Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

đề tài tập làm văn lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (188.11 KB, 27 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN
KHOA SƯ PHẠM
Võ Như Kim
MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN TẬP LÀM VĂN LỚP 3
TRƯỜNG TIỂU HỌC TRẦN PHÚ
HUYỆN CHÂU ĐỨC – TỈNH BÀ RỊA VŨNG TÀU
TIỂU LUẬN KHOA HỌC CUỐI KHOÁ
BÀ RỊA – VŨNG TÀU , 2009
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN
KHOA SƯ PHẠM
VÕ NHƯ KIM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN TẬP LÀM VĂN LỚP 3
TRƯỜNG TIỂU HỌC TRẦN PHÚ
HUYỆN CHÂU ĐỨC , TỈNH BÀ RỊA -VŨNG TÀU
TIỂU LUẬN KHOA HỌC CUỐI KHOÁ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN
Ths: Triệu Văn Thịnh
BÀ RỊA – VŨNG TÀU , 2009
2
MỤC LỤC
TRANG
MỞ ĐẦU 2
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 2
LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 4
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 7
Chương 1 10
PHƯƠNG PHÁP – NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 10
CÁC PHƯƠNG PHÁP DẠY TẬP LÀM VĂN 13
QUY TRÌNH TIẾT TẬP LÀM VĂN LỚP 3 14


CHƯƠNG 2 15
CÁC BIỆN PHÁP DẠY TẬP LÀM VĂN LỚP 3 THEO HƯỚNG ĐỔI MỚI 15
Dạy học theo quan điểm giao tiếp 18
Tổ chức tốt việc quan sát, hướng dẫn học sinh cách dùng từ, giọng kể, điệu bộ khi làm
bài nghe, nói, viết 19
Sử dụng linh hoạt các hình thức hoạt động trong tiết dạy tập làm văn theo hướng đổi
mới 20
Dạy học hướng dẫn vào học sinh và chú trọng hình thức dạy học cá nhân 22
Dạy học phối kết hợp các hoạt động ngoài giờ lên lớp 23
Dạy tập làm văn theo hướng đổi mới ở tất cả các khối lớp 23
3. KẾT LUẬN KIẾN NGHỊ 25
Kết luận 25
Kiến nghị 25
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Thế kỉ XXI mở ra nhiều thách thức và vận hội đối với đất nước. Đại hội đảng lần
thứ VIII đã quyết định đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước nhằm mục tiêu dân giàu nước
mạnh, xã hội công bằng văn minh, đất nước vững bước đi lên CNXH. “Giáo dục phải
thực sự trở thành quốc sách hàng đầu Cải tiến chất lượng dạy và học để hoàn thành tốt
3
việc đào tạo bồi dưỡng nguồn lực con người cho CNH-HĐH đất nước” (Văn kiện Đại
hội Đảng lần thứ VIII). Theo định hướng đó thì bậc tiểu học là nền tảng. Mục tiêu giáo
dục tiểu học là nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Mỗi môn học ở tiểu học đều góp
phần hình thành và phát triển nhân cách của trẻ và cung cấp cho trẻ những trí thức cân
thiết. Môn tập làm văn ở tiểu học có nhiệm vụ rất qua trọng là rèn kĩ năng nói và viết.
Nhưng học sinh còn lúng túng không biết nói gì? viết gì? Vì vậy dạy cho học sinh biết
quan sát tìm ý để hình thành một thói quen chuẩn bị làm tốt là một yêu cầu quan trọng
khi làm văn. Muốn quan sát tốt, học sinh cần nắm được cách quan sát và những yêu cầu
quan sát để làm văn.
Đối với cả giáo viên và học sinh đều chưa nhận thức được hết tầm quan trọng

nên chất lượng giờ dạy còn hạn chế.
Môn Tiếng Việt cùng với các môn học khác, có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh
4 kĩ năng đó là: "nghe - nói - đọc - viết". Trong đó môn tiếng Việt có c các phân môn
như: Tập đọc, kể chuyện, chính tả, luyện từ và câu, tập viết, tập làm văn trong đó,
phân môn Tập làm văn là phân môn có tính chất thích hợp của các phân môn khác. Qua
tiết tập làm văn, học sinh có khả năng xây dựng một văn bản, đó là bài nói, bài viết. Nói
và viết là những hình thức giao tiếp rất quan trọng, thông qua đó con người thực hiện
quá trình tư duy - chiếm lĩnh tri, thức trao đổi tư tưởng, tình cảm, quan điểm, giúp mọi
người hiểu nhau. cùng hợp tác trong cuộc sống lao động.
Ngôn ngữ (dưới dạng nói - ngôn bản và dưới dạng viết văn bản) giữ vai trò quan
trọng trong sự tồn tại và phát triển xã hội. Chính vì vậy, hướng dẫn cho học sinh nói
đúng và viết đúng là hết sức cần thiết. Nhiệm vụ nặng nề đó phụ thuộc phần lớn vào
việc giảng dạy môn Tiếng Việt nói chung và phân môn tập làm văn lớp 3 nói riêng. Vấn
đề đặt ra: Người giáo viên dạy tập làm ra sao để đạt hiệu quả như mong muốn.
Qua thực tế giảng dạy chúng tôi nhận thấy phân môn tập làm văn là phân môn
khó trong các phân môn của môn Tiếng Việt. Do đặc trưng phân môn Tập làm văn với
mục tiêu cụ thể là: hình thành và rèn luyện cho học sinh khả năng trình bày văn bản (nói
và viết) ở nhiều thể loại khác nhau như: miêu tả, kể chuyện, viết thư, tường thuật, kể lại
bản tin, tập tổ chứng cuộc họp giới thiệu về mình và những người xung quanh. Trong
quá trình tham gia vào các hoạt động học tập này, học sinh với vốn kiến thức còn hạn
chế nên thường ngại nói. Nếu bắt buộc phải nói, các em thường đọc lại bài viết đã chuẩn
bị trước. Do đó, giờ dạy chưa đạt hiệu quả cao.
4
Với mong muốn có một đóng góp nhỏ bé trong việc giáo dục học sinh phát triển
toàn diện; nâng cao năng lực sư phạm cho bản thân, xuất phát từ thực tiễn đó, chúng tôi
tiến hành nghiên cứu và thực nghiệm " Một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy môn
tập làm văn lớp 3 trường Tiểu học Trần Phú – Huyện Châu Đức – Tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu ".
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Tập làm văn là một trong những phân môn có vị trí quan trọng của môn Tiếng

