Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

TIỂU LUẬN MÔN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH THỊ TRƯỜNG MỞ VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.99 KB, 29 trang )

1Thị Trường Mở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 5-TCDN Đêm 1-K20
TIỂU LUẬN MÔN
THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
ĐỀ TÀI : THỊ TRƯỜNG MỞ VIỆT NAM
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
MỤC LỤC
PHẦN I : LỜI MỞ ĐẦU 3
PHẦN II : NỘI DUNG 4
A- CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ 4
1. Sự ra đời và phát triển của Nghiệp vụ thị trường mở 4
2. Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở 5
B - THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA NGÂN HÀNG
NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA 10
1. Doanh số giao dịch nghiệp vụ thị trường mở 10
2. Tần suất và phương thức giao dịch trên thị trường mở 12
Tổng số 13
Tổng số 13
3. Kết quả đạt được của hoạt động nghiệp vụ thị trường mở 15
4. Những hạn chế và nguyên nhân 19
Thứ nhất, tác động của OMO đến thị trường tiền tệ còn hạn chế 19
C – MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ CỦA
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM 23
1.Về cơ sở pháp lý 23
2.Tăng cường hơn nữa mối quan hệ chặt chẽ của nghiệp vụ thị trường mở với các
công cụ khác của chính sách tiền tệ nhằm đạt mục tiêu chính sách tiền tệ của
1
2Thị Trường Mở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 5-TCDN Đêm 1-K20
Chính phủ. Trong đó xác định rõ mục tiêu của nghiệp vụ thị trường mở là công cụ
điều tiết linh hoạt vốn khả dụng của cả toàn hệ thống tài chính tín dụng. 23
3.Đa dạng hóa và tăng tính hấp dẫn của các hàng hóa giao dịch trên thị trường mở.
24


4.Hoàn thiện công tác dự báo hiệu quả hoạt động nghiệp vụ thị trường mở 24
5.Rà soát lại lỗ hổng, nâng cấp và hoàn thiện hơn nữa cũng như nghiên cứu áp
dụng công nghệ mới cho hạ tầng hệ thống thông tin của thị trường mở 25
6.Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến thông tin rộng rãi về nghiệp vụ thị
trường mở cũng như các ưu điểm của thị trường để thu hút thêm các tổ chức tín
dụng tham gia thị trường 25
7.Nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ chuyên môn nghiệp vụ để điều hành thị
trường 26
8.Đảm bảo công tác tổng kết, đánh giá tình hình hoạt động của các thành viên tham
gia thị trường mở theo định kỳ và thường xuyên 26
9.Tham khảo thêm: giới thiệu các ý kiến được các thành viên tham gia thị trường
mở đã đề xuất với Ngân hàng nhà nước trong Hội nghị triển khai nghiệp vụ thị
trường mở do Sở giao dịch – Ngân hàng nhà nước Việt Nam tổ chức năm 2009 27
2
3Thị Trường Mở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 5-TCDN Đêm 1-K20
PHẦN I : LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đã chuyển sang thời kỳ đổi mới kinh tế từ nền kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp sang nên kinh tế thị trường được hơn 10 năm. trong việc góp phần đạt được
các mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế xã hội của đất nước, chính sách tiền tệ của
Ngân hàng nhà nước Việt Nam có vai trò quan trọng trong việc điều tiết lượng tiền cung
ứng, kìm chế lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền. Sự đổi mới kinh tế đòi hỏi phải nhanh
chóng tiếp cận những lý luận và thực tiễn quản lý kinh tế của các nước tiên tiến trên thế
giới. Hiện nay với nền kinh tế thị trường đang phát triển thì công cụ thị trường mở được
coi là một công cụ linh hoạt và hiệu quả nhất trong việc đièu hành chính sách tiền tệ .
Nghiệp vụ thị trường mở có thể điều tiết các mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ :
nó là nhân tố đầu tiên có thể làm thay đổi lãi suất hoặc cơ sở tiền tệ. Nguồn gốc chính
làm thay đổi việc cung ứng tiền của ngân hàng trung ương thông qua viêc mua bán các
giấy tờ có giá trên thị trường mở (hành động làm tăng cơ số tiền tệ ) và vì thế làm tăng
cung ứng tiền, giảm lãi suất ngắn hạn. Ngược lại , việc bán giấy tờ có giá trên thị trường
mở làm giảm cơ số tiền tệ , giảm cung ứng tiền và làm tăng lãi suất ngắn hạn.

Tuy nhiên, bên cạnh đó việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia còn nhiều bất
cập, hạn chế, chưa tỏ ra nhạy bén và các chính sách của Ngân hàng nhà nước chưa linh
thoạt. Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế ngày càng sôi động thì việc điều hành chính
sách tiền tệ từ các công cụ trực tiếp chuyển sang các công cụ gián tiếp trong đó có việc áp
dụng nghiệp vụ thị trường mở ngày càng trở nên cấp bách. Điều này là phù hợp với quá
trình cải cách hệ thống Ngân hàng, với việc hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ
trong giai đoạn mới. Nghiệp vụ thị trường mở cho tới nay mới được thực hiện ở Việt
Nam do các điều kiện khách quan và chủ quan vừa chín muồi. Vì vậy đề tài “ Thị
Trường Mở Việt Nam – Thực Trạng Và Giải Pháp Phát Triển Trong Giai Đoạn
Hiện Nay” là một đề tài hết sức cần thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn để góp phần nâng
cao hiệu qủa chính sách tiền tệ.
3
4Thị Trường Mở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 5-TCDN Đêm 1-K20
PHẦN II : NỘI DUNG
A- CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ
1. Sự ra đời và phát triển của Nghiệp vụ thị trường mở.
Nghiệp vụ thị trường mở được áp dụng đầu tiên bởi Ngân hàng Anh từ những
năm 30 của thế kỷ 19. Vào thời gian này, lãi suất tái chiết khấu của Ngân hàng Anh được
sử dụng như một công cụ chủ yếu để kiểm soát lượng tiền cung ứng. Tuy nhiên, công cụ
này tỏ ra kém hiệu lực khi lãi suất thị trường tiền tệ giảm liên tục vượt khỏi sự chi phối
của lãi suất tái chiết khấu. Điều này thúc đẩy Ngân hàng Anh tìm kiếm công cụ có hiệu
quả hơn để điều chỉnh lãi suất thị trường theo hướng mong muốn.Cách thức đầu tiên
được áp dụng để nhằm làm tăng lãi suất thị trường là:
- Bán chứng khoán chính phủ đồng thời hứa mua lại nó vào một ngày xác
định trong tương lai.
- Vay trên thị trường _ thực chất là một khoản vay từ người chiết khấu hoặc
từ người môi giới với đảm bảo bằng chứng khoán chính phủ.
- Bán hẳn các chứng khoán chính phủ.
- Vay từ các Ngân hàng thương mại.
- Vay từ người gửi tiền đặc biệt.

Bằng các cách này, lượng tiền trung ương giảm đi tương ứng với khối lượng vay
hoặc bán chứng khoán, lãi suất thị trường vì thế tăng lên.
Cùng thời gian này, Ngân hàng Trung Ương (NHTW ) Thuỵ Sỹ cũng sử dụng
nghiệp vụ bán các chứng khoán chính phủ nhằm thu hút lượng vốn khả dụng dư thừa.
Vào năm 1913, lúc đầu Ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ cũng sử dụng Nghiệp vụ thị
trường mở như một công cụ bổ xung cho chính sách tái chiết khấu. Tuy nhiên, trong và
sau Chiến tranh thế giới thứ nhất Nghiệp vụ thị trường mở ở những nước này được sử
dụng như công cụ để tài trợ cho các chi phí chiến tranh và các hoạt động điều chỉnh kinh
tế sau chiến tranh. Cùng với các hoạt động này, lượng chứng khoán chính phủ nằm trong
tay các NHTW tăng lên. Đến năm 1920, Nghiệp vụ thị trường mở ở những nước này
cũng vẫn chỉ được sử dụng như công cụ bổ trợ cho chính sách lãi suất tái chiết khấu và
làm cho lãi suất tái chiết khấu trở nên hiệu quả. Nhưng sau đó, hiệu quả và tầm quan
trọng của Nghiệp vụ thị trường mở ngày càng tăng lên, nó được sử dụng như công cụ
4
5Thị Trường Mở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 5-TCDN Đêm 1-K20
chính sách tiền tệ ở ba nước ban đầu này và sau đó trở thành xu hướng ở hầu hết NHTW
các nước khác. Điều này suất phát từ: hạn chế chính sách tái chiết khấu; sự mở rộng và
hoàn thiện của hệ thống thị trường tái chính; sự tăng lên của lượng chứng khoán chính
phủ và các chứng khoán có tính thanh khoản cao. Cho đến nay Nghiệp vụ thị trường mở
được sử dụng như một công cụ Chính sách tiền tệ hiệu quả nhất ở hầu hết các NHTW của
các nước.
2. Khái niệm nghiệp vụ thị trường mở.
a. Quốc Tế:
Theo nghĩa gốc thì cụm từ “Nghiệp vụ thị trường mở” chỉ các hoạt động giao dịch
chứng khoán của các NHTW trên thị trường mở. Thông qua hành vi mua , bán chứng
khoán này, NHTW có thể tác động trực tiếp đến dự trữ của hệ thống Ngân hàng và gián
tiếp đến lãi suất thị trường, từ đó mà có thể ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng thông
qua tác động cả về mặt lượng và về mặt giá. Về lý thuyết, các chứng khoán là đối tượng
giao dịch của NHTW, có thể là chứng khoán chính phủ, các chứng khoán được phát hành
bởi các doanh nghiệp hoặc Ngân hàng gồm cả chứng khoán ngắn hạn và dài hạn. Các chủ

