai loại:
+ Trái phiếu đóng: loại này không cho phép công ty phát hàng bất kỳ một
loại chứng khoán bổ sung nào đối với những tài sản đã thế chấp.
+ Trái phiếu mở: loại này cho phép công ty phát hành chứng khoán bổ sung
đối với tài sản đã thế chấp theo tỷ lệ qui định. Loại này thường có lãi suất cao
hơn so với trái phiếu thế chấp đóng.
- Trái phiếu tín chấp hay còn gọi là trái phiếu không bảo đảm (unsecured
bonds): là loại trái phiếu chỉ dựa vào uy tín của công ty để phát hành, công ty
không đưa một tài sản gì ra làm vật đảm bảo. Loại này chỉ có các công ty lớn, có
danh tiếng, uy tín mới phát hành.
- Trái phiếu chuyển đổi (convertible bonds): là loại trái phiếu mà khi phát
hành có kiềm điều khoản cho phép người sở hữu trái phiếu đặc quyền, được đổi
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 2
Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam trong giai đoạn hiện nay K20-TCDN-Đ1-Nhóm 2

sang một số lượng nhất định cổ phiếu thường với chỉ số và thời gian chuyển đổi đã
được xác định. Đây là loại trái phiếu rất hấp dẫn và dễ bán hơn, thường được nhiều
công ty cổ phần áp dụng.
- Trái phiếu thu nhập (income bonds): là loại trái phiếu mà lợi tức được trả
tùy thuộc vào lợi nhuận của công ty và không cao hơn lãi suất ghi trên trái phiếu.
Đây là loại chứng khoán lai tạp giữa trái phiếu và cổ phiếu thường, nó có phần ưu
tiên về lợi nhuận hơn cổ phiếu có nghĩa là trái chủ nhận được lãi trước khi cổ đông
nhận cổ tức.
- Trái phiếu lãi suất chiết khấu (discount bonds): là loại trái phiếu được trả
lãi ngay khi phát hành, được khấu trừ vào vốn mua trái phiếu.
- Trái phiếu lãi suất thả nổi (floating rate bonds): là loại trái phiếu có lãi
suất được điều chỉnh theo từng thời không kỳ cho phù hợp với lãi suất trên thị
trường (lãi suất tín dụng) hoặc bị chi phối bởi giá, chẳng hạn như chỉ số bán lẻ.
Đây là loại trái phiếu được bảo hiểm, chống lại được phần nào lạm phát và sự gia
tăng của lãi suất tín dụng ngân hàng. Như vậy, công ty phát hành và nhưng người
đầu tư có thể được bảo vệ phần nào trước rủi ro lãi suất.
- Trái phiếu có thể thu hồi (callable bonds): là trái phiếu có quy định điều
khoản cho phép công ty mua lại trái phiếu trước khi đến hạn, thường theo giá “gia
tăng để giảm bớt nợ”.
b. Căn cứ theo tính chất chuyển nhượng
 Trái phiếu vô danh
Trái phiếu vô danh là loại trái phiếu không ghi tên người chủ trái phiếu cả trên
trái phiếu và cả trên sổ người phát hành. Người cầm giữ trái phiếu là người sở hữu
trái phiếu.
 Trái phiếu ghi danh
Trái phiếu ghi danh là loại trái phiếu có ghi tên và địa chỉ người sở hữu cả
trên trái phiếu và sổ người phát hành.
1.1.3. Thị trường trái phiếu
Thị trường trái phiếu là 1 bộ phận của thị trường vốn dài hạn, thực hiện cơ
chế chuyển vốn trực tiếp từ nhà đầu tư sang nhà phát hành, qua đó thực hiện chức

năng của thị trường tài chính là nguồn cung cấp vốn trung và dài hạn cho nền kinh
tế.
Thị trường trái phiếu là thị trường vốn dài hạn, tập trung các nguồn vốn đầu
tư và phát triển nền kinh tế do đó có tác động rất lớn đến môi trường đầu tư nói
riêng và tình hình kinh tế nói chung.
a. Phân loại thị trường trái phiếu
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 3
Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam trong giai đoạn hiện nay K20-TCDN-Đ1-Nhóm 2
Thị trường sơ cấp: là thị trường mua bán các TP mới phát hành.Trên thị
trường này vốn từ nhà đầu tư chuyển sang nhà phát hành thông qua việc nhà đầu tư
mua trái phiếu mới phát hành.
Thị trường thứ cấp: Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các trái phiếu được
phát hành trên thị trường sơ cấp. Là thị trường chuyển nhượng quyền mua sở hữu
trái phiếu. Thị trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho các trái phiếu đã phát
hành.
b. Vai trò của thị trường trái phiếu
Thị trường trái phiếu (TTTP) là nơi giao dịch mua bán các loại trái phiếu đã
phát hành, các loại trái phiếu này do Chính phủ hoặc Chính quyền địa phương và
các công ty phát hành. TTTP đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế, đối với
các doanh nghiệp cũng như các nhà đầu tư.
b1. Đối với nền kinh tế
 Thị trường trái phiếu là kênh huy động vốn nhanh chóng và hiệu
quả.
Thị trường trái phiếu là một bộ phận của thị trường vốn dài hạn, thực hiện
chức năng của thị trường tài chính là cung cấp nguồn vốn trung, dài hạn cho nền
kinh tế. Đây là thị trường có khả năng huy động các nguồn vốn phân tán, tạm thời
nhàn rỗi trong toàn xã hội vào công cuộc đầu tư.
Đối với Nhà nước/Chính Phủ, toàn bộ các khoản chi tiêu khổng lồ đều trông
chờ vào các khoản thu của ngân sách (trong đó chủ yếu là nguồn thu từ thuế),
nhưng ngân sách không đủ chi, ngân sách Nhà nước luôn đứng trước nguy cơ thâm

hụt. Chính phủ rất cần nguồn tài chính để giải quyết nhu cầu vốn cho các dự án đầu
tư và bù đắp thiếu hụt ngân sách quốc gia. Tài trợ bằng cách in tiền rất dễ triển
khai nhưng thường để lại hậu quả khó lường cả trước mắt lẫn lâu dài, cả cho mọi
thành phần kinh tế, dân cư và Chính phủ. Vì vậy Chính phủ phải huy động vốn
thông qua việc phát hành trái phiếu. Tùy theo mục đích sử dụng, Chính phủ có thể
phát hành trái phiếu nội tệ hay ngoại tệ và với các kỳ hạn khác nhau.
 Thị trường TPCP phát triển giúp Chính phủ thực hiện chính sách
tiền tệ.
Trên thị trường vốn, trái phiếu là một hàng hóa quan trọng, đặc biệt là TPCP với
đặc tính ít rủi ro nhất đã trở thành hàng hóa chủ đạo trên thị trường, góp phần hình
thành lãi suất trên thị trường.
Trái phiếu do Chính phủ phát hành thu hút một khối lượng vốn tiền mặt
trong lưu thông từ các tầng lớp dân cư, tổ chức kinh tế và định chế tài chính trung
gian. Vốn này được đưa vào sử dụng cho nhu cầu đầu tư phát triển, tạo ra của cải
hàng hóa cho xã hội. Nhờ vậy, mà cân đối tiền hàng được điều chỉnh tích cực, tăng
tốc độ vòng quay vốn, giảm áp lực cầu tiền mặt của nền kinh tế, ổn định môi
trường tiền tệ, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính trong
nước.
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 4
Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam trong giai đoạn hiện nay K20-TCDN-Đ1-Nhóm 2
Ngân hàng trung ương (NHTƯ) theo sự ủy quyền của Bộ Tài chính thường
phát hành loại trái phiếu ngắn hạn để thực hiện nghiệp vụ thị trường mở. Khi
NHTƯ cần rút bớt khối lượng tiền tệ trong lưu thông về thì NHTƯ bán tín phiếu
ra, ngược lại khi cần thiết phải đưa tiền vào lưu thông thì NHTƯ mua tín phiếu về.
Mục đích góp phần thực hiện chính sách tài chính quốc gia khắc phục tình hình
lạm phát, bảo đảm được khối lượng tiền tệ trong lưu thông một cách hợp lý.
 Thị trường trái phiếu phát triển làm cho thị trường vốn hoàn thiện
và đa dạng hơn.
Thị trường trái phiếu có quy mô và độ sâu để hỗ trợ tốt hơn nhu cầu vốn
đầu tư dài hạn trong nền kinh tế, góp phần tạo ra một cấu trúc thị trường vững chắc