Việt. Phân môn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức tổng hợp từ nhiều
phân môn. Để làm được một bài văn, học sinh phải sử dụng cả bốn kỹ năng: nghe, nói,
đọc, viết. Phải vận dụng các kiến thức về tiếng việt, về cuộc sống thực tiễn.
Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kỹ năng tạo tập văn bản, trong
quá trình lĩnh hội các kiến thức khoa học, góp phần dạy học sinh sử dụng tiếng việt
trong đời sống sinh hoạt. Vì vậy, tập làm văn được coi là phân môn có tính tổng hợp, có
liên quan mật thiết đến các môn học khác. Trên cơ sở nội dung, chương trình phân môn
tập làm văn có rất nhiều đổi mới, nên đòi hỏi tiết dạy Tập làm văn phải đạt được mục
đích cụ thể hơn, rõ nét hơn. Ngoài phương pháp của thầy, học sinh cần có vốn kiến
thức, ngôn ngữ về đời sống thực tế. Chính vì vậy, việc dạy tốt các phân môn khác
không chỉ là nguồn cung cấp kiến thức mà còn là phương tiện rèn kỹ năng nói, viết,
cách hành văn cho học sinh.
Tóm lại: Dạy tập làm văn theo hướng đổi mới phải khích lệ học sinh tích cực,
sáng tạo, chủ động trong học tập; biết diễn đạt suy nghĩ của mình thành ngôn bản, văn
bản. Nói cách khác, các phân môn trong môn Tiếng Việt là phương tiện để hỗ trợ cho
việc dạy tập làm văn được tốt.
2.1. Thuận lợi
+ Đối với giáo viên
- Năm học 2009 - 2010 là năm thứ hai tiến hành thực hiện chương trình chuẩn
kiến thức , giáo viên đã nắm được yêu cầu việc đổi mới phương pháp một cách cơ bản,
việc sử dụng đồ dùng tương đối có hiệu quả.
- Sự chỉ đạo, chuyên môn của phòng giáo dục, trường tổ chuyên môn có vai trò
tích cực,giúp giáo viên đi đúng nội dung, chương trình phân môn Tập làm văn.
5
- Qua các tiết dạy mẫu, các cuộc thi, hội thảo đã có nhiều giáo viên thành công
khi dạy Tập làm văn.
- Qua các phương tiện thông tin đại chúng: ti vi, đài, sách, báo giáo viên tiếp
cận với phương pháp đổi mới Tập làm văn thường xuyên hơn.
+ Đối với học sinh
- Học sinh lớp ba đang ở lứa tuổi rất thích học và ham học

- Môn tiếng việt nói chung và phân môn Tập làm văn nói riêng có nội dung
phong phú, sách giáo khoa được trình bày với kênh hình đẹp, trang thiết bị dạy học hiện
đại, hấp dẫn học sinh, phù hợp với tâm lý lứa tuổi các em.
- Các em đã được học chương trình thay sách từ lớp 1, đặc biệt là các em ở lớp 2
đã nắm vững kiến thức, kỹ năng của phân môn Tập làm văn như kỹ năng giao tiếp, kỹ
năng tạo lập ngôn bản, kỹ năng kể chuyện miêu tả. Đây là cơ sở giúp các em học tốt
phân môn Tập làm văn ở lớp 3.
2.2. Khó khăn
+ Đối với học sinh
- Do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, các em nhanh nhớ nhưng cũng mau quên,
mức độ tập trung thực hiện các yêu cầu của bài học chưa cao.
- Kiến thức về cuộc sống thực tế của học sinh còn hạn chế, ảnh hưởng đến việc
tiếp thu bài học.
- Vốn từ vựng của học sinh chưa nhiều cũng ảnh hưởng đến việc thực hành độc
lập. Cụ thể là: các em viết câu rời rạc, chưa liên kết, thiếu lôgíc, tính sáng tạo trong thực
hành viết văn chưa cao, thể hiện ở cách bố cục bài văn, cách chấm câu, sử dụng hình
ảnh gợi tả chưa linh hoạt, sinh động.
- Một số học sinh còn phụ thuộc vào bài văn mẫu, áp dụng một cách máy móc,
chưa biết vận dụng bài mẫu để hình thành lối hành văn của riêng mình. Ví dụ: Phần lớn
học sinh dùng luôn lời cô hướng dẫn để viết bài của mình.
+ Đối với giáo viên
Tiếng việt là môn học khó, nhất là phân môn Tập làm văn đòi hỏi người giáo
viên phải có kiến thức sâu rộng, phong phú cần phải có vốn sống thực tế, người giáo
viên biết kết hợp linh hoạt các phương pháp trong giảng dạy. Biết gợi mở óc tò mò, khả
6
năng sáng tạo, độc lập ở học sinh, giúp cho các em nói viết thành văn bản, ngôn ngữ
quả không dễ.
Với những thuận lợi và khó khăn trên, chúng tôi tiến hành khảo sát chất lượng
môn Tập làm văn lớp 3 vào tháng 9 tuần 3 (năm học 2009 - 2010) với đề bài như sau:
Hãy kể về gia đình em với người bạn mới quen

Kết quả khảo sát như sau: Tổng số học sinh khối 3: 78 em
Nội dung khảo sát Số học sinh
1. Biết viết câu, dùng từ hợp lý 35/78
2. Biết nói - viết thành câu 34/78
3. Biết dùng từ ngữ, câu văn có hình ảnh 31/78
4. Biết trình bày đoạn văn 28/78
Bài viết học sinh đạt từ trung bình trở lên 62/78
Qua khảo sát cho thấy học sinh chưa biết cách diễn đạt câu văn có hình ảnh, vốn
từ vựng chưa nhiều, hiểu biết thực tế còn ít, do vậy chất lượng bài viết của các em chưa
cao, ý văn nghèo nàn, câu văn lủng củng. Kết quả này cũng thể hiện phương pháp giảng
dạy của giáo viên chưa phát huy được tính tích cực của học sinh trong giờ học.
Vì tất cả những lý do trên nên chúng tôi chọn đề tài “Một số biện pháp đổi mới
phương pháp dạy học môn tập làm văn lớp 3 ở trường tiểu học Trần Phú – Huyện Châu
Đức –Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu “ để làm tiểu luận cuối khoá .
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Xác định cơ sở lý luận về phân môn tập làm văn tiểu học nói chung và tập làm
văn lớp 3 nói riêng
Thấy được sự cần thiết của tập làm văn từ lớp 3 đối với sự phát triển năng lực
ngôn ngữ của học sinh tiểu học
Một số biện pháp đổi mới phương pháp dạy môn tập làm văn lớp 3 ở trường tiểu
học
Đề tài này chúng tôi nghiên cứu kĩ hơn , đưa ra một số biện pháp đổi mới sẽ hiệu
quả hơn
7
3.1. Cơ sở lý luận
Tập làm văn là một trong những phân môn có vị trí quan trọng của môn Tiếng
Việt. Phân môn này đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức tổng hợp từ nhiều
phân môn. Để làm được một bài văn, học sinh phải sử dụng cả bốn kỹ năng: nghe, nói,
đọc, viết. Phải vận dụng các kiến thức về tiếng việt, về cuộc sống thực tiễn.
Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kỹ năng tạo tập văn bản, trong