thể trong giao dịch Nghiệp vụ thị trường mở có thể là Ngân hàng, các doanh nghiệp hoặc
các tổ chức phi tài chính khác. Về mặt thực tế, Nghiệp vụ thị trường mở là hành vi giao
dịch của NHTW trên thị trường mở. Xét về hình thức thì thị trường mở là thị trường giao
dịch các chứng khoán nợ ngắn và dài hạn. Tuy nhiên, khác với các khái niệm có phạm vi
và công cụ giao dịch rõ ràng như thị trường chứng khoán hay thị trường tiền tệ,thị trường
mở ở các nước khác nhau về phạm vi, về loại hình công cụ và thời hạn của các công cụ
giao dịch trên thị trường.
Chẳng hạn, thị trường mở của Nhật Bản chỉ bao gồm các chứng khoán nợ ngắn
hạn và những người tham gia chỉ gồm các tổ chức tín dụng. Như vậy, ở Nhật thị trường
mở là một bộ phận của thị trường tiền tệ. Ngược lại ở Mỹ hoặc Đức cho phép giao dịch
cả các chứng khoán dài hạn trên thị trường mở . Xét theo thời hạn của chứng khoán nợ
thì thị trường mở ở những nước này bao gồm cả một phần của thị trường chứng khoán.
Theo cách này, khái niệm “ Nghiệp vụ thị trường mở” có ý nghĩa kinh tế khi nó gắn với
cụm từ “Nghiệp vụ thị trường mở”. Có nghĩa là, các giới hạn khác nhau về đối tượng và
các chủ thể giao dịch của NHTW trong nghiệp vụ thị trường mở sẽ quyết định khái niệm
cụ thể về thị trường mở ở từng nước.
5
6Thị Trường Mở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 5-TCDN Đêm 1-K20
b. Việt Nam
Tại Việt Nam, khái niệm Thị trường mở có thể được hiểu như sau:
 Thị trường mở là thị trường giao dịch mua bán ngắn hạn các Chứng từ có giá
giữa Ngân hàng Trung ương với các Ngân hàng thương mại và các Tổ chức tín dụng
khác, thông qua đó điều chỉnh khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế nhằm thực hiện
mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Thị trường mở là van cung ứng tiền cho 2 chiều: Là kênh phát hành tiền (bơm
tiền cho nền kinh tế) đồng thời là kênh thu hồi tiền từ nền kinh tế (hút tiền từ lưu thông
về). Nhờ vậy, thị trường mở được coi là thị trường năng động và rất nhạy cảm để điều tiết
lưu thông tiền tệ của nền kinh tế.
Là một một bộ phận của thị trường tiền tệ.
Là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán ngắn hạn các chứng từ có giá

giữa Ngân hàng trung ương với các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác.
 Bên cạnh đó, theo Quy chế Nghiệp vu thi trường mở được ban hành theo
Quyết định 01/2007/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng nhà nước VN ngày
05.01.2007 có các nội dung chủ yếu sau:
Nghiệp vụ thị trường mở là việc Ngân hàng Nhà nước thực hiện mua, bán ngắn
hạn các loại giấy tờ có giá của các tổ chức tín dụng thông qua hình thức đấu thầu.
Nghiệp vụ thị trường mở là công cụ của Ngân hàng trung ương để điều hành
chính sách tiền tệ theo hai trường hợp sau:
- Trường hợp 1 : Khi nền kinh tế có lạm phát cao và gia tăng, Ngân hàng
trung ương cần phải giảm khối tiền cung ứng: Ngân hàng trung ương sẽ
bán chứng từ có giá.
- Trường hợp 2 : Khi nền kinh tế có dấu hiệu suy thoái, tăng trưởng chậm,
Ngân hàng trung ương cần gia tăng khối tiền cung ứng: Ngân hàng trung
ương sẽ mua chứng từ có giá.
 Các chủ thể tham gia thị trường mở:
Ngân hàng trung ương: thực hiện hai vai trò chính:
6
7Thị Trường Mở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 5-TCDN Đêm 1-K20
- Người tổ chức và điều hành hoạt động của thị trường mở với các hoạt động
và nhiệm vụ như sau: Ban hành quy chế hoạt động của thị trường mở; Kết nạp và cấp mã
số cho các thành viên đủ điều kiện; Tổ chức các phiên giao dịch của thị trường mở.
- Tham gia mua, bán chứng từ có giá với các chủ thể khác của thị trường để
điều tiết thị trường tiền tệ.
Đối tác của Ngân hàng trung ương:
- Là những tổ chức đáp ứng các điều kiện được phép giao dịch mua bán chứng
từ có giá trên thị trường mở.
- Đối tác của Ngân hàng trung ương tham gia trên thị trường mở vừa phục vụ
nhu cầu kinh doanh vừa tìm kiếm lợi nhuận.
- Các đối tác gồm các tổ chức tín dụng thành lập và hoạt động theo Luật các tổ
chức tín dụng có đủ các điều kiện sau:

 Có tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước (Sở Giao dịch Ngân
hàng Nhà nước hoặc Ngân hàng Nhà nước chi nhánh tỉnh, thành phố);
 Có đủ phương tiện cần thiết để tham gia nghiệp vụ thị trường mở gồm
máy FAX, máy tính có nối mạng internet;
 Có giấy đăng ký tham gia nghiệp vụ thị trường mở;
Ngân hàng Nhà nước cấp giấy công nhận là thành viên tham gia thị trường mở
cho các tổ chức tín dụng đáp ứng đủ các điều kiện.
- Các thành viên là đối tác của Ngân hàng trung ương gồm:
Các Ngân hàng thương mại: Ngân hàng thương mại nhà nước; Ngân hàng cổ
phần; Ngân hàng liên doanh; Chi nhánh và ngân hàng 100% vốn nước ngoài.
Các tổ chức tín dụng khác: Công ty tài chính; Công ty cho thuê tài chính;
Quỹ tín dụng Trung ương.
Ngoài ra còn có các thành viên khác nhưng ở Việt Nam hiện nay, các thành
viên này không còn được tham gia Thị trường mở nữa như: Công ty chứng khoán, quỹ
đầu tư, công ty bảo hiểm.
 Các loại giấy tờ có giá sử dụng trong giao dịch nghiệp vụ thị trường mở :
Ngân hàng Nhà nước quy định các loại giấy tờ có giá được sử dụng trong các giao
dịch nghiệp vụ thị trường mở gồm:
7
8Thị Trường Mở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 5-TCDN Đêm 1-K20
(1) Tín phiếu Ngân hàng Nhà nước.
(2) Trái phiếu Chính phủ, bao gồm: Tín phiếu Kho bạc; Trái phiếu Kho bạc; Trái
phiếu công trình Trung ương; Công trái xây dựng Tổ quốc; Trái phiếu Chính phủ do
Ngân hàng Phát triển Việt Nam (trước đây là Quỹ Hỗ trợ phát triển) được Thủ tướng
Chính phủ chỉ định phát hành.
(3) Trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, bao gồm: Trái phiếu do Ngân hàng Phát
triển Việt Nam và Ngân hàng Chính sách xã hội phát hành được Chính phủ bảo lãnh
thanh toán 100% giá trị gốc, lãi khi đến hạn.
(4) Trái phiếu Chính quyền địa phương do Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và
Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh phát hành.

