Chương 3
CƠ SỞ LÝ THUYẾT CHẨN ĐOÁN
TÌNH TRẠNG KỸ THUẬT CỦA ÔTÔ
I. KHÁI NIỆM VỀ CHẨN ĐOÁN KỸ THUẬT
1. Chẩn đoán kỹ thuật:
• Trong quá trình sử dụng ôtô, trạng thái kỹ thuật của xe bò thay đổi theo chiều
hướng xấu đi. Để xác đònh tình trạng kỹ thuật của xe ta có thể tháo rời các
cụm, các tổng thành để phát hiện hư hỏng. Nếu làm như vậy sẽ phá hỏng trạng
thái tiếp xúc của bề mặt làm việc của các chi tiết máy, ngoài ra còn tăng công
lao động, tăng tổng chi phí lao động kỹ thuật.
• Hiện nay ở nước ta cũng như các nước khác đều dùng máy móc thiết bò để
tiến hành kiểm tra trạng thái kỹ thuật của ôtô, của các cụm, tổng thành… mà
không cần phải tháo rời chúng. Phương pháp xác đònh tình trạng kỹ thuật này
được gọi là phương pháp chẩn đoán kỹ thuật.
• Chẩn đoán kỹ thuật dựa trên hệ thống các quy luật, các tiêu chuẩn đặc trưng
cho trạng thái kỹ thuật của ôtô để phán đoán tình trạng kỹ thuật tốt xấu của
ôtô. Khi chẩn đoán kỹõ thuật do không tháo rời các chi tiết nên không thể trực
tiếp phát hiện hư hỏng mà phải thông qua các triệu chứng để phát hiện gián
tiếp các hư hỏng ở bên trong.
Thí dụ: Để đánh giá độ hao mòn của xéc măng - xi lanh người ta dùng thiết bò
đo lượng khí cháy lọt xuống các te hoặc để đánh giá tình trạng kỹ thuật của hệ
thống phanh ở các bánh xe người ta đo lực phanh ở các bánh xe (hay quãng
đường phanh, …)
2 . Mục đích của chẩn đoán kỹ thuật:
Công nghệ chẩn đoán kỹ thuật ra đời nhằm làm thay đổi và nâng cao chất
lượng của công tác bảo dưỡng kỹ thuật.
- 64 -
Nó đánh giá trạng thái kỹ thuật của đối tượng được kiểm tra một cách chính
xác, khách quan và nhanh chóng, nâng cao tính tin cậy của xe, dự báo được
khả năng hoạt động an toàn của đối tượng được kiểm tra và quyết đònh các
phương án bảo dưỡng, sửa chữa kòp thời những hư hỏng đã phát hiện, thế nên
sẽ tăng được khả năng an toàn trong giao thông.
Nâng cao được tuổi bền, giảm chi phí do không phải tháo lắp và giảm được
hao mòn của chi tiết.
Do phát hiện kòp thời những biến xấu kỹ thuật, kòp thời điều chỉnh các bộ phận
nhất là hệ thống cung cấp nhiên liệu làm giảm tiêu hao nhiên liệu, dầu nhờn
nên giảm giá thành vận chuyển.
Ngày nay chẩn đoán kỹ thuật đã trở thành một phương pháp chính để kiểm tra
trạng thái kỹ thuật của ôtô, của tổng thành mà không phải tháo rời nó, đã trở
thành một yếu tố công nghệ bảo dưỡng và sửa chữa ôtô.
3 . Vò trí công tác chẩn đoán kỹ thuật trong dây chuyền bảo dưỡng và sửa chữa
ôtô:
• Chẩn đoán trạng thái kỹ thuật của ôtô là một khâu quan trọng trong quá
trình sản xuất của một xí nghiệp vận tải ôtô, nhằm bảo đảm chất lượng và
hạ giá thành bảo dưỡng, sửa chữa. Dựa vào kết quả của chẩn đoán có thể
hiệu chỉnh lại chu kỳ bảo dưỡng, sửa chữa cho phù hợp. Như vậy, sử dụng
tốt chẩn đoán kỹ thuật kết hợp với bảo dưỡng, sửa chữa sẽ giảm bớt cường
độ lao động, hạ giá thành vận chuyển.
• Vì vậy để phát hiện, phân loại những xe ôtô có nhiều hư hỏng người ta phải
tiến hành chẩn đoán kỹ thuật trước khi đưa vào bảo dưỡng để phân biệt khối
lượng công việc sửa chữa và công việc bảo dưỡng riêng biệt. Bố trí theo
cách này có thể giảm chi phí bảo dưỡng kỹ thuật và sửa chữa thường xuyên
khoảng 15% và năng suất lao động tăng lên gấp đôi.