quá trình lĩnh hội các kiến thức khoa học, góp phần dạy học sinh sử dụng tiếng việt
trong đời sống sinh hoạt. Vì vậy, tập làm văn được coi là phân môn có tính tổng hợp, có
liên quan mật thiết đến các môn học khác. Trên cơ sở nội dung, chương trình phân môn
tập làm văn có rất nhiều đổi mới, nên đòi hỏi tiết dạy Tập làm văn phải đạt được mục
đích cụ thể hơn, rõ nét hơn. Ngoài phương pháp của thầy, học sinh cần có vốn kiến
thức, ngôn ngữ về đời sống thực tế. Chính vì vậy, việc dạy tốt các phân môn khác
không chỉ là nguồn cung cấp kiến thức mà còn là phương tiện rèn kỹ năng nói, viết,
cách hành văn cho học sinh.
Tóm lại: Dạy tập làm văn theo hướng đổi mới phải khích lệ học sinh tích cực,
sáng tạo, chủ động trong học tập; biết diễn đạt suy nghĩ của mình thành ngôn bản, văn
bản. Nói cách khác, các phân môn trong môn Tiếng Việt là phương tiện để hỗ trợ cho
việc dạy tập làm văn được tốt.
3.2. Cơ sở thực tiễn
+ Đối với học sinh
- Do đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi, các em nhanh nhớ nhưng cũng mau quên,
mức độ tập trung thực hiện các yêu cầu của bài học chưa cao.
- Kiến thức về cuộc sống thực tế của học sinh còn hạn chế, ảnh hưởng đến việc
tiếp thu bài học.
- Vốn từ vựng của học sinh chưa nhiều cũng ảnh hưởng đến việc thực hành độc
lập. Cụ thể là: các em viết câu rời rạc, chưa liên kết, thiếu lôgíc, tính sáng tạo trong thực
hành viết văn chưa cao, thể hiện ở cách bố cục bài văn, cách chấm câu, sử dụng hình
ảnh gợi tả chưa linh hoạt, sinh động.
- Một số học sinh còn phụ thuộc vào bài văn mẫu, áp dụng một cách máy móc,
chưa biết vận dụng bài mẫu để hình thành lối hành văn của riêng mình. Ví dụ: Phần lớn
học sinh dùng luôn lời cô hướng dẫn để viết bài của mình.
8
+ Đối với giáo viên
Tiếng việt là môn học khó, nhất là phân môn Tập làm văn đòi hỏi người giáo
viên phải có kiến thức sâu rộng, phong phú cần phải có vốn sống thực tế, người giáo
viên biết kết hợp linh hoạt các phương pháp trong giảng dạy. Biết gợi mở óc tò mò, khả

năng sáng tạo, độc lập ở học sinh, giúp cho các em nói viết thành văn bản, ngôn ngữ
quả không dễ.
Với những thuận lợi và khó khăn trên, chúng tôi tiến hành khảo sát chất lượng
môn Tập làm văn lớp 3 vào tháng 9 tuần 3 (năm học 2009 - 2010) với đề bài như sau:
Hãy kể về gia đình em với người bạn mới quen
Kết quả khảo sát như sau: Tổng số học sinh khối 3: 85 em
Nội dung khảo sát Số học sinh Tỷ lệ %
1. Biết viết câu, dùng từ hợp lý 39/72 %
2. Biết nói - viết thành câu 37/72 %
3. Biết dùng từ ngữ, câu văn có hình ảnh 25/72 %
4. Biết trình bày đoạn văn 28/72 %
Bài viết học sinh đạt từ trung bình trở lên 59/72 %
Qua khảo sát cho thấy học sinh chưa biết cách diễn đạt câu văn có hình ảnh, vốn
từ vựng chưa nhiều, hiểu biết thực tế còn ít, do vậy chất lượng bài viết của các em chưa
cao, ý văn nghèo nàn, câu văn lủng củng. Kết quả này cũng thể hiện phương pháp giảng
dạy của giáo viên chưa phát huy được tính tích cực của học sinh trong giờ học.
Vì tất cả những lý do trên nên chúng tôi chọn đề tài “Một số biện pháp đổi mới
phương pháp dạy học môn tập làm văn lớp 3 ở trường tiểu học Trần Phú – Huyện Châu
Đức –Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu “ để làm tiểu luận cuối khoá .
4-CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu và kết luận , tiểu luận gồm 2 chương :
Chương 1 : Phương Pháp – nội dung nghiên cứu
Chương 2: Các biện pháp dạy tập làm văn lớp 3 theo hướng đổi mới
9
CHƯƠNG 1
PHƯƠNG PHÁP – NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1.1 Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp quan sát thông qua dự giờ
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm, kiểm tra đối chứng
- Phương pháp nghiên cứu văn bản, tài liệu

- Nghiên cứu tài liệu
-Đọc tài liệu sách tham khảo
- Khảo sát thực tế
-Khảo sát tình hình thực tế
- So sánh đối chiếu
- Phương pháp thực hành
10
1.2 . Nội dung nghiên cứu
Vị trí, nhiệm vụ của môn tập làm văn
Môn tập làm văn có nhiệm vụ chủ yếu là dạy học sinh sản sinh ra các ngôn bản
và viết. Tập làm văn còn là sản phẩm thể hiện rõ vốn hiểu biết, đời sống, trình độ văn
hoá của học sinh. Bài tập làm văn trở thành sản phẩm tổng hợp, là nơi trình bày kết quả
đích thực của việc học Tiếng Việt.
Tổ chức cho học sinh quan sát đối tượng miêu tả là một công việc thuộc về
nguyên tắc khi dạy học văn miêu tả. Trên cơ sở có sự thu nhận trực tiếp các nhận xét, ấn
tượng, cảm xúc của mình, học sinh mới bắt tay vào làm bài. Khi quan sát học huy động
vốn sống, khả năng tưởng tượng và cảm xúc giúp cho việc quan sát tốt hơn. Từ đó hiểu
biết và kĩ năng về văn miêu tả được hình thành một cách tự giác chủ yếu qua con đường
thực hành.
Tiết học này mở đầu một quy trình dạy một kiểu bài . thông qua giải quyết một
bài cụ thể luyện cho học sinh hai kỹ năng:
- Tìm tư liệu cho đề bài để chuẩn bị tập làm văn.
- Cung cấp hiểu biết chung nhất mang tính lý thuyết về kiểu bài , loại bài.
Nội dung chương trình sách giáo khoa và các hình thức luyện tập làm văn lớp 3
Chương trình Tập làm văn lớp 3 bao gồm 35 tiết / năm (thực học 31 tiết + 4 tiết
ôn tập)
- Kỳ 1: 16 tiết + 2 tiết ôn tập
- Kỳ 2: 15 tiết + 2 tiết ôn tập
Trang bị cho học sinh một số kiến thức và kĩ năng phục vụ cho học tập và đời
sống hàng ngày như: điền vào giấy tờ in sẵn, viết thư, làm đơn, tổ chức họp và phát biểu