(5) Riêng đối với giao dịch mua có kỳ hạn. Ngân hàng Nhà nước chỉ giao dịch đối
với: Công trái xây dựng Tổ quốc; Trái phiếu do Ngân hàng Phát triển Việt Nam và Ngân
hàng Chính sách xã hội phát hành được Chính phủ bảo lãnh thanh toán 100% giá trị gốc,
lãi khi đến hạn; Trái phiếu Chính quyền địa phương do Ủy ban nhân dân thành phố Hà
Nội và Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh phát hành.
 Điều kiện các giấy tờ có giá được giao dịch trong thị trường mở:
- Có thể mua, bán được và nằm trong danh mục các loại giấy tờ có giá được giao
dịch qua nghiệp vụ thị trường mở ;
- Được phát hành bằng đồng Việt Nam;
- Được lưu ký tại Ngân hàng Nhà nước trước khi đăng ký bán (bao gồm giấy tờ có
giá do tổ chức tín dụng lưu ký trực tiếp tại Ngân hàng Nhà nước và lưu ký tại tài khoản
của Ngân hàng Nhà nước mở tại Trung tâm giao dịch chứng khoán);
- Giấy tờ có giá được mua hẳn có thời hạn tối đa là 91 ngày.
Danh mục các loại giấy tờ có giá, tỷ lệ chênh lệch giữa giá trị giấy tờ có giá tại thời
điểm định giá và giá thanh toán, tỷ lệ giao dịch của các loại giấy tờ có giá qua nghiệp vụ
thị trường mở do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước qui định trong từng thời kỳ.
 Các phương thức mua hoặc bán giấy tờ có giá trong nghiệp vụ thị trường
mở: Gồm giao dịch mua có kỳ hạn; giao dịch bán có kỳ hạn; giao dịch mua hẳn; giao
dịch bán hẳn.
8
9Thị Trường Mở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 5-TCDN Đêm 1-K20
Giao dịch không hoàn lại (mua bán hẳn)
Giao dịch không hoàn lại (mua bán hẳn) là các giao dịch mua bán GTCG của
NHTW theo phương thức mua đứt, bán đoạn trên cơ sở giá thị trường. Theo phương thức
này, quyền sở hữu của GTCG là đối tượng giao dịch được chuyển sang cho NHTW hoặc
ngược lại cho các thành viên tham gia giao dịch. Do vậy tác động của giao dịch này đối
với dự trữ ngân hàng thường là dài hạn.
Giao dịch có hoàn lại (mua bán có kỳ hạn)
Phương thức giao dịch này thường được sử dụng cho mục đích giao dịch tạm thời
thông qua các hợp đồng mua lại (Repos) hoặc hợp đồng mua lại đảo ngược. Repos được

sử dụng khi NHTW thực hiện mua GTCG với thoả thuận là sau một thời gian ngắn trong
tương lai người bán sẽ mua lại các GTCG đó. Repos đảo ngược được sử dụng khi NHTW
thực hiện bán GTCG với thoả thuận người mua sẽ bán lại vào một ngày xác định trong
tương lai. Thông thường, Repos và Repos đảo ngược được sử dụng trong một khoảng
thời gian ngắn với mục đích điều tiết vốn khả dụng của các NHTM một cách linh hoạt.
Giao dịch theo hợp đồng Repos thực chất là một khoản cho vay của NHTW có bảo đảm
bằng các GTCG có tính thị trường cao.
Các giao dịch mua bán có kỳ hạn được sử dụng chủ yếu trong OMO do các lý do:
- Đây là công cụ có hiệu quả nhất để bù đắp hoặc triệt tiêu những ảnh hưởng
không dự tính trước đến dự trữ ngân hàng.
- Chi phí giao dịch thấp hơn các giao dịch mua bán hẳn
- Thích hợp trong trường hợp các định hướng của CSTT không hoàn hảo dẫn
đến phải sử dụng các giải pháp khắc phục.
- Làm giảm bớt thời gian thông báo, do đó mà giảm bớt biến động của thị
trường trước các quyết định hàng ngày của NHTW.
 Phương thức đấu thầu giấy tờ có giá trong nghiệp vụ thị trường mở:
Nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện thông qua phương thức đấu thầu khối
lượng hoặc đấu thầu lãi suất. Tại mỗi phiên đấu thầu, Ngân hàng Nhà nước chỉ áp dụng
một phương thức đấu thầu khối lượng hoặc đấu thầu lãi suất.
Đấu thầu khối lượng: Là việc xét thầu trên cơ sở khối lượng dự thầu của các tổ
chức tín dụng, khối lượng giấy tờ có giá Ngân hàng Nhà nước cần mua hoặc bán và lãi
suất do Ngân hàng Nhà nước thông báo.
9
10Thị Trường Mở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 5-TCDN Đêm 1-K20
Đấu thầu lãi suất: Là việc xét thầu trên cơ sở lãi suất dự thầu, khối lượng dự thầu
của các tổ chức tín dụng và khối lượng giấy tờ có giá Ngân hàng Nhà nước cần mua hoặc
bán.
B - THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG
MỞ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM TRONG THỜI
GIAN QUA

Bắt đầu từ ngày 12/7/2000, Ngân hàng nhà nước (NHNN) tiến hành đưa công cụ
nghiệp vụ thị trường mở (OMO) vào hoạt động. Đây là một bước tiến mới trong điều
hành CSTT của NHNN theo hướng từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang các công cụ
gián tiếp, để phù hợp với thông lệ quốc tế và sự phát triển của đất nước. Nó đã mở ra một
kênh cung ứng và điều tiết vốn khả dụng của các TCTD cho NHNN và tạo điều kiện cho
các TCTD sử dụng linh hoạt các loại GTCG của mình. Công cụ OMO liên tục được
NHNN cải tiến trong những năm qua và dần trở thành một công cụ CSTT chủ yếu của
NHNN.
1. Doanh số giao dịch nghiệp vụ thị trường mở
Ngay từ khi triển khai, NHNN đã xác định OMO sẽ là một công cụ chủ yếu trong
điều hành CSTT của NHNN. Để đạt được mục đích đó, NHNN đã tập trung thực hiện
việc điều hoà lưu thông tiền tệ thông qua công cụ này. Doanh số trúng thầu OMO tăng
mạnh qua các năm, trung bình từ năm 2000 đến 2007, tốc độ này tăng 1,9573 lần/năm,
qua đó tăng khả năng điều tiết của công cụ này đến vốn khả dụng của TCTD cũng như
các điều kiện tiền tệ. Riêng trong năm 2008, 2010 trong giai đoạn từ năm 2008 đến 6
tháng đầu năm 2011, tổng doanh số mua bán trên thị trường này đạt tốc độ tăng trên
200%.
Bảng 1. Doanh số giao dịch nghiệp vụ thị trường mở qua các năm
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Số
phiên
Doanh số
mua
Doanh số
bán
Tổng cộng
% so
với năm
trước

Doanh số
bình quân/
phiên
2008 402 947.205,900 88.859 1.036.064 260,01% 2.577
10
11Thị Trường Mở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 5-TCDN Đêm 1-K20
Năm
Số
phiên
Doanh số
mua
Doanh số
bán
Tổng cộng
% so
với năm
trước
Doanh số
bình quân/
phiên
2009 329 966.880,460 100,162 966.980 - 2.939
2010 491 2.101.420,401 7.294,919 2.108.715 211,5% 3.240
6 tháng đầu
năm 2011
241 2.300.062 0 2.300.062 9.544
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Trong 6 tháng đầu năm 2011, NHNN đã thực hiện 241 phiên giao dịch mua có kỳ
hạn. Để đảm bảo khả năng thanh khoản cho các tổ chức tín dụng nên NHNN chỉ chào các
phiên giao dịch mua có kỳ hạn và chủ yếu là kỳ hạn ngắn, chỉ có 7 ngày và tất cả các
phiên đều là phiên đấu thầu khối lượng.