• Người ta có thể bố trí chẩn đoán kỹ thuật trước bảo dưỡng kỹ thuật cấp I,
cấp II lúc này nhiệm vụ của chẩn đoán kỹ thuật trước các cấp bảo dưỡng là
- 65 -
khác nhau. Người ta dựa vào kết quả của chẩn đoán kỹ thuật mà xử lý các
hư hỏng của ôtô tại các vò trí sửa chữa, sau đó đưa vào vò trí bảo dưỡng.
• Các vò trí chẩn đoán và bảo dưỡng kỹ thuật, sửa chữa thường xuyên, thường
bố trí theo sơ đồ dây chuyền sau :
Vò trí chờ sửa
Chẩn đoán tổng
quát trước BD-I
Chẩn đoán tổng
quát trước BD-II
Sửa chữa thường
xuyên
BD-II
bảo dưỡng cấp II
BD – I
bảo dưỡng cấp I
Chờ xuất xưởng
Cầu rửa xe
Kiểm tra
Hình 1. Dây chuyền sản xuất trong xí nghiệp bảo dưỡng ôtô
Theo cách bố trí này, ôtô sau khi qua kiểm tra (kiểm tu) sẽ đến cầu rửa xe để
làm vệ sinh xe sạch sẽ, đến vò trí chờ sửa, sau đó tùy theo kết quả quan sát, theo
hành trình km xe đã chạy được đến một trong hai dây chuyền chẩn đoán trước
bảo dưỡng sửa chữa, tuỳ theo tình trạng sau chẩn đoán mà xe được đến một
trong ba dây chuyền bảo dưỡng, sửa chữa. Sau đó xe được đưa vào khu vực chờ
xuất xưởng.
Tuy phân theo tuyến bảo dưỡng, nhưng các tuyến quan hệ chặt chẽ với nhau
được điều hành chung bởi phòng kỹ thuật.
- 66 -
4 . Phương hướng phát triển của chẩn đoán kỹ thuật:
Sự phát triển của khoa học chẩn đoán gắn liền với sự hoàn thiện của các
thiết bò chẩn đoán. Ngày nay xu hướng sử dụng chẩn đoán kỹ thuật kết hợp với
quá trình hoàn thiện kỹ thuật bảo dưỡng và sửa chữa đang được chú ý đặc biệt,
chẩn đoán kỹ thuật ngày càng hoàn thiện và phát huy vai trò quan trọng của nó.
Hiện nay chẩn đoán kỹ thuật phát triển theo một số hướng sau:
-
Ứng dụng những tiến bộ kỹ thuật mới: Nhằm cải tiến, hiện đại hóa những
thiết bò cũ đã có (để tận dụng số thiết bò cũ này).
-
Hoàn thiện các phương pháp và thiết bò chẩn đoán hiện đại: Các bộ đầu đo,
các bộ chuyển đổi, các bộ xử lý…
-
Tự động hoá quá trình chẩn đoán: Ôtô bao gồm nhiều tổng thành, nhiều hệ
thống phức tạp, để xác đònh hàng trăm thông số đã mất nhiều thời gian, việc
tự động hóa quá trình chẩn đoán sẽ tăng độ chính xác và rút ngắn được thời
gian .
-
Sử dụng máy tính điện tử: Người ta sử dụng máy tính điện tử để theo dõi sự
hoạt động của các chi tiết, các cụm, các tổng thành trong ôtô. Nội dung của
chương trình được sắp xếp, mã hóa về chế độ chẩn đoán, xử lý trên máy tính
điện tử nó thể hiện dưới dạng đóa, băng hoặc hiển thò trên màn hình…
Trong sửa chữa chẩn đoán kỹ thuật phải phát hiện được nguyên nhân sinh ra
sự cố hư hỏng từ đó xác đònh biện pháp kỹ thuật để khắc phục tình trạng hư hỏng
ấy. Dựa vào kết quả nghiên cứu của các nước với đặc điểm của từng đơn vò
người ta có thể bố trí chẩn đoán kỹ thuật trong quy trình công nghệ bảo dưỡng,
sửa chữa ôtô theo hai phương án:
+ Chẩn đoán kỹ thuật cùng với bảo dưỡng kỹ thuật và sửa chữa
+ Chẩn đoán kỹ thuật trên một trạm riêng.