trong cuộc họp, giới thiệu hoạt động của tổ, lớp, trường, ghi chép sổ tay
Tiếp tục rèn kĩ năng đọc, nghe, nói, viết thông qua kể chuyện và miêu tả như: kể
một việc đơn giản, tả sơ lược về người, vật xung quanh theo gợi ý bằng tranh hoặc bằng
câu hỏi.
Rèn kĩ năng nghe thông qua các bài tập nghe.
11
Các hình thức luyện tập
Bài tập nói
Bài tập nghe Bài tập viết
3.3.2. Các hình thức luyện tập
*. Bài tập nghe: Gồm các tiết
- Tuần 4: Nghe kể: Dại gì mà đổi
- Tuần 7: Nghe kể: Không nỡ nhìn
- Tuần 11: Nghe kể: Tôi có đọc đâu
- Tuần 14: Tôi cũng như bác
- Tuần 15: Nghe kể: Giấu cày
- Tuần 16: Nghe kể: Kéo cây lúa lên
- Tuần 19: Nghe kể: Chàng trai phù ủng
- Tuần 21: Nghe kể: Nâng niu từng hạt giống
- Tuần 24: Nghe kể: Người bán quạt may mắn
- Tuần 34: Nghe kể: Vươn tới các vì sao
* Yêu cầu các bài tập nghe
- Học sinh hiểu nội dung câu chuyện, thuật lại được câu một cách mạnh dạn, tự
tin.
- Học sinh thấy cái hay cái đẹp, cái cần phê phán trong câu chuỵen.
- Biết diễn đạt rõ ràng thành câu, dễ hiểu.
- Giọng kể phù hợp nội dung từng câu chuyện.
- Biết diễn đạt rõ ràng thành câu, dễ hiểu.
- Giọng kể phù hợp nội dung từng câu chuyện.
*. Bài tập nói: Gồm các chi tiết

- Tuần 1: Nói về Đội
- Tuần 5: Tập tổ chức cuộc họp
- Tuần 6: Kể lại buổi đầu em đi học
12
- Tuần 8: Kể về người hàng xóm
- Tuần 11: Nói về quê hương
- Tuần 12: Nói về cảnh đẹp đất nước
- Tuần 15: Giới thiệu về tổ em.
- Tuần 16: Nói về thành thị nông thôn.
- Tuần 20: Báo cáo hoạt động
- Tuần 21: Nói về tri thức
- Tuần 22: Nói về người lao động trí óc
- Tuần 25: Kể về lễ hội
- Tuần 26: Kể về một ngày hội
- Tuần 28: Kể lại một trận thi đấu thể thao
- Tuần 32: Nói về bảo vệ môi trường
* Yêu cầu:
- Học sinh nói đúng rõ ý, diễn đạt rõ ràng dễ hiểu.
- Học sinh nói theo nội dung, chủ đề cho trước
- Nói thành câu, biét cách dùng từ chân thực.
- Nói thành đoạn văn
*. Bài tập viết: Gồm các tiết:
- Tuần 1: Điền vào giấy tờ in sẵn (ĐTNTP)
- Tuần 2: Viết đơn
- Tuần 3, 4: Điền vào tờ giấy in sẵn.
- Tuần 10: Tập viết thư và phong bì thư
- Tuần 12: Viết về cảnh đẹp đất nước
- Tuần 13: Viết thư
- Tuần 17: Viết về thành thị nông thôn
- Tuần 22: Viết về người lao động trí óc.

- Tuần 28: Viết lại một tin thể thao trên báo, đ, i.
- Tuần 29: Viết về một trận thi đấu thể thao
- Tuần 30: Viết thư
- Tuần 32: Viết về bảo vệ môi trường
* Yêu cầu các bài tập viết
13
- Đủ số lượng câu
- Trình bày thành đoạn văn
- Biết cách chấm câu, viết các câu theo mẫu đã học (ai là gì, ai làm gì?, để như
thế nào?)
- Biết cách dùng từ (biết cách sử dụng phép so sánh, nhân hoá)
1.3.Các phương pháp dạy tập làm văn
-Phương pháp sử dụng trực quan
-Phương pháp thực hành giao tiếp, rèn kỹ năng nghe - nói - đọc - viết
-Phương pháp giảng giải
-Phương pháp dạy học cá nhân
-Phương pháp thảo luận nhóm
-Phương pháp đàm thoại
-Phương pháp trò chơi
- Phương pháp làm việc với SGK và các tài liệu
1.4. Quy trình tiết tập làm văn lớp 3
1. Kiểm tra bài cũ 3'-5'
2. Dạy bài mới
a) Giới thiệu 1' - 2'
b) Hướng dẫn làm các bài tập (30 - 32')
- Thực hành giải lần lượt các bài tập bằng nhiều hình thức
- Chú ý đặc trưng của từng tiết dạy. Ví dụ: rèn nghe - nói - đọc - viết hoặc những
hình thức khác nhau nhằm đạt được mục tiêu yêu cầu.
3. Củng cố dặn dò 1 - 2'
14

CHƯƠNG 2
CÁC BIỆN PHÁP DẠY TẬP LÀM VĂN LỚP 3 THEO HƯỚNG ĐỔI MỚI
Tuỳ theo nội dung, yêu cầu của mỗi đơn vị học và từng đối tượng học sinh, giáo
viên có thể áp dụng nhóm các biện pháp, hoặc một biện pháp chủ đạo kết hợp với một
số biện pháp bổ trợ khác. Về cơ bản có những biện pháp sau:
2.1. Luôn chú trọng "tích hợp - lồng ghép" khi dạy phân môn tập làm
văn lớp 3.
Khi dạy tập làm văn giáo viên cần hiểu rõ tính tích hợp thức giữa các phân môn
trong môn Tiếng Việt như: Tập đọc, kể chuyện, Chính tả, luyện từ và câu, tập viết để
giảng dạy và tạo đà cho học sinh học tập tốt phân môn Tập làm văn. Mối quan hệ này
15
thể hiện rõ trong cấu trúc của sách giáo khoa: các bài học được biên soạn theo chủ đề,
chủ điểm, hai đơn vị học xoay quanh một chủ điẻm ở tất các các phân môn.
Ví dụ: Chủ đề Cộng đồng dạy trong 2 tuần gồm các bài tập đọc. Luyện từ và
câu Trong quá trình rèn đọc, khai thác nội dung các bài đọc cung cấp cho học sinh vốn
từ về chủ đề Cộng đồng, những câu văn có hình ảnh về chủ để Cộng đồng. Cụ thể khi
dạy bài tập đọc: Kể chuyện: Các em nhỏ và cụ già - tuần 8, giáo viên khai thác nội dung
bài theo hệ thống câu hỏi sau:
+ Điều gì gặp bên đường khiến các bạn nhỏ phải dừng lại?
(Các bạn gặp một cụ già đứng ven đường, vẻ mặt mệt mỏi, cặp mắt lộ vẻ u sầu)
+ Các bạn quan tâm đến ông cụ như thế nào?
(Các bạn băn khoăn và trao đổi với nhau. Có bạn đoán: a) Hay ông cụ bị ốm, b)
Hay cụ bị mấy cái gì đó. Cuối cùng cả tốp đến tận nơi để hỏi thăm ông cụ).
+ Vì sao các bạn quan tâm đến ông cụ?
Với câu hỏi này có thể các em sẽ trả lời như sau:
- Vì các bạn là những trẻ ngoan
- Vì các bạn là những người nhân hậu
- Vì các bạn muốn quan tâm, giúp đỡ ông cụ
+ Ông cụ gặp chuyện gì buồn?
(Cụ bà bị ốm nặng đang nằm trong bệnh viện, khó mà qua khỏi)