Các chủ thể tham gia thị trường trong 6 tháng đầu năm 2011 cũng tăng mạnh, gần
như các chủ thể đăng ký tham gia thị trường, nếu có đủ điều kiện đều được giao dịch và
đáp ứng nhu cầu vốn kịp thời. Các chủ thể tham gia gồm: 05 NHTMNN, 32 NHTMCP,
01 NH liên doanh, 07 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 04 công ty tài chính.
Doanh số giao dịch trên nghiệp vụ thị trường mở liên tục tăng, năm sau hơn năm
trước theo cả hai chiều mua và bán. Năm 2008, tổng doanh số trúng thầu là 2.108.715 tỷ
đồng. Trong các hình thức giao dịch thị trường mở thì hình thức NHNN mua các GTCG
– “bơm” tiền ra là chủ yếu, có thời điểm là gần 100% trong tổng doanh số trúng thầu như
6 tháng đầu năm 2009 và năm 2010. Khối lượng giao dịch trong từng phiên cũng ngày
càng tăng từ bình quân 2.577 tỷ đồng/ phiên năm 2008 lên 3.240 tỷ đồng/ phiên năm
2010 và 9.544 tỷ đồng/ phiên năm 2011. Trong năm 2008, trước những biến động bất
thường của thị trường, nhằm đáp ứng khả năng thanh toán cho các tổ chức tín dụng,
doanh số giao dịch có phiên là 10.000 tỷ đồng – 15.000 tỷ đồng, sang năm 2010, gần đến
thời điểm cuối năm, có phiên có doanh số giao dịch là 20.000 tỷ đồng. Những tháng đầu
năm 2011, có phiên giao dịch lên đến 25.000 tỷ đồng.
Riêng trong năm 2008, trong bối cảnh những phức tạp chưa từng có của kinh tế
toàn cầu, kinh tế Việt Nam cũng gặp phải nhiều ảnh hưởng nghiêm trọng từ kinh tế thế
giới với hàng loạt vấn đề nóng như lạm phát, nhập siêu,… Trong tình hình đó, tình trạng
khan hiếm vốn trên thị trường đã xảy ra. Từ Quý I đến Quý III năm 2008, nhu cầu về vốn
11
12Thị Trường Mở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 5-TCDN Đêm 1-K20
của các tổ chức tín dụng là xu hướng chính trên thị trường mở với 100% lượng tiền dự
kiến đưa ra thị trường trong các phiên giao dịch thị trường mở đều được các tổ chức tín
dụng đấu thầu sử dụng hết. NHNN đã tăng số lượng phiên giao dịch so với năm 2007 với
tổng doanh số giao dịch năm 2008 là 1.036.066 tỷ đồng, tăng 618.083 tỷ đồng, tương
đương 148% so với năm 2007 (417.983 tỷ đồng). Trong đó, giao dịch mua có kỳ hạn tăng
886.072 tỷ đồng, gấp 15 lần so với mức 61.133 tỷ đồng năm 2007, trong khi giao dịch
bán hẳn chỉ còn 76.837 tỷ đồng, giảm gần 4,6 lần so với mức 356.850 tỷ đồng năm 2007.
Như vậy, khi các tổ chức tín dụng thiếu hụt nghiêm trọng vốn khả dụng thì thị
trường mở thực sự là “phao” hỗ trợ cho các tổ chức tín dụng này, đảm bảo khả năng

thanh toán cho các tổ chức tín dụng trong trường hợp thị trường có những biến động đột
xuất. Điều này đã góp phần ổn định thị trường tiền tệ, đáp ứng yêu cầu điều tiết vốn khả
dụng của các thành viên tham gia thị trường mở.
Thông qua hoạt động OMO, NHNN không chỉ mua GTCG để bơm thêm vốn khả
dụng khi thị trường thiếu hụt vốn khả dụng mà còn bán GTCG để hút tiền nhàn rỗi khi thị
trường dư thừa vốn nhằm thực hiện mục tiêu CSTT.
2. Tần suất và phương thức giao dịch trên thị trường mở
2.1. Tần suất giao dịch
Để tăng cường khả năng tác động của công cụ này, NHNN đã tăng tần suất giao
dịch thị trường mở. Trong thời gian đầu khi mới triển khai, các phiên OMO được tổ chức
với tần suất 10 ngày/phiên. Ngày giao dịch OMO được tính theo ngày làm việc. Từ phiên
thứ 14 vào ngày 29/11/2000, OMO được thực hiện với tần suất 1 tuần/phiên vào ngày thứ
Tư hàng tuần. Điều này đã giúp cho các TCTD chủ động điều chỉnh kịp thời, linh hoạt
vốn khả dụng của mình. Từ năm 2001, Ban điều hành OMO đã tăng định kỳ tổ chức các
phiên giao dịch OMO 2 phiên/1 tuần vào ngày thứ 3 và thứ 5 hàng tuần. Ngoài ra để đáp
ứng kịp thời vốn khả dụng cho TCTD, NHNN đã tổ chức các phiên đấu thầu đột xuất
theo ngày, cá biệt 2 phiên/ngày trong thời gian giáp Tết Nguyên đán. Việc tổ chức các
phiên đột xuất đã hỗ trợ kịp thời cho các TCTD khắc phục khó khăn về thiếu hụt vốn khả
dụng, đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả và đảm bảo ổn định thị trường tiền tệ. Bắt đầu
từ tháng 11/2004, giao dịch OMO đã được thực hiện định kỳ 3 phiên/tuần, vào ngày thứ
2, 4 và 6, góp phần điều tiết kịp thời vốn khả dụng của TCTD. Trong năm 2005, NHNN
đã tổ chức được 158 phiên thị trường mở, tăng 28,5%so với năm 2004. Mặc dù hiện nay
12
13Thị Trường Mở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 5-TCDN Đêm 1-K20
đã giao dịch với tần suất 3 phiên/tuần nhưng nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu
giao dịch vốn của các ngân hàng. Vì thế năm 2006 và 2007 được nâng lên là 5 phiên /
tuần .
Bảng 2. Số lượng các phiên giao dịch OMO
Năm
Số

phiên
Số phiên mua Số phiên bán
Tần suất giao
dịch
Mua
hẳn
Mua có
kỳ hạn
Bán hẳn
Bán có kỳ
hạn
2000 17 4 10 3 0 10 ngày/phiên
2001 48 3 39 5 1 1 tuần/phiên
2002 85 1 58 26 0 1 tuần/2 phiên
2003 107 0 52 55 0 1 tuần/2 phiên
2004 123 0 109 0 14 1 tuần/3 phiên
2005 158 0 150 6 2 1 tuần/3 phiên
2006 155 148 7 1 tuần/5 phiên
2007 165 153 7 5 1 tuần/5 phiên
Tổng số 858 8 719 109 22
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
NHNN chủ yếu thực hiện các giao dịch nhằm cung ứng vốn khả dụng cho TCTD,
chiếm tới 79,2% tổng số phiên OMO. Các phiên giao dịch nhằm hấp thụ vốn dư thừa của
hệ thống ngân hàng được tổ chức rất ít, điều này xuất phát từ thực tế của hệ thống ngân
hàng là thường xuyên thiếu hụt vốn để đáp ứng nhu cầu tín dụng và thanh toán của nền
kinh tế. Trong giai đoạn từ năm 2000 - 2007, NHNN chỉ tổ chức 22 phiên bán GTCG
trong tổng số 281 phiên OMO.
2.2. Phương thức đấu thầu, xét thầu
Bảng 3. Phương thức đấu thầu, xét thầu trên thị trường mở
Năm

Tổng
số
Phương thức đấu thầu Phương thức xét thầu
Lãi suất Khối lượng Riêng lẻ Thống nhất
2000 17 13 4 14 3
2001 48 14 34 12 36
2002 85 68 17 67 18
2003 107 88 19 86 21
2004 123 123 0 83 40
2005 158 158 0 84 74
2006 155 155 0 62 45
2007 165 154 15 78 78
Tổng số 858 773 89 486 315
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
13
14Thị Trường Mở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 5-TCDN Đêm 1-K20
Về phương thức giao dịch trên thị trường mở, NHNN chủ yếu sử dụng phương thức
đấu thầu lãi suất và phương thức xét thầu riêng lẻ. Phương thức đấu thầu lãi suất đã được
NHNN sử dụng trong 86,2% số phiên giao dịch trong các năm từ năm 2000 đến 2007 và
tới 100% số phiên trong 2 năm 2006, 2007. Điều này xuất phát từ lý do NHNN đang điều
hành CSTT theo khối lượng tiền tăng thêm nên nhu cầu giao dịch GTCG của NHNN
thường được xác định trước. Ngoài ra, NHNN cũng sử dụng phương thức xét thầu riêng
lẻ trong 65,3% số phiên giao dịch. Trong nửa cuối năm 2005, NHNN hầu như chỉ áp
dụng phương thức xét thầu thống nhất trong các phiên OMO. Hoạt động thị trường mở
trong năm 2006 và 2007 được tiến hành duy trì một cách đều đặn.
Xét riêng về mặt lãi suất trong nghiệp vụ thị trường mở, nhìn chung, lãi suất OMO
khá bám sát các lãi suất khác của NHNN công bố như lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn
và lãi suất chiết khấu. Lãi suất trúng thầu thường nằm giữa mức lãi suất tái cấp vốn và lãi
suất chiết khấu. Lãi suất trúng thầu, trong các phiên đấu thầu lãi suất, thể hiện khá chính
xác và phù hợp với diễn biến thị trường.