- 67 -
Theo phương án thứ nhất, tiến hành chẩn đoán kỹ thuật để khắc phục các sự
cố hoặc hư hỏng được phát hiện trong quá trình chẩn đoán kỹ thuật hoặc xác
đònh thông số để dự đoán độ tin cậy trong quá trình sử dụng sắp tới. Hiện nay đại
bộ phận các đơn vò ở VN đang sử dụng phương án này, công tác chẩn đoán kỹ
thuật được tiến hành ngay trên dây chuyền bảo dưỡng cấp I, cấp II.
Theo phương án này khi ôtô ra xưởng được làm đầy đủ những nội dung trong
bảo dưỡng và dự báo độ tin cậy trong thời gian làm việc sau đó.
Phương án thứ hai chỉ đơn thuần chẩn đoán nhanh tình trạng kỹ thuật của
ôtô, chẩn đoán này nhằm dự báo thường xuyên độ tin cậy của ôtô. Việc đưa ôtô
đi bảo dưỡng sửa chữa được làm ở nơi khác. Trong trạm chẩn đoán kỹ thuật ở
Mỹ chỉ đơn thuần là chẩn đoán kỹ thuật ôtô, không chỉ đònh phương pháp điều
chỉnh hay sửa chữa.
II. XÁC ĐỊNH CÁC THÔNG SỐ ĐẶC TRƯNG DÙNG TRONG CHẨN ĐOÁN
KỸ THUẬT
Một ôtô gồm rất nhiều chi tiết được lắp ghép với nhau tạo thành cụm, tổng
thành … để thành xe được gọi là kết cấu. Có loại kết cấu thể hiện mối tương
quan giữa các tổng thành, các cụm trong xe, trong quá trình sử dụng kết cấu này
không thay đổi. Có loại kết cấu thể hiện mối quan hệ tương hỗ, độ bền, độ bóng,
độ cứng bề mặt chi tiết … trong quá trình sử dụng loại kết cấu này thay đổi. Mỗi
đối tượng có kết cấu cụ thể, có chức năng cụ thể như vò trí tương quan giữa các
chi tiết trong tổng thành, cách lắp ghép các chi tiết với nhau, sự tác dụng tương
hỗ giữa chúng…
1. Thông số chẩn đoán:
Trong quá trình sử dụng, đặc tính kỹ thuật của ôtô thay đổi và các sự cố kỹ
thuật của ôtô xuất hiện dưới dạng này hay dạng khác, nhưng các sự cố kỹ thuật
có thể phân làm bốn dạng sau:
- 68 -
a) Hư hỏng do kết cấu:
Bao gồm các dạng hư hỏng phát sinh theo qui luật trùng lặp nhiều lần giống
nhau, thường hư hỏng ở một vò trí nhất đònh. Hư hỏng thuộc về nhóm này chi tiết
thường bò gãy, rạn nứt do sức bền kém, ứng suất tập trung, do thiết kế sai…
b) Hư hỏng do công nghệ:
Bao gồm những hư hỏng do các yếu tố công nghệ như không bảo đảm độ
bóng, độ cứng bề mặt, nhiệt luyện sai…
c) Hư hỏng do lão hóa:
Do ôtô sử dụng quá thời gian qui đònh các chi tiết máy bò hao mòn nhanh,
không có khả năng điều chỉnh phục hồi. Đây là dạng hư hỏng tự nhiên tuân theo
qui luật hao mòn trong quá trình làm việc .
d) Hư hỏng do vận hành:
Bao gồm những hư hỏng do vi phạm qui tắc vận hành xe như: thiếu dầu mỡ
bôi trơn, xe chở quá tải… Có rất nhiều nguyên nhân gây ra sự cố hư hỏng, tùy
theo tình trạng sử dụng, tình trạng bảo dưỡng sửa chữa mà nguyên nhân gây ra
sự cố cũng thay đổi, các biểu hiện sự cố cũng rất đa dạng. Do đó việc chọn các
tham số chẩn đoán, các phương pháp chẩn đoán có một ý nghóa hết sức quan
trọng trong quá trình nghiên cứu, áp dụng kỹ thuật chẩn đoán .
Vấn đề liên quan đến phương tiện chẩn đoán là chọn và xác đònh số lượng
các tham số lấy làm cơ sở sử dụng trong chẩn đoán như các tham số độ lớn, đặc
điểm của đối tượng, các hệ thống và các quá trình làm việc của đối tượng chẩn
đoán .