+ Vì sao khi trò chuyện với các bạn nhỏ ông cụ thấy lòng nhẹ hơn?
Với câu hỏi này có thể các em sẽ trả lời như sau:
- Ông cảm thấy nỗi buồn được chia sẻ
- Ông cảm thấy đỡ cô đơn vì có người trò chuyện
- Ông cảm thấy lòng ấm lại vì tình cảm của các bạn nhỏ dành cho mình.
Qua các câu trả lời của học sinh, giáo viên định hướng cho các em ý thức biết
quan tâm chia sẻ với những người trong cộng đồng, giúp cho các em khi viết đoạn văn
kể về những người thân hoặc người hàng xóm, đoạn văn toát lên được nội dung: con
người phải biết yêu thương nhau, sự quan tâm chia sẻ của những người xung quanh làm
cho mỗi người dịu bớt những lo lắng, buồn phiền và cảm thấy cuộc sống tốt đẹp hơn.
16
Qua hệ thống câu hỏi, giáo viên giúp cho học sinh bày tỏ được thái độ, tình cảm,
ý kiến nhận xét, đánh giá của mình về vấn đề nêu ra trong bài học. Song song với quá
trình đó, giáo viên cần hỏi ý kiến nhận xét của học sinh về câu trả lời của bạn để học
sinh rút ra được câu trả lời đúng, cách ứng xử hay.
Như vậy, qua tiết học này, học sinh được mở rộng vốn từ, rèn lối diễn đạt mạch
lạc, lôgíc, câu văn có hình ảnh, cảm xúc. Trên cơ sở đó, bài luyện nói của các em sẽ trôi
chảy, sinh động, giàu cảm xúc, đồng thời hình thành cho các em cách ứng xử linh hoạt
trong cuộc sống; hình hành cho học sinh kiến thức về mối quan hệ tương thân tương ái
giữa mọi người trong cộng đồng; rèn cho học sinh thói quen quan tâm, chia sẻ giúp đỡ
những người trong cộng đồng.
Cùng với chủ đề này thì phân môn Luyện từ và câu - Tuần 8 cũng cung cấp cho
học sinh vốn từ về chủ đề Cộng đồng qua hệ thống các bài tập. Cụ thể
Bài 1: Sắp xếp những từ ngữ vào ô trống trong bảng phân loại sau
Các từ: Cộng đồng, cộng tác, đồng bào, đồng đội, đồng tâm, đồng hương
Giáo viên giúp các em hiểu nghĩa các từ trên và sắp xếp vào các nhóm từ:
Nhóm 1: Nhưng người
trong cộng đồng
Nhóm 2: Thái độ hoạt động
trong cộng đồng

Cộng đồng, đồng bào, đồng đội, đồng
hương
Cộng tác, đồng tâm
Từ việc hiểu nghĩa của từ ở bài tập 1, học sinh hiểu ý nghĩa các thành ngữ ở bài
tập 2 và bày tỏ thái độ tán thành hay không tán thành thái độ ứng xử trong cộng đồng
thể hiện trong các thành ngữ đó:
Chung lưng đấu cật
(Mọi người cùng chung sức chung lòng để thực hiện một công việc có nhiều khó
khăn trở ngại)
Cháy nhà hàng xóm bình chân như vại
(Phê pháp thái độ thờ ơ, không quan tâm, tương trợ người khác lúc khó khăn)
Ăn ở như bát nước đầy
(Ca ngợi con người ăn ở, cư xử với mọi ngưòi có tình có nghĩa, trước sau không
thay đổi)
17
Như vậy học sinh biết vận dụng những câu thành ngữ về thái độ ứng xử trong
cộng đồng khi nói - viết tập làm văn giao tiếp, ứng xử trong cuộc sống.
Ở phân môn Chính tả tuần 8, các em cũng được luyện viết các bài trong chủ đề
Cộng đồng. Ví dụ: Viết đoạn 4 trong bài các em nhỏ và cụ già
Cụ ngừng lại và nghẹn ngào nói tiếp:
- Ông đang rất buồn. Bà lão nhà ông năm bệnh viện mấy tháng nay rồi. Bà ốm
nặng lắm, khó mà qua khỏi. Ông ngồi đây chờ xe buýt để đến bệnh viện. ông cảm ơn
lòng tốt của các cháu. Dẫu các cháu không giúp gì được nhưng ông cũng thấy lòng nhẹ
hơn.
Khi viết đoạn văn trên, học sinh được rèn viết chính tả, cách sử dụng các dấu
câu; thấy được sự cảm thông, chia sẻ giữa con người với nhau làm dịu bớt nỗi lo lắng,
buồn phiền, tằn thêm cho mỗi người niềm hy vọng, nghị lực trong cuộc sống. Học sinh
vận dụng cái hay, cái đẹp của ngôn từ trong đoạn văn để thể hiện tình cảm, thái độ đánh
giá trong từng bài văn cụ thể của chính các em.
Tương tự, ở phân môn tập viết - tuần 8, các em được làm quen với các thành