mà nó dựa trên cơ sở cân đối giữa thị trường vay nợ ngân hàng, thị trường trái
phiếu và thị trường cổ phiếu trong tương lai. Thị trường trái phiếu thúc đẩy sự phát
triển bền vững, ổn định của thị trường vốn.
Huy động vốn qua loại hình trái phiếu sẽ làm giảm sự tập trung vào hệ thống
ngân hàng. Đặc biệt là thị trường trái phiếu doanh nghiệp vừa có thể huy động
được nguồn vốn dồi dào từ xã hội vừa góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế xã
hội. Nếu trước đây doanh nghiệp chỉ có nguồn vay duy nhất từ ngân hàng, với sự
tồn tại và phát triển hoạt động của thị trường TPDN đã tạo thêm cho các doanh
nghiệp nguồn cung tín dụng hữu hiệu. Gánh nặng và rủi ro cho vay của các ngân
hàng được san sẻ cho các nhà đầu tư trái phiếu trên thị trường. Như vậy, thị trường
TPDN có thể đa dạng hóa nhiều rủi ro hơn hình thức tài trợ qua ngân hàng, nhờ đó
việc tài trợ dài hạn cho các dự án rủi ro cao có thể thực hiện được. Còn giúp làm
giảm chi phí vốn cho nền kinh tế.
Phát triển thị trường trái phiếu sẽ làm giảm sự sự huy động qua hệ thống
ngân hàng, điều này tạo sự cân xứng trong kỳ hạn huy động vốn và cho vay vốn
của ngân hàng, làm giảm nhẹ các “sai lệch kép” và do đó hạ thấp nguy cơ nền kinh
tế đối mặt với khủng khoảng về cán cân vốn như tình hình ở các nước Châu Á
trong cuộc khủng hoảng tài chính 1997-1998.
 Thị trường trái phiếu giúp Chính phủ thực thi có hiệu quả chức
năng quản lý vĩ mô nền kinh tế-xã hội.
Đối với Chính phủ, một trong những chức năng nhiệm vụ quan trọng là quản
lý vĩ mô nền kinh tế đảm bảo vai trò của “người trọng tài” tạo môi trường bình
đẳng, thuận lợi cho toàn bộ nền kinh tế - xã hội phát triển bền vững. Thông qua
phát hành trái phiếu và đầu tư bằng vốn TPCP góp phần nâng cao hiệu quả của
việc phân phối và tái phân phối nguồn lực tài chính, định hướng hoạt động đầu tư
trong nền kinh tế.
b2. Đối với doanh nghiệp
Mọi doanh nghiệp đều có nhu cầu to lớn về vốn để vận hành và phát triển.
Đối với doanh nghiệp, thường có ba cách để huy động vốn: vay ngân hàng, phát
hành trái phiếu và phát hành cổ phiếu. Đối với từng phương thức huy động vốn

đều có những thế mạnh riêng, tùy theo tình hình cụ thể của nền kinh tế và của
doanh nghiệp, để từ đó doanh nghiệp đưa ra quyết định phương thức tài trợ tối ưu
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 5
Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam trong giai đoạn hiện nay K20-TCDN-Đ1-Nhóm 2
nhất. Tuy nhiên, các doanh nghiệp ở Việt Nam thường huy động bằng cách vay
ngân hàng hoặc phát hành cổ phiếu hơn là phát hành trái phiếu. Phát hành trái
phiếu với các ưu điểm:
- Thứ nhất, phát hành trái phiếu đảm bảo cho doanh nghiệp được sử dụng
một nguồn vốn ổn định và dài hạn, trong khi vay ngân hàng thường là ngắn hạn
hơn. Mặc dù trong một số dự án đặc biệt, ngân hàng thương mại cũng có thể cho
doanh nghiệp vay với thời hạn dài hơn, nhưng với các dự án lớn ngân hàng lại bị
giới hạn đầu tư. Cụ thể, khi doanh nghiệp tài trợ vốn bằng phát hành trái phiếu
không bị hạn chế về quy mô miễn là doanh nghiệp có phương án sử dụng số vốn
huy động một cách hợp lý, có tính khả thi và có khả năng hoàn trả lãi và gốc cho
những người đi vay. Trái lại, phương thức vay ngân hàng, số vốn tối đa doanh
nghiệp được vay lại phụ thuộc vào vốn tự có của ngân hàng cho vay, nếu số vốn
doanh nghiệp cần huy động quá lớn, việc cho vay phải được tiến hành qua phương
thức đồng tài trợ phức tạp hơn nhiều. Mặt khác, doanh nghiệp phát hành trái phiếu
còn có ưu điểm về thời hạn vay hơn các khoản vay ngân hàng, các doanh nghiệp
hoàn toàn tự do trong việc xác định thời hạn vay. Nếu các doanh nghiệp chú tâm
đến kênh huy động vốn này thì sẽ có lợi thế lớn cho các doanh nghiệp trong nước
đủ sức cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài trong tương lai.
- Thứ hai, trong trường hợp doanh nghiệp cần vốn nhưng ngại phát hành cổ
phiếu rộng rãi vì sợ phát hành thêm cổ phiếu sẽ làm pha loãng quyền sở hữu trong
doanh nghiệp, hoặc doanh nghiệp có dự án tốt, nhưng không muốn phát hành cổ
phiếu, vì không muốn lợi nhuận của mình bị chia đều cho các nhà đầu tư khi phải
trả cổ tức cao theo hiệu quả kinh doanh… thì phát hành trái phiếu là một giải pháp
tối ưu. Vì thế, doanh nghiệp không sợ bị thao túng mà lợi tức chia sẻ cũng chỉ hạn
chế trong phạm vi lãi suất trái phiếu khi phát hành. Ngoài ra, trái phiếu là công cụ
huy động vốn có thời hạn nên trách nhiệm của doanh nghiệp đối với trái chủ sẽ kết

thúc khi trái phiếu đáo hạn, trong khi doanh nghiệp phải có trách nhiệm đối với cổ
đổng nắm giữ cổ phiếu trong suốt thời gian nó tồn tại.
- Thứ ba, chi phí sử dụng vốn khi phát hành trái phiếu thấp hơn phát hành
cổ phiếu, do đặc điểm của trái phiếu có tính ổn định và chứa đựng ít rủi ro hơn cổ
phiếu. Việc đầu tư vào cổ phiếu có mức độ rủi ro cao hơn so với đầu tư vào trái
phiếu, do đó mức bù rủi ro mà nhà đầu tư đòi hỏi đối với trái phiếu thấp hơn cổ
phiếu. Công ty phát hành trái phiếu trả lãi cho trái chủ không phụ thuộc vào tình
hình sản xuất kinh doanh của công ty, trong khi đó công ty chỉ trả cổ tức cho cổ
đông khi kinh doanh có lãi. Hơn nữa, trong trường hợp công ty giải thể hoặc bị phá
sản thì trái chủ được ưu tiên trả nợ trước rồi mới đến các cổ đông. Chính vì thế,
nhà đầu tư luôn đánh giá mức độ rủi ro của trái phiếu thấp hơn cổ phiếu và tương
ứng họ đưa ra mức bù rủi ro đối với trái phiếu thấp hơn đối với cổ phiếu.
Để tham gia thị trường trái phiếu với tư cách là nhà phát hành, các doanh
nghiệp phải đáp ứng các yêu cầu về độ tin cậy đối với nhà đầu tư như quy mô hoạt
động, hệ thống kế toán – kiểm toán, định mức tín nhiệm… Điều này đặc biệt quan
trọng và không thể thiếu khi doanh nghiệp muốn phát hành trái phiếu ra công
chúng một cách rộng rãi và niêm yết trái phiếu của mình trên sở giao dịch chứng
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 6
Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam trong giai đoạn hiện nay K20-TCDN-Đ1-Nhóm 2
khoán. Trái phiếu của doanh nghiệp phát hành càng chất lượng thì càng thu hút
được nhiều nhà đầu tư và ngược lại. Chính những yêu cầu đặt ra đối với các doanh
nghiệp đòi hỏi doanh nghiệp phải luôn củng cố bộ máy tổ chức và quản lý, nâng
cao tính cạnh tranh và hiệu quả kinh doanh, nâng cao mức độ tín nhiệm đối với
những người đầu tư. Đây cũng có thể coi là một tác động mang tính gián tiếp của
thị trường trái phiếu đối với sự phát triển của các doanh nghiệp nói riêng và của cả
nền kinh tế nói chung.
Thông qua chi đầu tư bằng vốn TPCP, khi Chính phủ đầu tư vào ngành, lĩnh
vực nào sẽ giúp thúc đẩy hoạt động đầu tư vào ngành, lĩnh vực đó của thành phần
kinh tế phi nhà nước.
b3. Đối với nhà đầu tư