- 69 -
Trong chẩn đoán kỹ thuật trước tiên phải xét đến thông số kết cấu và đặc
điểm của các đối tượng liên quan trong quá trình làm việc. Các thông số kết cấu
(thông số trạng thái kỹ thuật) là những đại lượng vật lý như: kích thước (độ dài,
diện tích, thể tích…), cơ học (lực, áp suất, tần số, biên độ…), điện (vôn, ampe…),
nhiệt (calo, độ …), âm thanh …
Quá trình sử dụng các thông số kết cấu biến đổi từ giá trò ban đầu đến giá trò
giới hạn mới hỏng.
- Giá trò ban đầu của thông số kết cấu được tính toán theo yêu cầu kỹ thuật của
nhà chế tạo.
- Giá trò cho phép của thông số kết cấu là ranh giới xuất hiện hư hỏng, tính
năng sử dụng bắt đầu giảm, tình trạng kỹ thuật bắt đầu trục trặc nhưng vẫn
còn khả năng làm việc.
- Giá trò giới hạn của thông số kết cấu là tổng thành hoặc ôtô mất hoàn toàn
khả năng làm việc.
Trong nhiều trường hợp không thể thực hiện được việc đo đạc các thông số
kết cấu khi không tháo rời các bộ phận ra khỏi xe. Vì vậy việc thông tin về tình
trạng kỹ thuật của các chi tiết, cụm, tổng thành… dựa vào các thông số thể hiện
trong quá trình làm việc của các bộ phận này của ôtô. Các thông số quá trình thể
hiện ra bên ngoài được gọi là thông số chẩn đoán.
2. Phương pháp xác đònh thông số chẩn đoán:
Trong quá trình làm việc trạng thái kỹ thuật của kết cấu thể hiện ở rất nhiều
mặt và nằm trong một dãi rộng từ tốt đến không tốt. Trong chẩn đoán kỹ thuật
chỉ khảo sát hai đặc trưng tổng quát là tốt và không tốt. Mỗi điểm không tốt sẽ
xác đònh một sự sai lệch của thông số kết cấu so với trò số giới hạn cho phép,
- 70 -
được thể hiện qua các triệu chứng trong thời gian làm việc của ôtô. Ở đây, ta chỉ
khảo sát những thông số nằm trong giới hạn cho phép, quá trình xác đònh các
thông số như sau:
+ Trước hết phải phân tích các sự cố, hư hỏng theo các số liệu thống kê. Qua
phân tích sẽ xác đònh được độ tin cậy của các bộ phận, hệ thống của ôtô.
+ Phân tích sự cố tiến hành theo các bước:
- Xác đònh các tính năng làm việc của các tổng thành, cụm cần chẩn đoán,
nghiên cứu đặc điểm quá trình làm việc và tác dụng tương hỗ giữa các bộ
phận.
- Chú ý đến các đặc điểm lắp ghép giữa các tổng thành, cụm, các bề mặt lắp
ghép sẽ bò mòn, các thông số kết cấu sẽ bò sai lệch trong quá trình làm việc,
do đó trạng thái kỹ thuật bò xấu đi so với ban đầu.
- Các thông số kết cấu nó xác đònh sự tác dụng tương hỗ giữa các bộ phận và
bề mặt lắp ráp.
- Đề cập đến các hư hỏng có thể xảy ra, xác đònh các thông số này trên cơ sở
phân tích các số liệu thống kê các hư hỏng của tổng thành, cụm…
- Các hư hỏng trên thể hiện ra bên ngoài, ngoại trừ triệu chứng.
Để đánh giá các triệu chứng, người ta phải nghiên cứu tổng hợp nhiều triệu
chứng và hàng loạt các hư hỏng dùng trong chẩn đoán có các lượng thông tin
khác nhau.
- Xác đònh (sơ bộ) các thông số dùng trong kiểm tra, trong quá trình chẩn đoán
Các thông số này phải có tính ổn đònh cao khi điều kiện làm việc của đối tượng
chẩn đoán thay đổi.
Những bước trên có thể tóm tắt thành dạng sơ đồ khối sau:
- 71 -
Các thông số kết cấu của cụm, tổng
Sự lắp ghép của cụm, tổng thành…
Tính năng của cụm, tổng thành…
Thông số chẩn đoán
Hư hỏng
Triệu chứng
Muốn chẩn đoán thu được kết quả chính xác và có độ tin cậy cao ta phải tiến
hành thực nghiệm trong phòng thí nghiệm và nghiên cứu thực nghiệm trên hiện
trường nhiều lần, nhiều mẫu khác nhau… để chọn một cách đúng đắn các thông
số đảm bảo đúng hư hỏng có thể xảy ra và có khối lượng tin tức nhiều nhất.