Trước khi thực hiện các phiên đấu thầu khối lượng, Ban điều hành OMO công bố
lãi suất để các thành viên đặt thầu mua bán GTCG. Lãi suất công bố này là lãi suất trúng
thầu trong các phiên. Vì vậy, lãi suất trúng thầu trong các phiên đấu thầu khối lượng
thường chỉ có một lãi suất nhất định. Tuy nhiên, do lãi suất trúng thầu đã được NHNN
xác định nên các thành viên không có sự lựa chọn về lãi suất khi giao dịch với NHNN và
lãi suất này chưa phản ánh được nhu cầu về vốn của các thành viên trên thị trường. Đây
là một nhược điểm của phương thức đấu thầu khối lượng trong giao dịch thị trường mở.
Vì thế, trong các năm từ 2004 đến 2007, NHNN đã hạn chế áp dụng phương thức đấu
thầu khối lượng trong các phiên OMO, năm 2004 đến 2006 là không áp dụng.
* Tuy nhiên, từ năm 2008, do thiếu vốn, các tổ chức tín dụng đã tham gia thị trường
mở với mức lãi suất đặt thầu rất cao. Điều này thể hiện sự thiếu hụt vốn của các tổ chức
tín dụng và sự khó khăn trong việc huy động vốn trên thị trường. Cá biệt, trong một số
phiên giao dịch Mua kỳ hạn với thời hạn lãi suất là 07 ngày, lãi suất đăng ký đã lên tới
khoảng 40%/năm và lãi suất trúng thầu khoảng 30%/năm. Trước tình hình đó, từ giữa
tháng 2/2008, NHNN đã áp dụng đấu thầu khối lượng, lãi suất thống nhất cho tất cả các
kỳ hạn giao dịch. Nhờ đó, tình hình lãi suất trên thị trường dần ổn định. Mức lãi suất
thống nhất được sử dụng trong tuần đầu tiên là 15% nhằm tạo định hướng thị trường.
14
15Thị Trường Mở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 5-TCDN Đêm 1-K20
Trong các tuần tiếp theo, lãi suất thông báo được giảm xuống các mức 14%, 13%, 10%
và 9%, phù hợp với lãi suất cơ bản của NHNN.
Từ đó, tình hình lãi suất trên thị trường cũng có nhiều biến động: năm 2009, mua có
kỳ hạn 7 ngày lãi suất bình quân là 7,23%/năm, 14 ngày là 7,51%/năm; năm 2010, đã
tăng tương ứng là 8,35%/năm và 7,69%/năm. Trong tháng 01/2011, lãi suất mua có kỳ
hạn 7 ngày đã tăng lên 10%/năm; từ ngày 22/2 tăng lên 12%; ngày 01/04 là 13%; ngày
4/5, đã được đẩy lên mức 14%/năm. Không dừng ở đó, ngày 17/5, NHNN đã nâng lãi
suất trên thị trường mở lên 15%. Đây là lần thứ 8, NHH điều chỉnh mức lãi suất trên thị
trường mở kể từ tháng 01/2010. Từ ngày 04/07/2011, lãi suất trên nghiệp vụ thị trường
mở đã giảm nhẹ xuống 14%/năm. Điều này cho thấy năm 2008 và 2011, nền kinh tế có
lạm phát cao, NHNN thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt dẫn đến tình hình thanh khoản

của các NHTM khó khăn, đặc biệt là các NHTM cổ phần quy mô nhỏ. Trước diễn biến
đó, NHNN sử dụng linh hoạt thị trường mở, kết hợp với cho vay tái cấp vốn để hỗ trợ
thanh khoản cho các NHTM có khó khăn về thanh khoản.
Như vậy, tất cả những sự điều chỉnh trên đều cho thấy quyết tâm kiềm chế lạm phát
mà hiện nay đang được Chính phủ ưu tiên hàng đầu.
3. Kết quả đạt được của hoạt động nghiệp vụ thị trường mở
Thứ nhất, nếu tính riêng trong 6 tháng đầu năm 2011, và trong giai đoạn 2008-
2011, NHNN đã điều hành chủ động, linh hoạt, hiệu quả công cụ nghiệp vụ thị trường
mở. Cùng với các công cụ chính sách tiền tệ khác, bước đầu đã góp phần kiềm chế lạm
phát và thực hiện có hiệu quả các mục tiêu khác của chính sách tiền tệ. Lượng tiền cung
ứng và rút về của thị trường mở có sự phối hợp chặt chẽ với các công cụ khác của chính
sách tiền tệ nhằm phát tín hiệu điều hành và đạt được mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Thứ hai, các cơ chế và quy trình OMO đã được không ngừng cải tiến và hoàn
thiện
Dưới sự chỉ đạo của Ban điều hành OMO, các Vụ Cục chức năng của NHNN đã
kịp thời sửa đổi, bổ sung cơ chế, quy chế, quy trình kỹ thuật có liên quan. Về cơ bản, các
vướng mắc về cơ chế, quy trình và hạ tầng kỹ thuật đã được từng bước xử lý, khắc phục.
Công tác tổ chức, điều hành hoạt động OMO của NHNN được thực hiện bài bản, bảo
đảm an toàn tuyệt đối trong các phiên giao dịch.
15
16Thị Trường Mở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 5-TCDN Đêm 1-K20
Các GTCG được sử dụng trong OMO đã được mở rộng theo tinh thần Luật sửa đổi
bổ sung một số điều của Luật NHNN năm 2003. Đến nay các GTCG được giao dịch
không chỉ gồm tín phiếu kho bạc, tín phiếu NHNN mà còn cả các loại trái phiếu dài hạn
do ngân sách trung ương thanh toán.
Quy trình thanh toán từng bước được rút ngắn. Từ thanh toán sau 2 ngày kể từ ngày
đấu thầu (T+2) năm 2000, thanh toán sau ngày đấu thầu 1 ngày (T+1) năm 2001 và từ
năm 2002 đến nay việc thanh toán được thực hiện ngay trong ngày đấu thầu (T+0). Hệ
thống thanh toán điện tử liên ngân hàng của NHNN đưa vào vận hành từ tháng 5/2003 đã
tạo điều kiện cho các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng và OMO được thanh, quyết

toán tức thời, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của các TCTD.
Tần suất giao dịch cũng được từng bước tăng cường từ 10 ngày/phiên trong thời
gian bắt đầu hoạt động lên 1 tuần/phiên trong năm 2001, 2 phiên/tuần năm 2002. Từ
tháng 11/2004 hoạt động OMO đã thực hiện định kỳ 3 phiên/tuần, góp phần điều tiết kịp
thời vốn khả dụng của TCTD. Trong những dịp giáp Tết, NHNN đã thực hiện giao dịch
hàng ngày và tổ chức thêm các phiên giao dịch đột xuất (cá biệt 2 phiên/ngày), giúp các
TCTD đáp ứng kịp thời vốn đảm bảo khả năng thanh toán, đảm bảo ổn định thị trường
tiền tệ và an toàn hệ thống.
Thủ tục đấu thầu ngày càng được cải tiến. Nhất là từ ngày 15/12/2004, NHNN đã
bắt đầu áp dụng công nghệ trang Web trong giao dịch OMO, cho phép thành viên kết nối
trực tuyến với NHNN, không phải đầu tư máy chủ, tiết kiệm chi phí đầu tư khi tham gia
nghiệp vụ này. Điều này đã tạo điều kiện thu hút thêm thành viên tham gia thị trường,
qua đó nâng cao vai trò điều tiết của công cụ này. Từ năm 2006 và 2007 áp dụng là 5
phiên / tuần.
Thứ ba, OMO được kết hợp chặt chẽ và đồng bộ với các công cụ khác nhằm
phát tín hiệu điều hành CSTT và thực hiện mục tiêu CSTT.
Từ tháng 7/2000 đến năm 2002, việc NHNN mua bán GTCG thông qua OMO đã
góp phần điều tiết linh hoạt vốn khả dụng của các TCTD theo mục tiêu CSTT trong từng
thời kỳ. Nhất là trong thời điểm các TCTD gặp khó khăn về vốn khả dụng, OMO đã được
kết hợp sử dụng đồng bộ với các công cụ CSTT khác như nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ,
nghiệp vụ cho vay cầm cố để hỗ trợ kịp thời cho các TCTD đảm bảo khả năng thanh
toán, góp phần duy trì ổn định tiền tệ và thực hiện mục tiêu CSTT.
16
17Thị Trường Mở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 5-TCDN Đêm 1-K20
Tỷ trọng doanh số mua qua OMO trong tổng doanh số hỗ trợ vốn của NHNN qua
các kênh (TCV, OMO và Swap) ngày càng tăng qua các năm, từ khoảng 45% năm 2001
lên 75% năm 2003 và khoảng 82% từ năm 2004 đến nay. Điều này cho thấy vai trò điều
tiết vốn khả dụng của OMO ngày càng đóng vị trí quan trọng.
Trong năm 2003, do NHNN tăng cường mua ngoại tệ từ các TCTD nên vốn khả
dụng của các TCTD tăng lên. Để điều hoà vốn khả dụng VND của hệ thống ngân hàng,