Thị trường trái phiếu góp phần làm đa dạng hoá các sản phẩm tài chính,
cung cấp cho các nhà đầu tư ngày càng nhiều lựa chọn để đa dạng hóa danh mục
đầu tư phù hợp với những khẩu vị rủi ro khác nhau. TPCP với độ an toàn cao
nhưng lãi suất không hấp dẫn bằng TPDN. Bên cạnh đó, đầu tư vào cổ phiếu sẽ
đem lại cho nhà đầu tư tỷ suất lợi nhuận cao hơn tương ứng với mức rủi ro cao
hơn. Thị trường trái phiếu với các loại trái phiếu và kỳ hạn khác nhau tạo thêm cho
nhà đầu tư lựa chọn phương án đầu tư phù hợp.
Đối với nhà đầu tư, trái phiếu có tính ổn định và chứa đựng ít rủi ro hơn cổ
phiếu. Trái phiếu luôn có một thời hạn nhất định và khi đáo hạn trái chủ được nhận
lại vốn góp ban đầu của mình. Thu nhập chủ yếu của trái phiếu là tiền lãi, đây là
khoản thu cố định. Khi đầu tư vào TPDN, trái chủ nhận tiền lãi không phụ thuộc
vào tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát hành, đặc điểm này
không giống với cổ đông chỉ nhận được cổ tức khi doanh nghiệp kinh doanh có lãi.
Thêm một đặc điểm nữa, nếu công ty bị giải thể hoặc phá sản thì trái chủ được ưu
tiên trả nợ trước các cổ đông. Vì vậy đây là dạng đầu tư phù hợp với các nhà đầu
tư có khẩu vị đầu tư không thích mạo hiểm.
1.2. Định mức tín nhiệm đối với thị trường trái phiếu
1.2.1 Khái niệm định mức tín nhiệm
Định mức tín nhiệm (ĐMTN) là đánh giá về khả năng thực hiện thanh toán
đúng hạn một nghĩa vụ tài chính của một tổ chức phát hành các công cụ nợ.
ĐMTN là gồm cả đánh giá định tính và định lượng về sức mạnh tín dụng của tổ
chức phát hành. Tổ chức phát hành có thể là các doanh nghiệp, chính quyền địa
phương và quốc gia trong trường hợp phát hành nợ của chính phủ. ĐMTN đối với
các công cụ thị trường trái phiếu và thị trường tiền tệ được thực hiện phổ biến ở
các thị trường tài chính phát triển.
Định mức tín nhiệm gồm cả đánh giá định tính và định lượng, đây là hai tiêu
chí cơ bản của việc đánh giá ĐMTN. Bao gồm các yếu tố về: tình hình và triển
vọng phát triển kinh tế đất nước, các yếu tố rủi ro vĩ mô, chính sách của nhà nước
có ảnh hưởng đến ngành và đến công ty; đặc điểm của (các) ngành kinh tế mà công
ty đang tham gia, triển vọng phát triển của ngành trong nền kinh tế quốc dân, tác

động, ảnh hưởng của những yếu tố vĩ mô, trong, ngoài nước tới ngành kinh tế, vị
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 7
Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam trong giai đoạn hiện nay K20-TCDN-Đ1-Nhóm 2
trí, thị phần của công ty trong ngành; chính sách quản lý trong sản xuất kinh
doanh, chính sách tài chính, quản lý vốn, marketing, bán hàng, đặc điểm công
nghệ, quy trình sản xuất, khả năng, kinh nghiệm của bộ máy lãnh đạo…
Kết quả đánh giá ĐMTN được biển hiện dưới hình thức các ký hiệu từ A
(nghĩa là ít bị vỡ nợ nhất) cho đến D (nghĩa là đã bị vỡ nợ rồi) phụ thuộc vào khả
năng của người phát hành trả nợ gốc và lãi đúng hạn. Trong những năm gần đây,
ĐMTN trái phiếu đã được sử dụng ngày càng thường xuyên hơn bởi các nhà quản
lý ngân hàng và chứng khoán để quản lý các tiêu chuẩn cẩn trọng hoặc xác định
tính thích hợp đầu tư cho một số loại quỹ đầu tư.
1.2.2 Nguyên tắc hoạt động của tổ chức ĐMTN
Để thành công và đáng tin cậy các tổ chức ĐMTN cần đảm bảo các nguyên
tắc:
- Tính độc lập trong quá trình ĐMTN. Tính độc lập của một tổ chức ĐMTN
là tối quan trọng cho tính tin cậy và thành công cuối cùng của nhà cung cấp dịch
vụ. Các tổ chức phát hành và các nhóm lợi ích thường có ảnh hưởng có chủ đích
đến kết quả định mức tín nhiệm. Ví dụ, một tổ chức phát hành có thể sẵn sàng hối
hộ tổ chức ĐMTN để có kết quả định mức tín nhiệm cao, hấp dẫn đối với các nhà
đầu tư; trong khi một nước có thể tìm mọi cách vận động tổ chức ĐMTN để dấu đi
những vấn đề khó khăn của họ đối với các nước cho vay. Trong những trường hợp
như vậy, kết quả định mức tín nhiệm sai lệch là rất nguy hiểm vì nó càng làm sâu
sắc thêm sự bất cân xứng thông tin giữa tổ chức phát hành và nhà đầu tư. Vì vậy,
đảm bảo sự độc lập trong quá trình định mức tín nhiệm là điều kiện tối cần thiết.
Quyền sở hữu và cấu trúc quản lý đảm bảo tính độc lập, đây là yếu tố quan trọng
đối với sự thành công của một tổ chức ĐMTN. Một tổ chức ĐMTN phải tự do từ
cả ảnh hưởng chính trị và áp lực lớn từ các tổ chức phải chịu sự đánh giá tín
nhiệm.
- Để kết quả định mức tín nhiệm đáng tin cậy, tổ chức ĐMTN phải có kỹ

thuật chuyên nghiệp, đủ nguồn lực tài chính, tiếp cận các thông tin tài chính tin cậy
về người phát hành, và các thủ tục hoạt động nội bộ đưa đến công tác định mức
nhất quán và tin cậy.
- Một nguyên tắc quan trọng khác đối với hoạt động của các tổ chức ĐMTN
là đảm bảo tính bảo mật thông tin. Để cung cấp một phương pháp định mức tín
nhiệm chính xác đối với các rủi ro tín dụng, các tổ chức ĐMTN thường yêu cầu
các thông tin chi tiết, đặc biệt là các thông tin về tình hình hoạt động và tài chính
của tổ chức phát hành. Thông thường, những thông tin đầu vào đòi hỏi đối với việc
định mức tín nhiệm là thông tin nội bộ, ở mức chi tiết và toàn diện hơn các thông
tin công bố công khai; do đó tính bảo mật là tối quan trọng.
1.2.3. Sự cần thiết cho việc xây dựng hệ thống ĐMTN trong nước
Trên thế giới, hoạt động ĐMTN xuất hiện từ rất lâu với sự ra đời của công ty
ĐMTN đầu tiên là Moody’s và đến nay đã trở thành công ty ĐMTN lớn nhất thế
giới, có mặt ở trên 100 quốc gia. Ngoài ra, còn phải kể đến những công ty như
Standard & Poor, Moody’s, Fitch… đang là những cái tên quen thuộc trong ngành
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 8
Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam trong giai đoạn hiện nay K20-TCDN-Đ1-Nhóm 2
ĐMTN. Ngày nay, hầu hết ở các quốc gia có thị trường tài chính phát triển đều tồn
tại ít nhất một tổ chức định mức tín nhiệm. Việc ĐMTN đối với các chứng khoán
nợ là một hoạt động không thể thiếu được trên thị trường vốn nói chung và thị
trường trái phiếu nói riêng.
Thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn còn non trẻ, trong đó thị trường trái
phiếu chủ yếu là TPCP. Để tạo cơ chế khuyến khích cho TTCK nói chung và
TTTP nói riêng phát triển thì sự tồn tại và phát triển của các tổ chức ĐMTN là điều
kiện cần thiết. Việc hình thành và phát triển các tổ chức ĐMTN trong nước mang
lại những lợi ích cho thị trường vốn nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng:
- ĐMTN như một chứng chỉ ISO về tình trạng tài chính, sẽ giúp cho nhà
phát hành tìm kiếm tài trợ từ nhiều nhà đầu tư hơn. Tổ chức ĐMTN trong nước
đóng góp một cách tích cực và to lớn vào việc huy động nguồn lực một cách hiệu
quả cho các tổ chức phát hành. Một kết quả xếp hạng tín nhiệm tốt sẽ chứng tỏ vị