3. Tiêu chuẩn và các loại tiêu chuẩn chẩn đoán:
Các thông số chẩn đoán cũng có tiêu chuẩn để đánh giá tình trạng kỹ thuật
của xe, các giá trò ban đầu (S
O
), giá trò cho phép (S
cp
), giá trò giới hạn (S
gh
).
Giả sử hàm S = f(l) là tuyến tính:
S : thông số chẩn đoán
l : quãng đường xe chạy (km)
- 72 -
Hình 2. Sơ đồ cấu thành tiêu chuẩn chẩn đoán
Ta có thể thiết lập mối quan hệ của hàm trên như hình sau:
Đoạn (1) giữa S
O
-S
gh
: biểu thò trạng thái hoạt độâng của xe
Đoạn (2) giữa S
cp-
S
gh
: phạm vi dự trữ cho trạng thái hoạt động phù hợp với
kiểm tra giữa kỳ.
Đoạn (3) ngoài S
gh :
phạm vi xe hư hỏng.
Từ sơ đồ trên ta thấy tại A: là thời điểm chẩn đoán (dự báo hư hỏng)
B: là thời điểm xuất hiện trục trặc
C: là xe hỏng (tổng thành hỏng).
Trong chẩn đoán người ta thường sử dụng một số tiêu chuẩn:
Tiêu chuẩn nhà nước: Thường liên quan đến an toàn giao thông, ô nhiễm
môi trường… những tiêu chuẩn này để đo trực tiếp. Thường qui đònh các
giá trò lớn hơn, nhỏ hơn hoặc bằng đònh mức. Thí dụ: độ ồn cho phép phải
nhỏ hơn (hoặc bằng) đònh mức, lực phanh phải lớn hơn (hoặc bằng) đònh
mức…
Tiêu chuẩn nhà chế tạo: Dựa trên dung sai chế tạo các chi tiết, các chỉ
tiêu độ bền, tính tin cậy… của xe đã thử nghiệm. Thí dụ: Khe hở cặp tiếp
điểm má vít, khe hở giữa bạc và trục, khe hở giữa piston và xi lanh.
- 73 -
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC THÔNG SỐ TRONG HỆ THỐNG CHẨN
ĐOÁN – CÁC QUÁ TRÌNH CHẨN ĐOÁN KỸ THUẬT
1. Mối quan hệ giữa các thông số trong hệ thống chẩn đoán:
Trạng thái kỹ thuật của các cơ cấu (các thông số) quyết đònh khả năng làm
việc của chúng trong quá trình vận hành. Sau một thời gian làm việc các thông
số bò thay đổi từ trò số tiêu chuẩn (trò số tối ưu) đến trò số giới hạn cho phép. Việc
xác đònh trạng thái kỹ thuật của ôtô không đòi hỏi phải tháo rời các cụm chính là
việc xác đònh xu hướng thay đổi các thông số đó, các thay đổi này bao giờ cũng
thể hiện ra những triệu chứng bên ngoài.
Thí dụ: Những rung động, thay đổi về độ kín, nhiệt độ, áp suất, độ rơ…
Hầu hết các thể hiệân đều có thể dùng làm cơ sở chẩn đoán. Một số các thể
hiện khác biểu thò thông qua quá trình (như nhiệt độ, độâ rung động…). Các dấu
hiệu này đặc trưng cho trạng thái kỹ thuật của riêng từng yếu tố của tổng thành.
Một số những dấu hiệu có thể đo được khi cụm hoặc tổng thành không làm việc
(độ rơ, độ đảo…).
Mỗi đối tượng chẩn đoán có rất nhiều thông số kết cấu, đồng thời cũng có rất
nhiều thông số chẩn đoán. Muốn lập mối quan hệ giữa các thông số chẩn đoán
người ta phải xác đònh các hư hỏng, tìm thông số chẩn đoán bằng cách lập sơ đồ
điều tra kết cấu như hình vẽ. Sau đây giới thiệu cách lập mối quan hệ giữa thông
số kết cấu với triệu chứng và thông số chẩn đoán.
- 74 -
Hình 3. Mô hình quan hệ điều tra kết cấu giữa thông số kết cấu, triệu chứng và thông
số chẩn đoán của nhóm xi lanh - piston
Ô tô là tổng hợp của nhiều cụm, nhiều hệ thống, tổng thành … rất phức tạp
và quan hệ giữa thông số kết cấu và thông số chẩn đoán là quan hệ hỗn hợp.