NHNN đã thực hiện chào bán tín phiếu NHNN thông qua OMO. Từ tháng 4-7/2003,
trước xu hướng các TCTD liên tục tăng lãi suất huy động VND trong khi vốn khả dụng
vẫn dư thừa khá lớn, bên cạnh việc điều chỉnh giảm lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết
khấu, giảm tỷ lệ DTBB, NHNN đã liên tục chào mua GTCG trong các phiên giao dịch
OMO với lãi suất thấp nhằm phát tín hiệu sẵn sàng cung ứng vốn khả dụng với chi phí
thấp, các TCTD cần theo dõi và chủ động cân đối vốn hợp lý. Trong năm 2004 và 2005,
chỉ số giá tiêu dùng CPI liên tục tăng trong khi đó, mục tiêu tăng trưởng kinh tế vẫn được
Chính phủ và NHNN hết sức quan tâm thực hiện. NHNN liên tục chào mua GTCG để
cung ứng vốn ra nền kinh tế nhằm góp phần hạ nhiệt lãi suất thị trường. Chính vì vậy mà
doanh số giao dịch OMO tăng đột biết trong 2 năm 2004-2005. Và đặc biệt trong 2 năm
2006 và 2007 bên cạnh việc tăng trưởng kinh tế hơn 8%/ năm và 2 năm này cũng được
coi là 2 năm phát triển nhất của ngành tài chính – ngân hàng tại Việt Nam .
Nhìn chung, việc điều hành OMO đã được kết hợp tương đối đồng bộ với các công
cụ CSTT khác nhằm thực hiện mục tiêu CSTT. Lãi suất OMO đã kết hợp khá chặt chẽ
với lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu để định hướng lãi suất thị trường. Sự thay đổi
tới 5 lần lãi suất nghiệp vụ thị trường mở trong 6 tháng đầu năm 2011 đã thể hiện sự cố
gắng bám sát lãi suất thị trường và vận động cùng chiều, phối hợp chặt chẽ giữa lãi suất
cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất thị trường mở, lãi suất liên ngân hàng, lãi suất chiết
khấu là cơ sở để các chủ thể trong nền kinh tế đưa ra quyết định đầu tư, sản xuất kinh
doanh phù hợp. Có thể nói, sự thay đổi lãi suất nghiệp vụ thị trường mở làm tăng khả
năng điều tiết lãi suất thị trường của NHNN Việt Nam.
Thứ tư, OMO là kênh để NHNN có được nguồn thông tin về tình hình nguồn
vốn của các TCTD và về tình hình thị trường tiền tệ nói chung, làm cơ sở cho việc
điều hành CSTT.
17
18Thị Trường Mở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 5-TCDN Đêm 1-K20
Trong điều kiện thông tin về thị trường tiền tệ còn chưa thu thập được đầy đủ và
kịp thời, kết quả hoạt động OMO có thể coi là kênh thông tin hữu hiệu phản ánh một
phần tình hình thị trường tiền tệ phục vụ cho điều hành CSTT. Thông qua việc tổng hợp,
phân tích các thông tin về khối lượng, lãi suất đặt thầu và trúng thầu trong các phiên giao

dịch OMO cũng có thể đưa ra các nhận định về vốn khả dụng của các TCTD, cũng như
xu hướng lãi suất thị trường.
Trong điều kiện NHNN chuyển sang điều hành bằng các công cụ tiền tệ gián tiếp
như hiện nay, việc dự báo trước các diễn biến của thị trường để có quyết định phù hợp và
kịp thời về việc điều chỉnh các công cụ CSTT ngày càng đóng vai trò quan trọng. Bằng
việc theo dõi, dự báo thường xuyên vốn khả dụng của các TCTD, NHNN đã nắm bắt
được các diễn biến về vốn của các TCTD để đưa ra các quyết định điều hành OMO và
điều hành CSTT nói chung.
Thứ năm, hoạt động OMO đã góp phần phát triển thị trường tiền tệ, hỗ trợ
các TCTD sử dụng vốn có hiệu quả.
Thông qua hoạt động OMO, tính thanh khoản của các GTCG do các TCTD nắm
giữ được tăng cường. Điều này góp phần thúc đẩy hoạt động của thị trường sơ cấp, giúp
cho các TCTD yên tâm hơn khi đầu tư vào các trái phiếu dài hạn của Chính phủ, khuyến
khích các hoạt động mua bán lại trái phiếu chính phủ.
Nhiều TCTD không chỉ coi việc đầu tư vào trái phiếu chính phủ là hình thức đầu tư
an toàn mà còn là hình thức dự trữ thanh khoản có hiệu quả cao. Khi cần thiết để đảm bảo
khả năng thanh toán, các TCTD có thể sử dụng các GTCG trong các giao dịch OMO
cũng như các nghiệp vụ thị trường tiền tệ nói chung, tạo điều kiện cho các TCTD điều
chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng tăng tỷ suất đầu tư, giảm thiểu rủi ro trong hoạt động
kinh doanh.
Qua theo dõi, phân tích các kết quả hoạt động OMO được công bố rộng rãi trên các
phương tiện thông tin, các TCTD có thể tham khảo về diễn biến thị trường để quyết định
việc tham gia các hoạt động thị trường tiền tệ, nắm bắt tín hiệu về định hướng điều hành
CSTT của NHNN để có hướng cân đối nguồn vốn thích hợp.
Thứ sáu, công tác phân tích, dự báo vốn khả dụng của các TCTD làm cơ sở
cho việc quyết định giao dịch OMO ngày càng được tăng cường.
18
19Thị Trường Mở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 5-TCDN Đêm 1-K20
Bộ phận quản lý vốn khả dụng đã cố gắng cải tiến phương pháp dự báo, nâng cao
chất lượng dự báo vốn khả dụng, khắc phục khó khăn trong thu thập thông tin, khai thác

tối đa các nguồn thông tin khác, thường xuyên trao đổi với các TCTD nhất là các
NHTMNN để nắm bắt diễn biến thị trường, qua đó giảm sai số khi dự báo, đáp ứng yêu
cầu ngày càng phát triển của công cụ này.
Bằng việc đưa hệ thống thông tin báo cáo mới của NHNN theo Quyết định số
477/2004/QĐ-NHNN , chỉ thị 03/2008/CT-NHNN vào áp dụng, NHNN đã bước đầu có
điều kiện khai thác một số thông tin về vốn khả dụng qua mạng. Thông tin về vốn khả
dụng của các TCTD đã được phản ánh toàn diện và kịp thời hơn. Các thành viên OMO đã
có sự quan tâm, chú trọng hơn đối với việc theo dõi, phân tích và dự báo luồng vốn, thực
hiện quản lý vốn ngày càng hiệu quả hơn để có thể tăng cường tham gia các nghiệp vụ thị
trường tiền tệ, nhất là nghiệp vụ OMO.
4. Những hạn chế và nguyên nhân
4.1. Những hạn chế
Qua các năm triển khai thực hiện, bên cạnh những kết quả khả quan của hoạt động
OMO thì vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định:
Thứ nhất, tác động của OMO đến thị trường tiền tệ còn hạn chế
- Khả năng hỗ trợ vốn khả dụng chưa đáp ứng được yêu cầu của tất cả các tổ chức
tín dụng tham gia thị trường. Đến 6 tháng đầu năm 2011, đã có 49 thành viên tham gia thị
trường, song tham gia giao dịch chủ yếu thường xuyên vẫn là các tổ chức tín dụng có quy
mô lớn với ưu thế về điều kiện giao dịch. Các tổ chức tín dụng có quy mô nhỏ hoặc chưa
quan tâm hoặc điều kiện tham gia thị trường yếu nên không thường xuyên tham gia thị
trường. Do vậy, khi thiếu vốn khả dụng, tạm thời họ phải vay trên thị trường tiền tệ liên
ngân hàng với lãi suất cao, từ đó góp phần gây xáo trộn trên thị trường tiền tệ.
- Còn nhiều bất cập trong việc điều tiết lãi suất thị nghiệp vụ thị trường mở. Thời
gian qua, NHNN Việt Nam đã điều hành linh hoạt lãi suất nghiệp vụ thị trường mở gắn
với lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu để định hướng lãi suất thị trường, phát tín hiệu
trong điều hành chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, vẫn có thời điểm, NHNN
lúng túng trong việc điều tiết lãi suất trên thị trường mở trong mối quan hệ với các loại lãi
suất khác. Những năm gần đây, và đặc biệt trong 6 tháng đầu năm 2011, NHNN thực
19
20Thị Trường Mở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 5-TCDN Đêm 1-K20