ngữ, tục ngữ về chủ để cộng đồng như luyện viết câu ứng dụng.
"Khôn ngoan đá đáp người ngoài
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau".
Xuất phát từ các phân môn: Tập đọc, luyện từ và câu, Chính tả, tập viết xoay
quanh chủ đề Cộng đồng, học sinh biết "Kể về người hàng xóm mà em quý mến" (TLV
3 - tuần 8) và viết được đoạn văn hoàn chỉnh, thể hiện tình cảm, thái độ đánh giá đối với
người hàng xóm qua việc sử dụng từ ngữ, câu văn có hình ảnh.
Cô Loan là người hàng xóm bên cạnh nhà em. Cô là giáo viên tiểu học, tối tối
miệt mài bên trang giáo án, và chấm bài cho học sinh. Với dáng nhỏ nhắn nhưng rất
nhanh nhẹn, giọng cô ấm áp. Em thích nghe nhất là khi cô hát. Cô thật xứng danh là cô
ca sĩ của trường.
Như vậy, khi dạy tất cả các phân môn: Luyện từ và câu, chính tả, tập đọc đều
nhằm mục đích giúp học sinh có kỹ năng hình thành văn bản, ngôn bản. Do đó, tích hợp
lồng ghép là phương pháp đặc trưng khi dạy phân môn tập làm văn lớp 3.
2.2. Dạy học theo quan điểm giao tiếp
18
Dạy học theo quan điểm giao tiếp là hình thành cho học sinh kỹ năng diễn đạt
thông qua các bài học, hình thành thói quen ứng xử trong giao tiếp hàng ngày với thầy
cô, cha mẹ, bạn bè và mọi người xung quanh.
Vận dụng phương pháp dạy học theo quan điểm này, giáo viên tạo cho học sinh
nhiều cơ hội thực hành, luyện tập, không quá năng về lý thuyết như phương pháp dạy
học truyền thống. Do vậy học sinh hào hứng tham gia vào các hoạt động học tập, tích
cực sáng tạo trong làm văn. Việc hình thành và rèn luyện các kỹ năng nghe - nói - đọc -
viết cho học sinh thông qua phân môn Tập làm văn đảm bảo đạt được hiệu quả tối ưu.
Ví dụ: Giảng dạy dạng bài tập nghe và tập nói
Nghe và kể lại câu chuyện "Giấu cày" - tập làm văn tuần 1.
Qua việc kể mẫu của giáo viên, quan sát tranh, gợi ý sách giáo khoa học sinh
kể nội dung câu chuyện như sau:
Có một người đang cày ruộng thì vợ gọi về ăn cơm. Bác ta liền hét to trả lời - Để
tôi giấu cái cày vào bụi đã.

Về nhà bác ta liền bị vợ trách - Ông giấu cày mà la to như thế, kẻ gian biết chỗ,
nó lấy mất cày thì sao.
Lát sau, cơm nước xong, bác ta ra ruộng, quả nhiên thấy cày bị mất. Bác ta liền
chạy một mạch về nhà, nói thầm vào tai vợ: "Nó lấy mất cày rồi!"
Qua giao tiếp giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với nhau (kể cho nhau
nghe), việc kể lại nội dung câu chuyện trước lớp giúp các em thấy được sự phê phán
hóm hỉnh, hài hước và kể chuyện lại nội dung câu truyện với giọng kể, cử chỉ, điệu bộ
gây cười ở người nghe, nét mặt phù hợp, nâng kịch tính câu chuyện lên cao hơn.
Song song với việc rèn luyện kỹ năng nghe - nói học sinh rèn kỹ năng viết: nắm
kỹ thuật viết, luật viết câu văn, đoạn văn hoàn chỉnh, đúng về ngữ pháp, bố cục văn
cảnh hoặc môi trường giao tiếp. Mỗi bài văn của học sinh không đơn thuần là kể, tả
ngắn về con người, sự vật, sự việc mà thông qua đó thể hiện suy nghĩ, cảm xúc, sự đánh
giá, thái độ yêu - ghét, trân trọng hay phê phán của các em. Thông qua bài viết của các
em người đọc hiểu được tâm tư tình cảm của các em về một vấn đề nào đó.
Bổ trợ cho việc rèn kỹ năng nghe - nói trong tiết Tập làm văn, phấn kể chuyện
của tiết tập đọc kể chuyện cũng chú trọng đến rèn kỹ năng giao tiếp.
Ví dụ: Dạy tập đọc kể chuyện. Tiết 2 - Bài Đất quý đấy yêu - tuần 11
19
Nhiệm vụ của học sinh là: quan sát tranh, sắp xếp lại tranh theo trình tự nội dung
câu chuyện Đất quý đất yêu. Sau đó dựa vào tranh kể lại câu chuyện. đúng nội dung,
ngắn gọn, từ ngữ súc tích, dễ hiểu, biết kết hợp lời nói với cử chỉ, điệu bộ để câu chuyện
thêm hấp dẫn sinh động; giúp người nghe thấy được phong tục tập quán của người Ê-ti-
ô-pi-a: họ coi đất đai là thứ thiêng liêng, cao quý nhất.
Thông qua kể lại câu chuyện theo tranh, học sinh hình thành và rèn luyện khả
năng diễn đạt, phục vụ tốt cho bài tập nói của tiết Tập làm văn.
Tóm lại, học sinh rèn luyện khả năng quan sát, nói - viết, rút ra những nét điển
hình, đặc trưng của từng vùng miền, thấy được vẻ đẹp đáng yêu, đáng tự hào của mỗi
vùng miền, từ đó hình thành nuôi dưỡng tình cảm gắn bó, yêu thương, ý thức gữ gìn,
xây dựng quê hương đất nước.
Ngoài ra, mỗi giáo viên cần chú trọng vận dụng phương pháp dạy học theo quan

điểm giao tiếp, khơi dậy ở các em những cảm xúc, đánh thức tiềm năng cảm thụ văn
học và có nhu cầu thể hiện, bày tỏ sự cảm thụ đó với người khác. Như vậy, mỗi bài nói,
bài viết sẽ chính là tâm hồn tình cảm của các em, các em sẽ thêm yêu văn - yêu cái hay,
cái đẹp, yêu tiếng Việt - giữ gìn sự trong sáng của tiếng việt.
2.3. Tổ chức tốt việc quan sát, hướng dẫn học sinh cách dùng từ, giọng
kể, điệu bộ khi làm bài nghe, nói, viết.
Với đặc điểm vốn từ còn hạn chế, nên học sinh lớp 3 gặp nhiều khó khăn trong
việc nghe - nói - viết - kể lại câu chuyện bằng lời văn của mình. Do vậy, giáo viên cần
tổ chức tốt hoạt động quan sát tranh: quan sát từng đường nét, màu sắc, hình ảnh, nội
dung, thể hiện của tranh. Học sinh cảm nhận được những nét đẹp của cảnh vật, con
người và muốn bày tỏ trao đổi với bạn, với thầy cô.
Để các em làm tốt hoạt động này, trước hết giáo viên chú ý cho học sinh sử dụng
gợi ý trong sách giáo khoa, lắng nghe cô kể, bạn kể để nhớ được các ý chính của nội
dung câu chuyện.
Giáo viên chú trọng về lời văn kể và nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Giáo viên cần
hướng dẫn các em cách chọn lựa, sử dụng từ ngữ, hình ảnh để diễn đạt sao cho dễ hiểu,
sinh động. Có như vậy người nghe đọc sẽ dễ dàng hình dung, tưởng tượng, nắm bắt
được sự việc, suy nhất tình cảm mà các em muốn thể hiện qua bài nói, bài viết. Người
nghe, người đọc tuy không trực tiếp nhìn diện mạo của nhân vật, xem bối cảnh của sự
20
việc qua những hình ảnh miêu tả, so sánh cùng với những tình cảm, thái độ, sự đánh giá
của các em. Đó chính là điểm mạnh của nghệ thuật sử dụng ngôn từ.
Ví dụ: Dạy tập làm văn - tuần 12
Bài tập 2:
Yêu cầu: học sinh viết đoạn văn qua quan sát tranh (ảnh) về một cảnh đẹp ở nước
ta.
Thông qua việc quan sát tranh (ảnh) về một cảnh đẹp ở nước ta, giúp học sinh
nắm nội dung của tranh (ảnh), thấy vẻ đẹp của tranh (ảnh), từ đó các em lựa chọn từ ngữ
thích hợp để nói và viết thành đoạn văn, giúp cho người nghe - đọc tuy không quan sát
tranh (ảnh) nhưng vẫn thấy được vẻ đẹp của danh lam thắng cảnh mà học sinh nói đến.