thế trên TTCK nói riêng và trong nền kinh tế thị trường nói chung; ngược lại nếu
kết quả xếp hạng chưa tốt hoặc không tốt thì doanh nghiệp sẽ có những chiến lược
cải tổ bộ máy quản lý, tình hình tài chính, chiến lược kinh doanh…để đạt được
mức tín nhiệm cao hơn. Khi doanh nghiệp đạt mức tín nhiệm càng cao, trái phiếu
do doanh nghiệp phát hành có thể có lãi suất thấp nhưng vẫn có thể thu hút được
nhiều nhà đầu tư do tính an toàn của trái phiếu được đánh giá thông qua kết quả
xếp hạng tín nhiệm cao, điều này sẽ làm cho chi phí vay vốn của doanh nghiệp
càng thấp.
- Đối với nhà đầu tư, thông qua kết quả xếp hạng tín nhiệm nhà đầu tư có thể
thẩm định được rủi ro, lựa chọn danh mục đầu tư, đưa ra quyết định đầu tư và mức
lợi nhuận kỳ vọng phù hợp. Thị trường chứng khoán Việt Nam tuy vẫn còn sơ khai
nhưng trong thời gian gần đây cũng đã có sự phát triển khá nhanh, số lượng công
ty niêm yết trên TTCK và số lượng nhà đầu tư tham gia thị trường tăng lên đáng
kể, đã gia tăng cơ hội đầu tư cho những nhà đầu tư cả trong nước và quốc tế. Các
tổ chức ĐMTN cung cấp nguồn thông tin về rủi ro tín dụng, sẽ đem lại cho nhà đầu
tư những thông tin cần thiết về các trái phiếu trước khi quyết định đầu tư. Với các
thông tin này sẽ tạo được lòng tin cho nhà đầu tư khi đầu tư vào các công cụ tài
chính thay vì đầu tư vào các tài sản không có tính sinh lời cao.
- Hệ thống ĐMTN còn có vai trò đối với các tổ chức tín dụng ngân hàng và
phi ngân hàng đánh giá làm căn cứ mở rộng quy mô cho vay một cách phù hợp
cũng như chứng tỏ vị thế của mình trước trào lưu gia nhập của các NHTM nước
ngoài. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) là doanh nghiệp đầu tiên
được xếp hạng tín nhiệm bởi một tổ chức xếp hạng tín nhiệm quốc tế và có uy tín
như Moody’s và đây cũng là tổ chức xếp hạng cho Chính phủ Việt Nam.
- Đối với nhà quản lý, ĐMTN được sử dụng như một công cụ độc lập để
giám sát thị trường trên cơ sở xem xét tư cách và tình trạng tài chính của các đơn
vị phát hành.
Lợi ích của ĐMTN mang lại là rất lớn, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp
khi phát hành trái phiếu. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chủ yếu
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 9

Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam trong giai đoạn hiện nay K20-TCDN-Đ1-Nhóm 2
là doanh nghiệp vừa và nhỏ, việc thuê các tổ chức xếp hạng tín nhiệm từ nước
ngoài sẽ rất tốn kém vì mức phí rất cao. Trong khi Việt Nam hoàn toàn chưa có
một tổ chức ĐMTN chuyên nghiệp, có uy tín. Do vậy, phải có tổ chức ĐMTN tầm
quốc gia là yêu cầu cấp thiết.
Mặc dù các tổ chức ĐMTN quốc tế chuyên nghiệp hơn, các dịch vụ do tổ
chức ĐMTN quốc tế cung cấp có chất lượng cao nhưng tổ chức ĐMTN trong nước
cũng có những lợi thế nhất định. Trên thực tế, các tổ chức ĐMTN trong nước có
thể có kinh nghiệm hơn về các điều kiện trong nước, do vậy các tổ chức ĐMTN
trong nước có thể có những phương pháp xác định rủi ro tín dụng phù hợp hơn các
tổ chức ĐMTN quốc tế. Bên cạnh đó, nếu được thành lập thì các tổ chức ĐMTN
trong nước có sẽ có khả năng cung cấp các dịch vụ với quy mô nhỏ, nhất là trong
điều kiện các doanh nghiệp ở Việt Nam hầu hết với quy mô vừa và nhỏ, các doanh
nghiệp này thường không đủ khả năng thuê các tổ chức ĐMTN quốc tế. Việc phát
triển tổ chức ĐMTN trong nước sẽ tạo điều kiện cho thị trường trái phiếu doanh
nghiệp phát triển.
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 10
Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam trong giai đoạn hiện nay K20-TCDN-Đ1-Nhóm 2
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM
2.1. Cơ sở pháp lý cho quá trình phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam
Lâu nay, nguồn vốn vay hoạt động kinh doanh của DN vẫn dựa vào kênh tín
dụng ngân hàng là chính và một phần nhỏ từ phát hành cổ phiếu. Song nguồn vốn
của các tổ chức tín dụng không phải vô hạn, thị trường cổ phiếu lại đang gặp khó
khăn, huy động vốn bằng trái phiếu sẽ là một sự lựa chọn cần thiết.
Với cơ chế lãi suất thả nổi từ đầu năm 2011, đến nay, lãi suất cho vay của
NHTM đã leo lên trên 20%. Với mức này, khó doanh nghiệp nào có lãi bù đắp
được chi phí vay. Ngòai ra hệ thống nguồn vốn ngân hàng Việt Nam khó có khả
năng cung ứng nguồn vốn có kỳ hạn dài. Ước đoán thời điểm hiện nay, cơ cấu
nguồn vốn trung và dài ở khu vực ngân hàng chỉ chưa tới 15% tổng nguồn. Các

công cụ chuyển vốn ngắn thành dài hạn ở các NHTM Việt Nam cũng hết sức hạn
chế và thực tế từ năm 2008 đến nay, hệ thống NHTM cũng luôn luôn trong tình
trạng khó khăn về thanh khoản và thường "lấy ngắn nuôi dài".
Trong khi đó, diễn biến theo chiều hướng không thuận lợi trên TTCK thời
gian qua cũng chứng tỏ, doanh nghiệp sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy
động vốn từ kênh phát hành cổ phiếu. Từ 2010 đến nay, nhiều doanh nghiệp đã
hoãn lại kế hoạch tăng vốn cho thấy rõ điều này.Việc phát hành cổ phiếu để tăng
vốn hiện nay, áp lực trả cổ tức cũng là vấn đề rất lớn đối với các doanh nghiệp.
Hơn nữa, việc phát hành cổ phiếu cũng cần đảm bảo trình tự và thủ tục rất phức tạp
theo quy định của cơ quan chức năng và của bản thân công ty.
Thông qua phát hành trái phiếu, doanh nghiệp có thể sử dụng nguồn vốn
linh hoạt và dài hạn với kỳ hạn có thể lên tới 5 năm, 10 năm hoặc dài hơn. Khoản
tiền gốc của trái phiếu thường được thanh toán một lần vào cuối kỳ nên doanh
nghiệp không chịu áp lực trả nợ theo định kỳ như vay vốn ngân hàng.
Lãi suất trái phiếu được hình thành trên cơ sở quan hệ cung - cầu giữa
doanh nghiệp và các nhà đầu tư trên thị trường nên nhìn chung sẽ được xác định ở
mức hợp lý. Hơn nữa, tiền trả lãi trái phiếu được tính vào chi phí hoạt động kinh
doanh nên doanh nghiệp huy động vốn bằng trái phiếu sẽ có lợi hơn so với phát
hành cổ phiếu.Ngoài ra, phát hành trái phiếu không chỉ đơn thuần giúp doanh
nghiệp huy động được vốn mà còn tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận với
nhiều nhà đầu tư thị trường vốn, giảm bớt sự phụ thuộc vào kênh tín dụng ngân
hàng hay phát hành cổ phiếu.Thị trường trái phiếu là thị trường của những nhà đầu
tư chuyên nghiệp là các định chế tài chính lớn. Do đó, doanh nghiệp phát hành trái
phiếu thành công sẽ thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư, giúp quảng bá tên tuổi
và uy tín của doanh nghiệp rộng rãi trên thị trường. Từ đó, sẽ tạo nền tảng quan
trọng cho các đợt huy động vốn sau này của doanh nghiệp cũng như góp phần nâng
cao tính thanh khoản của trái phiếu trên thị trường thứ cấp.
Hiện nay, DN có nhiều cơ hội thuận lợi tiếp cận vốn trên thị trường trái
phiếu. Bởi lẽ, hệ thống hành lang pháp lý đã được ban hành và đang dần hoàn
thiện; có nhiều các chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển thị trường của chính

GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 11
Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam trong giai đoạn hiện nay K20-TCDN-Đ1-Nhóm 2
phủ, nhu cầu nắm giữ đa dạng các sản phẩm đầu tư của nhà đầu tư trên thị trường
vốn ngày càng cao; các NHTM và công ty chứng khoán cung cấp các dịch vụ trung
gian tài chính giúp phân phối trái phiếu của DN đến tay nhà đầu tư một cách hiệu
quả; sự tham gia tích cực của VBMA và các công ty tư vấn luật và công ty định
hạng tín nhiệm đang góp phần tích cực vào sự phát triển đúng hướng giúp DN tiếp
cận vốn hiệu quả thông qua phát hành trái phiếu.
Việc phát hành trái phiếu của các doanh nghiệp lớn, hoạt động hiệu quả trên
thị trường thời gian qua như HUD, Vinaconex, Sông Đà, Vincom… đã thu hút sự
quan tâm rất lớn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Điều này chứng tỏ nhu
cầu nắm giữ các loại trái phiếu có chất lượng của nhà đầu tư là rất lớn.
Bên cạnh đó, các trung gian tài chính (ngân hàng thương mại và các công ty
chứng khoán) ngày càng phát triển về số lượng cũng như chất lượng dịch vụ cung
ứng, qua đó đã giúp doanh nghiệp tối thiểu hóa chi phí huy động vốn và tạo thêm
kênh phân phối hiệu quả trái phiếu doanh nghiệp đến các nhà đầu tư .
BIDV trong những năm vừa qua luôn là ngân hàng trong nước tiên phong
trên thị trường trái phiếu, cung cấp đầy đủ các dịch vụ về phát hành trái phiếu
chuyên nghiệp cho doanh nghiệp như: tư vấn thu xếp phát hành, bảo lãnh phát
hành, bảo lãnh thanh toán, đại lý đăng ký lưu ký và thanh toán…
Ngoài ra, sự tham gia tích cực của Hiệp hội Thị trường Trái phiếu Việt Nam,
các công ty tư vấn luật, kiểm toán và công ty định hạng tín nhiệm quốc tế… đang
góp phần vào sự phát triển đúng hướng của thị trường, tạo cơ hội cho các doanh
nghiệp tiếp cận thị trường trái phiếu một cách hiệu quả
Việc huy động vốn bằng phát hành trái phiếu được xem là phương thức
mang lại nhiều lợi ích như huy động vốn từ các thành phần kinh tế, hạn chế sự phụ
thuộc vào nguồn vốn cấp phát, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, xã
hội hóa việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Mặt khác, việc phát hành trái phiếu
cũng cung cấp cho thị trường và các nhà đầu tư một công cụ tài chính, giúp đa
dạng hóa danh mục đầu tư và giảm thiểu rủi ro.

2.2. Thực trạng về thị trường trái phiếu Việt Nam
2.2.1. Đánh giá chung về thị trường trái phiếu Việt Nam
Cuối thập kỷ 90 của thế kỷ trước cho tới năm 2000, các giao dịch phát hành
trái phiếu của doanh nghiệp chỉ được thực hiện một cách thưa thớt với quy mô nhỏ
như trái phiếu của BIDV, Xi măng Hoàng Thạch, Công ty Cơ Điện lạnh REE,
Petrolimex…
Cho tới năm 2007, mới chỉ có 10 doanh nghiệp phát hành trái phiếu như
Vinashin, Vinaconex, EVN, Petro Việt Nam, Lilama, Tổng công ty thép Việt
Nam Tất cả các công ty này đều là những đơn vị đầu ngành hoặc các doanh
nghiệp nhà nước đã cổ phần hóa. Thực tế, nhu cầu của họ là nguồn vốn lớn, dài
hạn và ổn định để phát hành trái phiếu cho phép doanh nghiệp huy động được
lượng vốn lớn. Nếu doanh nghiệp có nhu cầu trên 1.000 tỷ đồng thì họ có thể tiếp
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 12
Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam trong giai đoạn hiện nay K20-TCDN-Đ1-Nhóm 2
cận nguồn vốn từ phát hành TP dễ dàng hơn so với việc đi vay hay phát hành cổ
phiếu.
Số liệu của VBMA cho thấy, trái phiếu DN đã có xu hướng chuyển dịch cơ
cấu tỷ lệ phát hành lớn từ khu vực DN nhà nước sang khu vực các công ty cổ phần,
công ty TNHH…Năm 2009 thị trường trái phiếu doanh nghiệp tăng mạnh cả về giá
trị và quy năm 2010 tăng 49% so với năm 2009 và đạt quy mô trên 50.000 tỷ đồng.
Về công ty phát hành, nếu như những năm trước, các nhà phát hành chủ yếu là các
doanh nghiệp nhà nước lớn thì những năm gần đây nhà phát hành đã là các công ty
cổ phần như STB, SHB, Liên Việt Bank, HBB, SSI, VinCom, T&T Hà Nội Cụ
thể : Năm 2010, khi kinh tế bắt đầu hồi phục, để tài trợ cho các dự án và tăng quy
mô vốn hoạt động trong bối cảnh hệ thống NH không có đủ vốn trung - dài hạn để
đáp ứng, nhiều DN có phương án phát hành trái phiếu và đã thành công.
Tập đoàn Sông Đà là DN phát hành TPDN bằng tiền VND đầu tiên trên thị trường
vốn nợ VN trong năm 2010, với tổng giá trị 1.500 tỷ đồng(tương đương 79 triệu
USD); Tập đoàn Điện lực Việt Nam phát hành 2.000 tỷ đồngtrái phiếu; TCty cổ
phần XNK và Xây dựng VN (VCG) phát hành 2.000 tỉ đồng; CTCP Long Hậu

(LHG) phát hành 200 tỷ đồng trái phiếu (mệnh giá 1 tỷ đồng) để huy động vốn cho
dự án khu dân cư Long Hậu; CTCP Vincom (VIC) phát hành 1.000 tỷ đồngtrái
phiếu DN, với kỳ hạn trái phiếu là 5 năm
Cùng với phát hành trái phiếu chính phủ khá thành công (khoảng 60 nghìn
tỷ đồng), tình hình phát hành TPDN 6 tháng đầu năm 2010 cho thấy thị trường trái
phiếu ở VN đã khởi sắc, niềm tin NĐT vào DN tăng lên. Các DN có thêm nguồn
vốn trung - dài hạn với lãi suất ổn định và cơ cấu NĐT đa dạng hơn. NH giảm một
phần sức ép cung cấp vốn trung và dài hạn
Năm 2010, khi kinh tế bắt đầu hồi phục, để tài trợ cho các dự án và tăng quy
mô vốn hoạt động trong bối cảnh hệ thống NH không có đủ vốn trung - dài hạn để
đáp ứng, nhiều DN có phương án phát hành trái phiếu và đã thành công.
Tập đoàn Sông Đà là DN phát hành TPDN bằng tiền VND đầu tiên trên thị
trường vốn nợ VN trong năm 2010, với tổng giá trị 1.500 tỷ đồng(tương đương 79
triệu USD); Tập đoàn Điện lực Việt Nam phát hành 2.000 tỷ đồng trái phiếu; TCty
cổ phần XNK và Xây dựng VN (VCG) phát hành 2.000 tỉ đồng; CTCP Long Hậu
(LHG) phát hành 200 tỷ đồng trái phiếu (mệnh giá 1 tỉ đồng) để huy động vốn cho
dự án khu dân cư Long Hậu; CTCP Vincom (VIC) phát hành 1.000 tỷ đồngtrái
phiếu DN, với kỳ hạn trái phiếu là 5 năm
Nhằm tạo hành lang pháp lý cho thị trường trái phiếu, trong năm 2011,
Chính phủ đã ban hành Nghị định 01/2011/NĐ-CP ngày 5/1/2011 về “Phát hành
trái phiếu chính phủ, trái phiếu được chính phủ bảo lãnh, trái phiếu chính quyền
địa phương”. Qua đó, hoạt động phát hành trái phiếu trong năm 2011 đã có sự tăng
trưởng khá ấn tượng so với các năm trước. Có khá nhiều doanh nghiệp công bố
phát hành trái phiếu thành công trong tháng 5/2011 đã thu hút sự quan tâm của
nhiều giới doanh nghiệp như : Công ty CP Chứng khoán TP.Hồ Chí Minh (HCM)
huy động được 50 tỷ đồng (mệnh giá 1 tỷ đồng/trái phiếu) cho một tổ chức nước
ngoài, Công ty CP Chứng khoán Sacombank (SBS) huy động được 185 tỷ đồng
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 13
Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam trong giai đoạn hiện nay K20-TCDN-Đ1-Nhóm 2
sau khi chào bán thành công 185.000 trái phiếu chuyển đổi mệnh giá 1 triệu