hiện đấu thầu khối lượng với lãi suất công bố, điều này cũng hạn chế phần nào khả năng
cạnh tranh của các tổ chức tín dụng.
Thứ hai, hoạt động thị trường mở còn một số bất cập
- Tốc độ và chất lượng đường truyền kết nối qua mạng giữa NHNN và các thành
viên còn chậm và đôi lúc bị ngắt quãng, nhất là khi nhiều thành viên đồng thời giao dịch
với NHNN;
- Các ngân hàng khi muốn lưu ký GTCG để tham gia các giao dịch với NHNN đều
phải đến trực tiếp Sở Giao dịch NHNN để hoàn thành các thủ tục. NHNN chưa cho phép
đăng ký lưu ký GTCG thông qua trang Web của NHNN để giảm thiểu thủ tục giấy tờ và
việc nhập liệu thủ công của Sở Giao dịch NHNN.
- NHNN không thông báo định hướng phân bổ tỷ trọng mua/bán giữa các loại
GTCG như trái phiếu kho bạc, tín phiếu kho bạc, công trái … trước từng phiên giao dịch.
Nhiều ngân hàng đã bị trượt thầu trong một số phiên do không nắm được định hướng tỷ
lệ phân bổ xét thầu cho từng loại GTCG của NHNN nên đã đặt thầu giao dịch với các
loại GTCG mà NHNN mua/bán với khối lượng thấp mặc dù đã đặt thầu ở mức lãi suất
cạnh tranh.
- NHNN chưa chấp nhận hoàn toàn các chữ ký điện tử trong các giao dịch với
NHNN. Hiện nay mặc dù bản đăng ký mua bán GTCG và hợp đồng, phụ lục hợp đồng
đều được ký duyệt chữ ký điện tử trên mạng, Sở Giao dịch NHNN yêu cầu phải có chữ
ký của lãnh đạo NHTM trên bản in để chuyển tiền, không chấp nhận chữ ký điện tử và
chữ ký cấp phòng của NHTM được uỷ quyền.
- Thời gian để rút được GTCG lưu ký ra khỏi NHNN phải chờ đợi lâu (thường đến
5-7 ngày), do Trung tâm giao dịch chứng khoán TPHCM phải đợi bản gốc văn bản của
NHNN gửi đến mới hoàn tất thủ tục cho khách hàng.
Thứ ba, hoạt động của thị trường mở chưa thực sự sôi động.
Tuy thời gian triển khai không còn ngắn nhưng công cụ OMO vẫn đang còn là một
nghiệp vụ mới đối với một số các TCTD, nhất là các NHTMCP. Việc tham gia thị trường
mở vẫn còn nhiều bỡ ngỡ, hạn chế. Các NHTMCP tham gia không thường xuyên và
không nhiều. Điều này xuất phát từ nguyên nhân các NHTMCP chưa nhận thức được đầy
đủ các ưu điểm của công cụ này. Bên cạnh đó, vấn đề tâm lý khi giao dịch với NHNN

vẫn chưa thể khắc phục trong thời gian ngắn.
20
21Thị Trường Mở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 5-TCDN Đêm 1-K20
Trong các năm qua, số lượng thành viên tham gia thị trường mỗi phiên khác khiêm
tốn: từ năm 2008 – 2009, khoảng 50-60% tổ chức tín dụng được công nhận là thành viên
thị trường mở; năm 2010, các thành viên tham gia tích cực hơn, có phiên số lượng thành
viên tham gia là 40; năm 2011, các thành viên tham gia cao nhất trong một phiên đã lên
tới 44 thành viên.
Thứ tư, kỳ hạn mua bán GTCG ngắn và chưa đa dạng
Hiện nay, NHNN chỉ thực hiện thống nhất một loại kỳ hạn giao dịch trong một
phiên đấu thầu. Điều này đã hạn chế sự lựa chọn về kỳ hạn của các thành viên thị trường,
mặc dù nhu cầu về khối lượng và thời gian của các thành viên là khác nhau. Bên cạnh đó,
NHNN chỉ thực hiện giao dịch theo một chiều nhất định (mua hoặc bán GTCG) trong
một phiên và chủ yếu thực hiện việc mua GTCG nên các TCTD cũng không thể tham gia
nếu không phù hợp với nhu cầu vốn của họ. Điều này đã được chứng minh trong thực tế
khi tại nhiều phiên giao dịch, không có thành viên nào tham gia.
Mặc dù về quy định là kỳ hạn giao dịch đã được đa dạng hoá từ 7 ngày đến 182
ngày nhưng trên thực tế, NHNN thường chỉ giao dịch với các kỳ hạn từ 7-30 ngày, dẫn
đến các khoản thanh toán với NHNN đến hạn dồn dập trong một thời gian ngắn và tăng
gánh nặng thanh toán cho các NHTM.
4.2. Nguyên nhân
Thứ nhất, thị trường tiền tệ ở Việt Nam còn chưa thực sự phát triển, các kênh
truyền dẫn tác động CSTT chưa hoàn thiện làm hạn chế hiệu quả các công cụ CSTT.
Việc thu thập thông tin về tình hình thị trường tiền tệ còn nhiều khó khăn. Đến nay
NHNN vẫn chưa có hệ thống theo dõi kịp thời và đầy đủ các hoạt động trên thị trường
tiền tệ liên ngân hàng. Việc theo dõi, dự báo vốn khả dụng vẫn còn có những khó khăn
nhất định. Nhất là khi tần suất giao dịch bình quân 1-2 phiên/ngày đòi hỏi về nhu cầu vốn
khả dụng của các tổ chức tín dụng, nhu cầu vay vốn, mặt bằng lãi suất đòi hỏi phải được
cập nhật liên tục hàng ngày, hàng giờ tới ban điều hành thị trường.
Trong khi đó, bản thân một số TCTD thành viên cũng gặp khó khăn trong việc nắm

bắt thông tin về tình hình thị trường. Việc đánh giá, phân tích tình hình thị trường thông
qua xem xét phản ứng của một số thành viên đôi khi không chính xác diễn biến thực tế.
Chính vì vậy cho đến nay, NHNN vẫn chưa xây dựng được cơ chế truyền tải của
CSTT và chưa lượng hoá được mức độ tác động của các công cụ CSTT đến M2 và các
21
22Thị Trường Mở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 5-TCDN Đêm 1-K20
chỉ tiêu vĩ mô khác của nền kinh tế. Đây là một trong những nhược điểm lớn trong điều
hành CSTT của NHNN.
Thứ hai, thiếu sự phối hợp nhịp nhàng giữa chính sách tiền tệ và chính sách
tài khóa.
Hiệu quả của chính sách tiền tệ cần dựa trên cơ sở có sự phối hợp đồng bộ với
chính sách tài khóa. Mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, kiểm soát lạm phát góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế phụ thuộc hoàn toàn vào việc xây dựng và điều hành các chính sách
quốc gia. Việc bội chi ngân sách có xu hướng gia tăng qua các năm đã tác động, làm sụt
giảm hiệu quả của chính sách tiền tệ.
Thứ ba, cơ sở hạ tầng cho hoạt động OMO còn bất cập. Sự không đồng bộ trong
ứng dụng công nghệ thông tin giữa NHNN và các thành viên thị trường làm hạn chế số
lượng thành viên tham gia, đặc biệt là các NHTMCP (các chương trình phần mềm ứng
dụng từ năm 2000-2004 còn có sự tách biệt nên khó sử dụng đối với các thành viên ít
giao dịch). Việc nâng cấp hệ thống máy móc thiết bị phục vụ cho các nghiệp vụ thị
trường mở nói riêng và các nghiệp vụ của NHNN nói chung còn chậm làm hạn chế đến
tiến độ triển khai các ứng dụng công nghệ hiện đại vào các giao dịch nghiệp vụ thị trường
tiền tệ trong đó có nghiệp vụ OMO.
Thứ tư, nhiều TCTD vẫn chưa quan tâm và chưa nhận thức đầy đủ tính hiệu
quả của công cụ này. NHNN đã tăng cường công tác thông tin tuyên truyền, tổ chức tập
huấn triển khai hoạt động thị trường mở … nhằm phát triển hoạt động OMO nói riêng
cũng như các hoạt động thị trường tiền tệ nói chung nhưng vẫn chưa được một số TCTD
thực sự quan tâm. Số lượng thành viên thường xuyên tham gia OMO đã tăng nhưng vẫn
còn hạn chế. Điều này không chỉ làm hạn chế sự tác động của OMO đến thị trường mà
còn hạn chế khả năng sử dụng vốn hiệu quả của TCTD.