Thêm vào đó, những yếu tố phi ngôn ngữ như điệu bộ, cử chỉ, ánh mắt, nét mặt,
giọng điệu, của các em khi nói sẽ làm tăng tính hấp dẫn, tính thuyết phục đối với người
nghe. Do đó, giáo viên cũng cần khuyến khích các em rèn luyện khả năng sử dụng
những yếu tố phi ngôn ngữ này.
2.4. Sử dụng linh hoạt các hình thức hoạt động trong tiết dạy tập làm
văn theo hướng đổi mới
Việc tổ chức tốt các hình thức dạy học nhằm cuốn hút học sinh vào các hoạt
động học tập một cách chủ động tích cực.
Giáo viên sử dụng các hình thức tổ chức dạy học như: học sinh thảo luận nhóm,
đàm thoại với nhau và với chính thầy cô hoặc hoạt động cá nhân (độc thoại) về một vấn
đề. Các hình thức tổ chức hoạt động học có thể là: đóng các hoạt cảnh, vận dụng các trò
chơi trong tiết học, các cuộc thi tiếp sức Qua đó học sinh lĩnh hội kiến thức, tích cực,
tự giác "học mà chơi - chơi mà học". Không khí học tập thoải mái khiến học sinh mạnh
dạn, tự tin khi nói. Các em dần có khả năng diễn đạt, phát biểu ý kiến, đánh giá trước
đông người một cách lưu loát, rành mạch, đễ hiểu.
So sánh với phương pháp dạy Tập làm văn lớp 3 truyền thống; mỗi tiết tập làm
văn chú trọng đến mục tiêu là hình thành bài văn theo một đề bài thuộc một thể loại văn
nào đó dưới dạng nói hoặc viết. Tiết học diễn ra theo tiến trình: Giáo viên hướng dẫn
làm bài dựa theo dàn bài thuộc thể loại chung, đưa ra các câu hỏi gợi ý khiến học sinh
dễ nhàm chán, có cảm giác bị bắt buộc theo khuôn mẫu, không khuyến khích học sinh
nói, viết những cảm xúc, nhận xét, đánh giá, sự miêu tả của chính các em.
21
Trong chương trình thay sách giáo khoa lớp 3, mõi tiết Tập làm văn là một hệ
thống bài tập có tính định hướng, gợi mở, với nhiều dạng bài: nghe - nói, nói - viết,
nghe - nói - viết Vì vậy, giáo viên vẫn bám sát mục đích, yêu cầu của tiết dạy, bài dạy
nhưng linh hoạt, chủ động hơn trong cách tổ chức các hoạt động dạy - học, phân bố thời
gian hợp lý, vừa tránh được những nhược điểm nêu trên vừa tạo được không khí học tập
phát huy được tính tích cực, sáng tạo của học sinh.
Ví dụ 1: Tiết tập làm văn (tuần 11) với hệ thống bài tập như sau:
Bài 1: Nghe kể lại câu chuyện "tôi có đọc đâu"

Yêu cầu: Học sinh nghe và kể lại câu chuyện.
Giáo viên sử dụng các hình thưc dạy học:
- Giáo viên kể mẫu nội dung câu chuyện
- Thảo luận theo nhóm, theo cặp, học sinh dựa vào gợi ý, sách giáo khoa, tranh
và việc nghe giáo viên kể để lại nội dung câu chuyện cho nhau nghe.
- Đại diện từng nhóm kể trước lớp.
- Học sinh nhận xét
- Giáo viên nhận xét, bổ sung, cho điểm
Cách tổ chức các hình thức hoạt động nêu trên huy động được tất cả học sinh
tham gia vào hoạt động học tập, tạo được không khí thi đua học tập giữa từng học sinh
với nhau, và giữa các nhóm học sinh.
Bài 2: Nói về quê hương em hoặc nơi em đang ở
Yêu cầu: Học sinh làm việc cá nhân với vở bài tập
Giáo viên sử dụng các hình thức dạy học
- Cá nhân học sinh làm trong vở bài tập
- Học sinh nhận xét bài làm của bạn
- Giáo viên nhận xét, bổ sung, cho điểm
Tóm lại, sử dụng và phối hợp linh hoạt các hình thức dạy Tập làm văn lớp 3 theo
hướng đổi mới tạo được hứng thú học tập cho học sinh, học sinh tham gia các hoạt động
học một cách hào hứng, tích cực, sáng tạo.
Ví dụ 2: Tiết tập làm văn (tuần 22) với hệ thống bài tập
Bài 1: Kể về người lao động trí óc mà em biết
22
- Giáo viên cho học sinh làm việc cá nhân (làm trong vở bài tập)
- Trao đổi nhóm, kể cho nhau nghe về người lao động trí óc.
- Sau khi thống nhất các em cử đại diện nhóm trình bày.
- Học sinh khác nghe nhận xét, bổ sung.
Bài 2: Viết những điều em vừa kể thành đoạn văn
- Học sinh phải biết viết những điều em vừa kể thành đoạn văn với câu văn đúng,
hay, biết sử dụng hình ảnh, từ ngữ phù hợp.