đồng/trái phiếu, Công ty CP Tasco (HUT) công bố bán được 175.005 trái phiếu
trong đợt chào bán 250.000 trái phiếu chuyển đổi năm 2011, huy động được 140 tỷ
đồng, và toàn bộ số tiền thu được sẽ dùng đầu tư vào những dự án tại khu đô thị
mới Xuân Phương, khu đô thị Vân Canh… Mới đây nhất, Công ty CP Hoàng Anh
Gia Lai (HAG) dự kiến niêm yết 90 triệu USD trái phiếu vừa chào bán thành công
trước đó vài ngày cho đối tác nước ngoài lên Sở GDCK Singapore. Tổng số tiền
huy động sẽ dùng đầu tư vào lĩnh vực thủy điện, cao su, còn lại bổ sung vốn lưu
động…
Tuy nhiên, giá trị giao dịch trái phiếu trong năm 2011 lại giảm so với 2010.
Năm 2010 tổng giá trị giao dịch đạt trên 81.000 tỷ đồng, bình quân mỗi phiên giao
dịch đạt 340 tỷ đồng; tương tự năm 2011 chỉ đạt trên 73.000 tỷ đồng, bình quân
280 tỷ đồng/phiên. Thị trường TPDN cũng bị sụt giảm mạnh, ước tính trong năm
2011 chỉ có khoảng 27 đợt phát hành TPDN với tổng khối lượng vốn huy động
khoảng 7.000 tỷ đồng, bằng 12,5% so với năm 2010; xuất hiện nhiều đợt phát hành
TPDN riêng lẻ với thông tin hạn chế. Nguyên nhân do tác động từ khủng hoảng nợ
công châu Âu, suy thoái kinh tế Mỹ, lạm phát cao ở nhiều nước châu Á, cùng với
một lượng lớn trái phiếu chính phủ đã đến hạn (hơn 50.000 tỷ đồng), bội chi ngân
sách… gây áp lực lên nguồn cung trái phiếu chính phủ ở thị trường sơ cấp; lạm
phát cao và chính sách tiền tệ thắt chặt đã hạn chế sự tham gia của các nhà đầu tư.
Bên cạnh đó, đã có nhiều “biến tướng” trong phát hành TPDN làm giảm tính minh
bạch của thị trường; nhiều trường hợp ngân hàng mua TPDN song thực chất lại là
cho DN vay để tránh “né” quy định về trần tăng trưởng tín dụng khiến cho số liệu
tăng trưởng tín dụng trong năm không phản ánh đúng thực tế.
Thực tế, giá trị trái phiếu DN đã phát hành ở Việt Nam vẫn còn rất nhỏ so
với GDP (chỉ chiếm khoảng 17% GDP )và còn rất thấp so với các nước trong khu
vực. Chẳng hạn Thái Lan là 58%, Malaysia 82%, Singapore 74% và Trung Quốc là
53%. Trong khi đó, nhu cầu vốn đầu tư cho nền kinh tế Việt Nam để đáp ứng tốc
độ tăng trưởng theo mục tiêu đề ra những năm tới cần duy trì ít nhất tương đương
khoảng 40% GDP. Xét cả về nhu cầu vốn và xu hướng phát triển, trái phiếu có rất
nhiều tiềm năng để phát triển.

2.2.2. Phân tích thị trường trái phiếu Việt Nam
a. Trái phiếu chính phủ và tín phiếu kho bạc:
Có gần 400 loại tín phiếu kho bạc và trái phiếu chính phủ khác nhau hiện
đang được mua bán trên trung tâm giao dịch chứng khoán. Lượng trái phiếu chính
phủ phát hành hàng năm tăng mạnh qua các năm, góp phần bù đắp thâm hụt ngân
sách và tài trợ cho các dự án phúc lợi và đầu tư phát triển của chính phủ.
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 14
Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam trong giai đoạn hiện nay K20-TCDN-Đ1-Nhóm 2
Đvt: tỷ đồng
Kỳ hạn
(năm)
Năm
2005
Năm
2006
Năm
2007
Năm
2008
Năm
2009
Năm
2010
Năm
2011
3 tháng
đầu
năm
2012
2

- - - 2.275 - 4.930 8.014,2 7.445
3
- - 850 2.160 - 8.655 30.117,1 10.220
5
2.270 7.655 15.330 1.393 25,5 13.376 22.678,5 10.530
10
- 160 775 117 350 2.100 1.344 1.050
15
20 900 431 - - - -
Tổng cộng
2.290 7.815 17.855 6.376 375.5 29.061 62.153,8 29.245
(Nguồn: www.bond.hnx.vn)
Bảng 1. Khối lượng trái phiếu chính phủ trúng thầu qua các năm
Qua số liệu trên ta thấy lượng trái phiếu chính phủ được phát hành thành
công tăng mạnh qua các năm, từ 2.290 tỷ đồng năm 2005 tăng lên 62.154 tỷ đồng
năm 2011 đáp ứng được nhu cầu chi tiêu ngày càng tăng cho đầu tư và phát triển
của đất nước. Trong đó, chủ yếu là trái phiếu có kỳ hạn từ 2 đến 5 năm – chiếm
95% trên tổng số 155.171 tỷ đồng trái phiếu được phát hành trong giai đoạn từ
2005 đến nay, còn lại 5% thuộc về trái phiếu có kỳ hạn 10 năm và 15 năm.
Năm Gọi thầu (tỷ đồng) Trúng thầu (tỷ đồng) Tỷ lệ trúng thầu (%)
Năm 2005 4.600 2.290 50%
Năm 2006 9.300 7.815 84%
Năm 2007 22.970 17.855 78%
Năm 2008 11.500 6.376 55%
Năm 2009 17.900 375.5 2%
Năm 2010 78.500 29.061 37%
Năm Gọi thầu (tỷ đồng) Trúng thầu (tỷ đồng) Tỷ lệ trúng thầu (%)
Năm 2011 135.500 62.153,8 46%
Quý I/2012 39.000 29.245 75%
Tổng cộng 319.270 155.171,3 49%