Thứ tư, hàng hoá của OMO tuy đã được mở rộng nhưng vẫn chưa thực sự đa
dạng hoá. Trong thời gian từ năm 200-2003, công cụ giao dịch OMO chỉ bao gồm các
GTCG ngắn hạn. Thực hiện Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật NHNN, danh mục
GTCG đã được mở rộng, lượng GTCG có thể giao dịch trong OMO đã tăng lên, song vẫn
tập trung tại các NHTMNN.
Kỳ hạn của trái phiếu, tín phiếu Chính phủ - loại hàng hoá chủ yếu trong OMO -
vẫn chưa thực sự đa dạng hoá, nhất là các tín phiếu kho bạc với thời hạn dưới 364 ngày ít
22
23Thị Trường Mở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 5-TCDN Đêm 1-K20
được phát hành. Điều này cũng làm cho nhiều NHTM khó có điều kiện đầu tư vào
GTCG, tạo hàng hoá tham gia OMO và các nghiệp vụ thị trường tiền tệ khác.
C – MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN NGHIỆP VỤ THỊ
TRƯỜNG MỞ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
1. Về cơ sở pháp lý
Các quy trình, quy chế liên quan đến hoạt động nghiệp vụ thị trường mở do Ngân
hàng nhà nước ban hành đã được rà soát và có những điều chỉnh để từng bước thích nghi
với nhu cầu của thị trường và đáp ứng được mục tiêu của chính sách tiền tệ nói chung của
Chính phủ. Tuy nhiên, các quy trình, quy chế này cần phải tiếp tục điều chỉnh, trong đó
đặc biệt chú trọng những nội dung liên quan đến việc cho phép đa dạng hóa kỳ hạn giao
dịch, tiến tới đưa ra giao dịch mua, bán kỳ hạn qua đêm để thúc đẩy thị trường mở hoạt
động linh hoạt và kịp thời, sau đó bổ sung phương thức giao dịch hoán đổi ngoại tệ nhằm
linh hoạt hơn nữa trong việc kiểm soát lượng tiền cung ứng.
Song song đó, cũng cần liên tục rà soát để cập nhật, điều chỉnh các quy trình liên
quan đến việc mở thầu, xét thầu, thời gian công bố kết quả thầu; các thủ tục về đăng ký,
lưu ký các giấy tờ có giá; thủ tục về lập hợp đồng, quy trình giao dịch qua mạng,…nhằm
tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tín dụng khi tham gia giao dịch, rút ngắn thời gian
và tiết kiệm chi phí giao dịch.
2. Tăng cường hơn nữa mối quan hệ chặt chẽ của nghiệp vụ thị trường mở với
các công cụ khác của chính sách tiền tệ nhằm đạt mục tiêu chính sách tiền tệ
của Chính phủ. Trong đó xác định rõ mục tiêu của nghiệp vụ thị trường mở là

công cụ điều tiết linh hoạt vốn khả dụng của cả toàn hệ thống tài chính tín
dụng.
Muốn đạt được mục tiêu này, nên chú trọng những vấn đề sau:
- Đảm bảo quy định của nghiệp vụ thị trường mở phù hợp với thông lệ quốc tế và
điều kiện thị trường tiền tệ Việt Nam trong từng thời kỳ.
- Từng bước thử nghiệm việc hình thành lãi suất định hướng để nâng cao hiệu quả
điều tiết tiền tệ của nghiệp vụ thị trường mở.
- Tăng cường sự phối hợp đồng bộ hơn nữa với các công cụ khác của chính sách
tiền tệ để có những ứng phó phù hợp trước diễn biến của kinh tế trong nước và quốc tế.
23
24Thị Trường Mở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 5-TCDN Đêm 1-K20
- Phối hợp chặt chẽ giữa các bộ phận thị trường nhằm nâng cao hiệu quả nghiệp
vụ thị trường mở.
3. Đa dạng hóa và tăng tính hấp dẫn của các hàng hóa giao dịch trên thị
trường mở.
Trong điều kiện nghiệp vụ thị trường mở ngày càng tham gia nhiều hơn trong việc
điều tiết lượng tiền cung ứng, do đó, cần đa dạng hóa các hàng hóa giao dịch trên thị
trường mở nhằm tạo những cơ hội tốt cho các thành viên trong việc lựa chọn giấy tờ có
giá (GTCG) để tham gia giao dịch. Có thể cân nhắc việc đưa các loại GTCG sau vào giao
dịch trên thị trường mở như: Trái phiếu do Ngân hàng nhà nước phát hành, Trái phiếu do
Công ty có uy tín phát hành, Chứng chỉ tiền gửi, Thương phiếu. Việc bổ sung này đòi hỏi
phải có bước đi phù họp trong cơ sở xây dựng các quy định chặt chẽ để đảm bảo việc
kiểm soát của Chính phủ cũng như đảm bảo lợi ích của các bên tham gia. Riêng đối với
Chứng chỉ tiền gửi, cần bổ sung các quy định vào chứng chỉ tiền gửi vào trong Luật Các
công cụ chuyển nhượng để tạo cơ sở pháp lý cho việc phát triển loại GTCG này.
Bên cạnh đó, cũng cần phải tăng tính hấp dẫn của các loại GTCG đang giao dịch.
Cụ thể, đối với tín phiếu Kho bạc Nhà nước, có thể bổ sung thêm các loại kỳ hạn phát
hành với lãi suất linh hoạt, sát lãi suất thị trường nhằm tăng tính thanh khoản hơn nữa cho
hàng hóa khi tham gia thị trường. Đồng thời, tăng cường việc giao dịch nhiều kỳ hạn
trong một phiên.

4. Hoàn thiện công tác dự báo hiệu quả hoạt động nghiệp vụ thị trường mở.
Từ thực tiễn, hiệu quả của công tác dự báo trong điều hành hoạt động nghiệp vụ thị
trường mở là rất quan trọng, ảnh hưởng đến việc điều tiết lượng tiền cung ứng.
Công tác dự báo phải đảm bảo nguồn số liệu chính xác, đầy đủ, bao gồm: số lượng
tiền cung ứng, dự trữ, nhu cầu vốn của các tổ chức tín dụng, cho vay Chính phủ, cho vay
các tổ chức tín dụng, lãi suất liên ngân hàng, tỷ lệ lạm phát, tốc độ tăng trưởng kinh tế,…
Hệ thống số liệu phải được thu thập theo ngày, xác định cả trong quá khứ, hiện tại và
tương lai.
Phải xây dựng được mô hình dự báo, tuy nhiên, việc quyết định mô hình cần có sự
tham vấn và có kiểm định để đảm bảo đưa ra kết quả phân tích tốt nhất.
Cần phải có đội ngũ chuyên gia đảm nhiệm công tác thống kê, phân tích, xử lý mô
hình và đưa ra kết quả báo cáo ban điều hành phục vụ cho công tác điều hành hoạt động
24
25Thị Trường Mở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp Nhóm 5-TCDN Đêm 1-K20
nghiệp vụ thị trường mở trong ngắn và dài hạn. Đội ngũ chuyên gia phải là những cán bộ
có kiến thức về kinh tế lượng, kinh tế vĩ mô, công nghệ tin học để có thể đưa ra các kết
quả đáp ứng yêu cầu.
5. Rà soát lại lỗ hổng, nâng cấp và hoàn thiện hơn nữa cũng như nghiên cứu
áp dụng công nghệ mới cho hạ tầng hệ thống thông tin của thị trường mở.
Hệ thống công nghệ thông tin cần được không ngừng nâng cấp. Trong đó, chú
trọng nâng cao độ an toàn, chuẩn xác trong các hoạt động giao dịch, tăng hiệu quả hoạt
động (nhờ đó rút ngắn hơn nữa thời gian giao dịch), cũng như cải tiến các các chương
trình phần mềm ứng dụng về lưu ký giấy tờ có giá tại Sở giao dịch Ngân hàng nhà nước
nhằm theo dõi và thanh toán giấy tờ có giá của Ngân hàng nhà nước và của các tổ chức
tín dụng. Đồng thời, ứng dụng công nghệ mới hướng tới chấp nhận hoàn toàn các chữ ký
điện tử. Việc này cần phải được thể chế hóa bằng các văn bản pháp luật quy định về chữ
ký điện tử trong giao dịch, trong đó có giao dịch trên thị trường mở.
Bên cạnh đó, hệ thống công nghệ thông tin cũng cần phải được hoàn thiện với mục
tiêu trở thành công cụ đắc lực, quan trọng và hiệu quả nhất trong việc dự báo và nắm bắt
kịp thời các thông tin thị trường (nhu cầu vốn của nền kinh tế, khả năng thanh khoản của

các Ngân hàng thương mại,…) để đưa ra được các quyết định sát thực và chính xác.
6. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến thông tin rộng rãi về nghiệp vụ
thị trường mở cũng như các ưu điểm của thị trường để thu hút thêm các tổ
chức tín dụng tham gia thị trường.
Thực tế cho thấy, thành viên tham gia thị trường mở thời gian qua đã có sự gia tăng
về số lượng và đa dạng về loại hình. Nếu như trước đây, thị trường mở hầu như chỉ có
các ngân hàng thương mại nhà nước tham gia, các khối ngân hàng khác còn đứng ngoài
cuộc, thì hiện nay, thị trường mở Việt Nam đã có sự góp mặt của các ngân hàng liên
doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt
Nam,… Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận không ít các ngân hàng thương mại cổ phần nhỏ
chưa tham gia thị trường mở, do chưa quan tâm hoặc do quy mô vốn bé, trình độ nghiệp
vụ chưa đáp ứng cũng như chưa quen nên chưa tham gia hoặc còn lúng túng trong việc
tham gia đấu thầu tại loại thị trường tiền tệ này. Số lượng các tổ chức tín dụng tham gia
đặt thầu tại mỗi phiên giao dịch vẫn còn khá khiêm tốn so với lực lượng tổ chức tín dụng
đông đảo đang hoạt động tại thị trường Việt Nam. Gia tăng số lượng thành viên cũng góp
25

×