Như vậy, trong một tiết học, học sinh vừa luyện kể (luyện nói), vừa luyện viết
đoạn văn (văn bản), nên việc giáo viên vận dụng linh hoạt các hình thức dạy học trong
dạy Tập làm văn và nhiệm vụ cần thiết.
2.5. Dạy học hướng dẫn vào học sinh và chú trọng hình thức dạy học cá
nhân.
Dạy tập làm văn theo hướng tập trung vào học sinh không phải chỉ tìm ra một
câu trả lời có sẵn mà học sinh phải đưa ra được câu trả lời trên cơ sở suy nghĩ và hiểu
biết của chính các em. Quá trình tư duy đó đòi hỏi học sinh phải vận dụng những vốn tri
thức, hiểu biết phù hợp với vấn đề đặt ra trong câu hỏi; phân tích, sắp xếp những tri thức
đó, đưa ra với vấn đề đặt ra trong câu hỏi; phân tích, sắp xếp những tri thức đó, đưa ra
những kết luận và chọn phương án trả lời tốt nhất. Nói ngắn gọn lại: học sinh tìm ra câu
trả lời qua việc thu thập, sàng lọc thông tin và phân tích dữ kiện.
Ví dụ: Dạy tập làm văn - tuần 5
Bài: Tập tổ chức một cuộc họp
- Học sinh chọn nội dung cuộc họp cho phù hợp
- Xác định đúng mục đích cuộc họp, nguyên nhân của cuộc họp
- Người điều hành cuộc họp thống nhất ý kiến, thống nhất phương án giải quyết
vấn đề, giao việc cho từng thành viên.
Như vậy thông qua một tiết tập làm văn đã phát huy tính độc lập sáng tạo của
học sinh, giáo viên chỉ là người tổ chức, định hướng cho học sinh cách làm bài.
2.6. Dạy học phối kết hợp các hoạt động ngoài giờ lên lớp
Các hoạt động ngoài khoá giúp học sinh có những hiểu biết ngoài kiến thức được
học trong chương trình chính khoá. Do đó việc phối kết hợp với các hoạt động ngoài giờ
23
lên lớp là rất cần thiết. Qua các hoạt động ngoài giờ, học sinh được rèn luyện bằng
nhiều hình thức khác nhau, có nội dung liên quan đến bài học của các em. Giáo viên
giảng dạy cần có sự kết phối hợp chặt chẽ với giáo viên tổng phụ trách, thông qua các
buổi chào cờ nói về gương người tốt việc tốt, tổ chức các hoạt động: thi búp măng xinh,
thi ca hát tập diễn các tiểu phẩm, thi kể chuyện - văn nghệ, thi đọc thơ, thi các môn năng
khiếu

Hoặc thông qua buổi lễ khai giảng học sinh có thể viết những cảm xúc, những kỷ
niệm đẹp của các em về ngày đầu tiên đi học (bài học tuần 6)
Hay qua buổi lễ kết nạp đội viên TNTP Hồ Chí Minh, học sinh có nguyện vọng
viết đơn vào Đội, sinh hoạt trong các câu lạc bộ, tổ chức của Đội Ví dụ: tham dự hội
thi tìm hiểu về Đội.
+ Từ thực tế đó, học sinh sẽ có thêm hiểu biết về Đội TNTP Hồ Chí MInh, giúp
các em viết tốt hơn Đơn xin vào đội (tiết tập làm văn - tuần 2) với yêu cầu:
Em hãy viết đơn xin vào Đội với mẫu in sẵn
2.7. Dạy tập làm văn theo hướng đổi mới ở tất cả các khối lớp
Nội dung kiến thức chương trình sách giáo khoa mới biên soạn theo chủ đề, chủ
điểm, nâng cao dần về mức độ và lượng kiến thức qua từng lớp học. Do đó để đạt được
hiệu quả tốt trong giảng dạy Tập làm văn lớp 3 theo hướng đổi mới cần thực hiện đồng
bộ việc vận dụng đổi mới phương pháp ở tất cả các khối lớp trước (lớp 1 - 2) và tiếp
theo (lớp 4 - 5) Cụ thể .Đối với lớp 1: Dạy học sinh tập nói thành câu, nói theo chủ đề,
nội dung, nhìn tranh nói thành câu.
Đối với lớp 2: Dựa trên nền tảng kiến thức học sinh đạt được ở lớp 1, nâng cao
với mức độ vừa phải: kể lại câu chuyện đã học, nói - viết thành câu, đưa ra các mẫu câu
(Ai là gì? Ai làm gì? Ai như thế nào? ) viết đoạn văn từ 3 đến 5 câu.
Đối với lớp 3: Luyện nghe, luyện nói, luyện viết: mẫu câu rộng, bao quát hơn;
yêu cầu về câu cao hơn; câu đúng ngữ pháp, biết sử dụng biện pháp tu từ, so sánh nhân
hoá, câu văn giàu hình ảnh. Đặc biệt phần luyện viết với số lượng câu văn tăng lên (5 -
7 câu), đã chú ý đến kết cấu đoạn văn và diễn đạt cảm xúc trong câu văn, đoạn văn.
Đối với lớp 4: Học sinh luyện nói câu chuyện đã nghe, đã đọc, xây dựng cốt
truyện có nhân vật, kể chuỵên dựa trên cốt truyện có sẵn hoặc tưởng tượng; luyện viết:
24
câu thành phần phụ, sử dụng biện pháp tu từ, nhân hoá theo nhiều kiểu khác tiến tới viết
thành bài văn.
Đối với lớp 5: Học sinh luyện nói hoàn chỉnh về câu (câu ghép, các kiểu câu
ghép), sử dụng nhiều biện pháp tu từ trong bài viết, viết thành bài văn hoàn chỉnh với số
lượng câu tuỳ theo bố cục nội dung của bài. Học sinh biết bộc lộ cảm xúc trong khi tả,

kể, viết.
Tóm lại, kiến thức ở các lớp có mối quan hệ lôgíc: kế thừa, mở rộng, nâng cao.
Do đó muốn dạy Tập làm văn lớp 3 theo hướng đổi mới còn phải đổi mới tất cả các khối
lớp.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
Qua quá trình nghiên cứu đề tài , chúng tôi đã nhận thấy vai trò và tầm quan
trọng của dạy môn Tập làm văn. Vì vậy chúng tôi dừng lại ở khối 3 mà triển khai áp
dụng vào các khối lớp trong nhà trường, xây dựng tích hợp các kiến thức liên quan với
nhau giữa các môn học. Thông qua dạy thử nghiệm theo hướng trên, chúng tôi đã thu
được rất nhiều kết quả khả quan: học sinh tập hào hứng hơn, mạnh dạn hơn, vốn từ của
học sinh phong phú hơn câu văn giàu hình ảnh. Tiến hành khảo sát theo những tiêu chí
ban đầu đề ra đối với khối lớp 3 đầu tháng 12 - tuần 13 với đề bài.
Viết một bức thư cho bạn ở một tỉnh miền Nam (hoặc miền trung, miền bắc) để
làm quen và hẹn bạn cùng thi đua học tốt.
Kết quả thu được như sau:
Nội dung khảo sát Số học sinh
1. Biết viết câu, dùng từ hợp lý 65/78
2. Biết nói - viết thành câu 59/78
3. Biết dùng từ ngữ, câu văn có hình ảnh 52/78
25

×