Với những kết cấu đơn giản là mối quan hệ đơn (một giá trò kết cấu có một
giá trò chẩn đoán)
Với những kết cấu phức tạp hoặc có quan hệ đan xen lẫn nhau như:
• Thông số kết cấu là độ mòn xéc măng, có thể có nhiều thông số chẩn
đoán như: giảm áp suất cuối tầm nén, dầu nhờn sục lên buồng cháy làm
khói xả đen, khí cháy lọt xuống các te tăng…
• Hoặc có khi một thông số chẩn đoán như: giảm áp suất cuối tầm nén lại
liên quan đến nhiều thông số kết cấu như: mòn xéc măng – xi lanh, kênh
xupáp, hở gioăng đệm nắp máy… .
- 75 -
Để giải những bài toán phức tạp này người ta lập các ma trận chẩn đoán
hoặc các máy tính điện tử trợ giúp.
2. Quá trình chung của chẩn đoán kỹ thuật:
a) Khái niệm:
Quá trình chung của chẩn đoán kỹ thuật bao gồm:
- Chương trình chẩn đoán.
- Đo các thông số chẩn đoán.
- Xử lý các thông tin.
- Đánh giá kết quả chẩn đoán.
¾ Trong đó chương trình chẩn đoán chính là nội dung của chẩn đoán. Nội dung
của chẩn đoán phải thể hiện được nhiều nhất trạng thái kỹ thuật của tổng
thành, cụm, của xe với chi phí hợp lý. Nội dung của chẩn đoán có thể thực
hiện trên bệ thử hoặc khi xe đang hoạt động. Thông qua nội dung chẩn đoán
hợp lý sẽ đánh giá đúng các hư hỏng của xe .
¾ Đo các thông số chẩn đoán bằng các bộ cảm biến, các đầu đo khác nhau
như: điện từ, thủy lực, thủy khí… Thường người ta dùng hai loại: loại gắn cố
đònh với các bộ phận cần đo trên xe như: cảm biến đo nhiệt độ nước làm
mát, áp suất dầu bôi trơn, áp suất bình chứa khí nén, đo tốc độ gió ở họng
nạp…; loại cảm biến chỉ gắn vào xe khi dùng thiết bò đo như: góc đánh lửa
của động cơ, góc phun sớm, tốc độ quay của trục khuỷu…
¾ Các thông tin nhận được từ các bộ cảm biến phải được truyền về bộ tiếp
nhận, khuếch đại thông tin, lọc nhiễu… và đến bộ xử lý kết quả đo.
Bộ xử lý thiết bò đo làm việc theo nguyên tắc: so sánh giá trò đo với giá trò
tiêu chuẩn chẩn đoán. Nếu kết quả đo nằm trong phạm vi tiêu chuẩn thì xe
được phép sử dụng đến đợt kiểm tra sau, nếu vượt quá phạm vi tiêu chuẩn
thì xe phải vào bảo dưỡng sửa chữa.
- 76 -
b) Các quá trình chẩn đoán kỹ thuật:
Các tổng thành, ôtô và một số đối tượng chẩn đoán phức tạp. Để chẩn đoán
tốt tình trạng kỹ thuật của nó người ta có thể sử dụng các phương pháp như:
- Quá trình chẩn đoán theo phương pháp tổng hợp.
- Quá trình chẩn đoán theo phương pháp phân tích.
- Dùng thuật toán chẩn đoán.
Nói chung các quá trình chẩn đoán theo phương pháp nào cũng cần phải
dùng các bộ cảm biến, theo phương pháp tổng hợp dùng nhiều bộ cảm biến
nhiều chức năng khác nhau, theo phương pháp phân tích thì mỗi bộ cảm biến
đảm nhiệm nhiều chức năng khác nhau… Khi chẩn đoán chuyên sâu hoặc tổng
hợp, các bộï cảm biến sẽ nhận thông tin qua các thay đổi về thông số kết cấu thể
hiện bởi các triệu chứng, rồi đưa đến bộ xử lý, khuếch đại, lọc nhiễu, so sánh và
đưa ra kết quả chẩn đoán.
Hiện nay dùng nhiều quá trình chẩn đoán theo phương pháp tổng hợp: dùng
nhiều bộ cảm biến và trợ giúp của máy tính điện tử để nhận và xử lý thông tin
rồi thông báo kết quả chẩn đoán trên màn hình hiển thò.
- 77 -