Bảng 2. Tỷ lệ trái phiếu CP trúng thầu qua các năm (Nguồn: www.bond.hnx.vn)
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 15
Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam trong giai đoạn hiện nay K20-TCDN-Đ1-Nhóm 2
Tuy lượng trái phếu chính phủ phát hành tăng mạnh nhưng khối lượng trúng
thầu còn thấp so với khối lượng đấu thầu. Tỷ lệ trúng thầu trung bình giai đoạn
2005 đến nay là 49%. Trong đó, năm chính phủ phát hành trái phiếu có tỷ lệ thành
công cao nhất là 2006 với 84% (gọi thầu 9.300 tỷ và trúng thầu 7.815 tỷ đồng). Tỷ
lệ đấu thầu thành công trái phiếu chính phủ còn thấp và không ổn định qua các
năm cho thấy trái phiếu chính phủ chưa thật sự hấp dẫn với các nhà đầu tư.
Hình 1. Tỷ lệ trúng thầu trái phiếu chính phủ qua các năm
Bên cạnh việc phát hành trái phiếu trong nước, Chính phủ Việt Nam còn tiến
hành phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế. Năm 2005 là năm đầu tiên Chính
phủ Việt Nam phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế và đã rất thành công. Năm
2005, Chính phủ Việt Nam phát hành trái phiếu tại New York đã thành công rất
mỹ mãn khi các nhà đầu tư quốc tế đặt mua với số tiền lên tới 4,5 tỷ USD, cao gấp
6 lần trị giá chào là 750 triệu USD với lãi suất 7,125%/năm. Đến năm 2007, Việt
Nam phát hành 1 tỷ USD trái phiếu Chính phủ ra thị trường quốc tế với kỳ hạn mở
rộng 10-30 năm cũng rất thành công. Số tiền thu được dành cho Tập đoàn Dầu khí
Việt Nam, Tổng công ty Hàng hải Việt Nam, Tổng công ty Sông Đà và Tổng công
ty Lắp máy Việt Nam vay lại để thực hiện đầu tư các dự án Nhà máy lọc dầu Dung
Quất, Dự án mua tàu vận tải, Dự án Thủy điện Xê Ca Mản 3 và Nhà máy thủy điện
Hủa Na. Là một nền kinh tế mới phát triển nên VN có mức tăng trưởng kinh tế
mạnh, luôn ở mức trên dưới 10%. Mức tăng trưởng này lớn gấp nhiều lần so với
nhiều cường quốc kinh tế. Bên cạnh đó mức lãi suất khá hấp dẫn ở con số trên dưới
7% khiến trái phiếu quốc tế do VN phát hành luôn là mối quan tâm đầu tư của
nhiều tổ chức quốc tế.
Trái phiếu quốc tế do Việt Nam phát hành luôn thành công rất rực rỡ song
TPCP bằng ngoại tệ phát hành trong những đợt gần đây, đặc biệt trong năm 2009
đều không thu được kết quả như mong muốn. Đợt phát hành thứ nhất vào tháng
3/2009, 3 lần đấu thầu chỉ huy động được 230,11 triệu USD trong tổng số 300 triệu

USD giá trị trái phiếu được đưa ra đấu thầu. Đợt 2 vào tháng 8/2009, trái phiếu
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 16
Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam trong giai đoạn hiện nay K20-TCDN-Đ1-Nhóm 2
ngoại tệ kỳ hạn dài số lượng bỏ thầu rất ít. Trong đợt 2 vừa qua, cả 3 phiên chỉ huy
động được 100 triệu USD/100 triệu USD trái phiếu chào bán kỳ hạn 1 năm; 47
triệu USD/100 triệu USD trái phiếu kỳ hạn 2 năm; và 10 triệu USD/50 triệu USD
trái phiếu kỳ hạn 3 năm. Đợt phát hành thứ 3, và đợt thứ 4 gần đây vào ngày
29/12/2009, kết quả chỉ huy động được 73 triệu USD trong tổng số 200 triệu USD
giá trị trái phiếu gọi thầu, đạt 36,5%.
Trái phiếu quốc tế phát hành khá thành công qua các năm, tuy nhiên vấn đề
sử dụng hợp lý và có hiệu quả nguồn vốn này lại là mối quan tâm của công chúng
khi mà năm 2005, số tiền phát hành 750 triệu USD giao cho Vinashin, trong khi
tập đoàn này làm ăn thua lổ và chính phủ lại sử dụng 300 triệu USD tiền phát hành
trái phiếu năm 2010 để trả nợ cho tập đoàn này.
Năm Gọi thầu (triệu USD) Trúng thầu (Triệu USD) Tỷ lệ trúng thầu (%)
Năm 2005 750 750 100%
Năm 2009 750 460 61%
Năm 2010 1,000 1,000 100%
Tổng cộng 2,500 2,210 88%
Hình 3. Số liệu trái phiếu chính phủ phát hành ra thị trường vốn quốc tế
Rõ ràng, phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường quốc tế là một kênh tốt
để huy động vốn nhưng chính phủ cần cân nhắc để đưa ra phương án phát hành
hợp lý và đặc biệt là có biện pháp đảm bảo sử dụng vốn hiệu quả để mang lại kết
quả tốt nhất cho kinh tế nước nhà.
b. Trái phiếu chính quyền địa phương:
Hiện nay mới chỉ có Hà Nội. thành phố Hồ Chí Minh và Đồng Nai phát
hành trái phiếu chính quyền địa phương (trái phiếu đô thị) để huy động vốn. Số trái
phiếu này được phát hành thông qua các kênh đấu giá, bảo lãnh và đại lý phát
hành. Tuy nhiên, tính thanh khoản của loại trái phiếu này rất thấp.
Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương đầu tiên ở Việt Nam được thực hiện

phát hành trái phiếu chính quyền địa phương, là trái phiếu đô thị TP.HCM. Phát
hành trái phiếu đô thị là một trong những kênh huy động vốn hiệu quả của Thành
phố Hồ Chí Minh trong các năm qua nhằm cân đối nguồn vốn cho nhu cầu đầu tư
phát triển hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội của thành phố. Năm 2003 - 2007,
thành phố đã huy động được 10.000 tỷ đồng trái phiếu đáp ứng nhu cầu phát triển
của Thành phố.
Riêng năm 2009 là năm đầu tiên thành phố phát hành trái phiếu đô thị cho
các công trình có nguồn thu. Cụ thể là cho dự án Khu đô thị mới Thủ Thiêm với kế
hoạch phát hành là 14.000 tỷ đồng. Tính đến cuối tháng 11/2009, khối lượng trái
phiếu phát hành là 1.540 tỷ đồng, đạt 38.5% so với kế hoạch, với loại kỳ hạn 3
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 17
Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam trong giai đoạn hiện nay K20-TCDN-Đ1-Nhóm 2
năm theo phương thức bảo lãnh. Khối lượng trái phiếu còn lại theo kế hoạch sẽ
được tiếp tục triển khai phát hành vào thời điểm thích hợp trong năm 2010.
Việc phát hành thành công trái phiếu đô thị TP.HCM không những mở ra
một kênh huy động vốn mới, có những ưu điểm là có thể có thời hạn dài và ổn
định, mức chi phí vốn hợp lý, góp phần đáng kể trong việc huy động vốn cho đầu
tư phát triển hạ tầng đô thị, đồng thời khắc phục một số hạn chế trong việc huy
động tín dụng từ các ngân hàng của chính quyền địa phương mà còn có ý nghĩa
lớn về mặt thực hiện chủ trương thí điểm phát hành trái phiếu của chính quyền địa
phương theo cơ chế "tự vay, tự trả" ở nước ta, mở ra triển vọng nâng cao tính tự
chủ trong quản lý ngân sách đầu tư của chính quyền địa phương.
c. Trái phiếu doanh nghiệp:
Dường như các DN Việt Nam khi nào “bí” tiền thì mới nghĩ đến phát hành
trái phiếu. Điều này làm trái phiếu của DN không có tên trên bản đồ tài chính và
không có chỉ số tham chiếu. Sự thiếu hụt này còn cản trở lớn đối với việc phát triển
thị trường trái phiếu doanh nghiệp.
Nhìn vào cơ cấu vốn, dễ dàng nhận thấy các doanh nghiệp Việt Nam đang
dựa vào hai nguồn chính là tín dụng ngân hàng và phát hành cổ phiếu. Dường như
các doanh nghiệp mới chỉ quan tâm đến thị trường trái phiếu trong vài năm gần

đây. Như vậy, rõ ràng trái phiếu đang là kênh huy động vốn tiềm năng của doanh
nghiệp Việt Nam.
Thị trường trái phiếu doanh nghiệp ảm đạm và trầm lắng trong suốt hơn nửa
đầu năm 2011. Trên thị trường không có đợt phát hành nào thành công ngoại trừ
một số giao dịch thu xếp dưới hình thức bảo lãnh phát hành hay thỏa thuận tín
dụng. Trong khi đó, tổng khối lượng trái phiếu doanh nghiệp đã phát hành thành
công năm 2010 xấp xỉ 60.000 tỉ đồng; trong đó khoảng 25.000 tỷ đồng của các
doanh nghiệp, còn lại của các tổ chức tín dụng. Trong bối cảnh lãi suất ngân hàng
và lạm phát cao của năm 201, việc tiếp cận vốn qua kênh tín dụng bị hạn chế, thì
nhu cầu huy động vốn qua trái phiếu của các doanh nghiệp vẫn rất cao. Tuy nhiên
chỉ các doanh nghiệp lớn, có tình hình tài chính tốt và chấp nhận trả giá vốn cao
mới có thể tận dụng được cơ hội này. Theo giám đốc khối nguồn vốn một ngân
hàng cổ phần, thị trường vẫn đang có các doanh nghiệp có kế hoạch huy động vốn
bằng trái phiếu song họ đang cân nhắc về thời điểm, trong đó có một số tổng công
ty nhà nước. Trong khi nhóm doanh nghiệp bất động sản nhỏ và vừa có nhu cầu rất
lớn thì đã không thể phát hành được trái phiếu.
Hiện vẫn có những nhà đầu tư có nhu cầu mua trái phiếu như động thái
chuẩn bị nguồn hàng cho 1-2 năm tới. Song nhiều dự đoán khi cơ quan quản lý đưa
việc mua trái phiếu doanh nghiệp vào giới hạn cấp tín dụng của ngân hàng thì thị
trường sẽ khó xoay xở hơn. Dư nợ đầu tư trái phiếu theo Ngân hàng Nhà nước dự
kiến sẽ tính vào giới hạn tăng trưởng tín dụng (dưới 20%, khống chế tỷ lệ dư nợ
cho vay các ngành phi sản suất) đã và sẽ là yếu tố hạn chế lớn đến khả năng đầu tư
trái phiếu trên thị trường.
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 18
Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam trong giai đoạn hiện nay K20-TCDN-Đ1-Nhóm 2
Hầu hết các trái phiếu doanh nghiệp được phát hành đều có kỳ hạn dài. ngắn
nhất là 2 năm, dài nhất là 10 năm. Trái phiếu EVN hầu hết đều có kỳ hạn 10 năm.
đầu tư vào các công trình thuỷ điện. cải tạo mạng lưới điện quốc gia. Trái phiếu
Vinaconex và Lilama phát hành thường có kỳ hạn 5 năm. Để khuyến khích các nhà
đầu tư. Vinanconex phát hành trái phiếu kèm theo chứng quyền (warrant) là quyền

mua cổ phiếu của Nhà máy xi măng Cẩm Phả với mức giá ưu đãi. Trong một thị
trường tài chính phát triển. trái phiếu thường có thời hạn từ trên 20 năm cho đến 30
năm.
Lãi suất trái phiếu doanh nghiệp đều là trả lãi sau, với phương thức trả lãi
hàng năm (coupon), lãi suất cố định. Riêng Tổng công ty Sông Đà và EVN phát
hành trái phiếu có lãi suất thả nổi, được điều chỉnh căn cứ vào lãi suất Trái phiếu
Chính Phủ hoặc lãi suất trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Về cơ bản. lãi suất
trái phiếu doanh nghiệp đều cao hơn lãi suất đấu thấu trái phiếu chính phủ.
So sánh với lãi vay ngân hàng, có thể thấy lãi suất này vẫn thấp hơn so với
lãi suất vay ngân hàng ( trung bình 10%-12%/năm đối với dự án vay trung dài
hạn).
Ngoài lãi vay, các doanh nghiệp phát hành còn phải trả một khoản phí hay
hoa hồng cho các dịch vụ tư vấn bảo lãnh phát hành và bảo hành thanh toán, gọi là
chi phí phát hành. Chi phí này có thể tăng lên rất cao, phụ thuộc vào khả năng trả
nợ của doanh nghiệp phát hành, nó có thể làm tăng lãi suất thực lên tới 12% hay
13% hàng năm. Khả năng trả nợ càng thấp, chi phí phát hành càng cao. Đây cũng
là một trong những rào cản chính đối với việc phát hành trái phiếu của các doanh
nghiệp nhỏ và vừa ở Việt nam hiện nay.
So sánh với lãi suất trái phiếu chính phủ cùng kỳ hạn, có thể thấy, lãi suất
trái phiếu của các doanh nghiệp phát hành có xu hướng biến động cùng chiều.
Khoảng chênh lệch giữa lãi suất trái phiếu chính phủ và lãi suất doanh nghiệp
khoảng 2.5% đến 3%, phản ánh mức chênh lệch rủi ro của hai trái phiếu này. Trên
thực tế, còn tùy thuộc vào từng thời điểm phát hành và kỳ hạn của từng loại trái
phiếu, mà mức chênh lệch này có thực sự phán ánh rủi ro của hai loại trái phiếu
này hay không. Ví dụ, năm 200, khi Vinashin phát hành trái phiếu. kỳ hạn 5 năm.
lúc đó. lãi suất trái phiếu Chính phủ cùng kỳ hạn là 8.5%, nhưng lãi suất trái phiếu
của Vinashin “không được phép” cao hơn lãi suất trái phiếu Chính phủ
(8.4%/năm). Để tăng tính hấp dẫn của trái phiếu, Vinashin đã thay đổi hình thức
trả lãi thành trả lãi trước, dẫn đến lãi suất thực của trái phiếu xấp xỉ 8.9%.
Bên cạnh huy động vốn từ phát hành trái phiếu trong nước, các doanh

nghiệp lớn còn lên kế hoạch phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế. Hiện nay,
doanh nghiệp có hai hình thức phát hành trái phiếu quốc tế là được chính phủ bảo
lãnh và tự doanh nghiệp đi phát hành. Có một số đơn vị đã thành công trong việc
phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế như Vietcombank, ACB, HAGL,
Vincom,
Trái phiếu chính phủ chiếm khoảng 13% GDP. Trái phiếu doanh nghiệp có
quy mô khiêm tốn, chỉ hơn 3% GDP và chiếm tỷ trọng khoảng 20% tổng quy mô
thị trường. So với các nước trong khu vực. quy mô thị trường trái phiếu doanh
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 19
Phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam trong giai đoạn hiện nay K20-TCDN-Đ1-Nhóm 2
nghiệp Việt Nam còn có quá nhỏ hay còn nhiều tiềm năng. Chẳng hạn, Thái Lan
quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp lên tới gần 50 tỷ USD vào năm 2010,
chiếm khoảng 20% GDP.
Xét về tình hình phát triển, thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam đã
có sự tăng trưởng đáng kể về quy mô và thị phần từ năm 2006 và hiện tại (ước
tính giữa năm 2011) lên tới khoảng 3.5 tỷ USD.
Hình 2: Quy mô thị trường trái phiếu giai đoạn 2005-2010 ( tỷ USD)
Số liệu của Bộ Tài chính cho thấy. nhìn từ góc độ cấu trúc. hiện tại. trái
phiếu của VDB chiếm 33%. trái phiếu chính quyền địa phương chiếm 4%. trái
phiếu doanh nghiệp chỉ 10% và 53% thuộc về trái phiếu Chính phủ.
Trong khi trái phiếu doanh nghiệp được coi là kênh huy động vốn có rất
nhiều thuận lợi so với phát hành cổ phiếu. vay ngân hàng thì chỉ chiếm tỷ trọng
10%. rất nhỏ so với trái phiếu chính phủ (90%) thì ở các nước khác. tỷ trọng này
lại cân đối hơn rất nhiều so với Việt Nam.
2.3. Nguyên nhân kém phát triển của thị trường trái phiếu Việt Nam :
Những biến động mạnh của thị trường trái phiếu năm 2011 đã phản ánh
những bất ổn của nền kinh tế vĩ mô. Tiếp tục xu thế tăng của nửa cuối năm 2010.
bước sang năm 2011 lợi suất trái phiếu Chính Phủ đã ồ ạt tăng mạnh ở tất cả các
kỳ hạn. Lợi suất đạt đỉnh vào thời điểm đầu tháng 6. khi đó lợi suất kỳ hạn 1 năm.
3 năm và 10 năm tương ứng là 13.532%. 13.234% và 12.385%. Sau khi đạt đỉnh.

lợi suất TPCP giảm dần. tuy vậy kết thúc năm vẫn đứng ở mức cao. hơn thế nữa xu
thế tăng có dấu hiệu quay trở lại. Nhìn chung. diễn biến lợi suất TPCP của cả năm
2011 là: "tăng mạnh đầu năm – lập đỉnh và giảm từ giữa năm – tăng nhẹ trở lại vào
cuối năm”. Kết thúc năm 2011. tình hình vẫn chưa có thay đổi khi lợi suất ngắn
hạn vẫn cao hơn dài hạn. Đây là chỉ báo rõ ràng chứng tỏ thị trường vẫn chưa quay
GVHD: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dờn Trang 20

×