Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

phân biệt chế độ pháp lý của cơ quan lãnh sự quán với đại sứ quán

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.16 KB, 3 trang )

1

Phân biệt chế độ pháp lý của cơ quan Lãnh sự
quán với Đại sứ quán.
Phạm Thanh Hữu
Trong đời sống quốc tế quan hệ lãnh sự là một quan hệ đặc thù, gắn bó
mật thiết với quan hệ ngoại giao nhưng có những điểm khác biệt và có
sự độc lập nhất định với quan hệ ngoại giao. Chính vì lẽ đó, chế độ
pháp lý của cơ quan lãnh sự và đại sứ quán cũng có những điểm khác
nhau. Chúng ta dễ dàng thấy được chúng khác nhau ở những khía cạnh
sau:
Một là, về không gian tác động: Đại sứ quán là cơ quan đại diện của
một nước tại một nước khác. Còn lãnh sự quán là cơ quan đại diện của
một nước tại một khu vực nhất định của một nước khác. Tại một nước
Đại sứ quán chỉ là một hoặc không có còn Lãnh sự quán có thể là một,
không có hoặc rất nhiều. Đại sứ quán thực hiện quan hệ ngoại giao còn
Lãnh sự quán thực hiện quan hệ lãnh sự.
Hai là, về lĩnh vực tác động: Cơ quan lãnh sự chủ yếu thực hiện các
hoạt động ngoại giao mang tính chất hành chính pháp lý. Đó chỉ là một
phần nhỏ trong những chức năng của Đại sứ quán. Theo khoản 1 điều 3
công ước Viên 1961 về quan hệ ngoại giao thì Đại sứ quán có những
chức năng: đại diện cho nước mình tại nước sở tại; bảo vệ quyền lợi của
nước mình và công dân của nước mình tại nước sở tại; tìm hiểu bằng
mọi cách hợp pháp các điều kiện và các sự kiện tại nước sở tại và báo
cáo chính phủ của nước mình; thúc đẩy quan hệ hữu nghị và phát triển
quan hệ kinh tế, văn hóa khoa học giữa nước mình với nước sở tại. Và
2

trong thực tiễn đời sống quốc tế hiện nay thì Đại sứ quán cũng có thể
thực hiện cả chức năng lãnh sự, vậy nên trong Đại sứ quán của các
nước thường có phòng Lãnh sự. Với những lý do trên nên hệ quả tất


yếu là các quyền ưu đãi và miễn trừ của cơ quan lãnh sự về cơ bản là
giống Đại sứ quán nhưng ở mức độ thấp hơn.
Ba là, thời điểm xác lập và chấm dứt của Đại sứ quán và Lãnh sự quán
cũng có những khác biệt nhất định. Và có thể dẫn ra những ví dụ đặc
biệt như sau: thông thường nếu không có thỏa thuận nào khác thì việc
thiết lập quan hệ ngoại giao bao gồm cả thiết lập quan hệ lãnh sự. Tuy
nhiên các bên cắt đứt quan hệ ngoại giao thì quan hệ lãnh sự không bị
cắt đứt. Đồng thời, trong nhiều trường hợp quan hệ lãnh sự được thiết
lập giữa các quốc gia không có quan hệ ngoại giao với nhau (ví dụ:
trong việc công nhận quốc gia hoặc Chính phủ de – facto).
Bốn là, có thể nhìn nhận chung, ngắn gọn và rõ ràng nhất thì Đại sứ
quán có chức năng “rộng”, địa vị “cao” hơn Lãnh sự quán.
Ngày 6 tháng 1 năm 2011
Lưu ý: Bài viết chỉ mang tính chất tham khảo
Nguồn:Phạm Thanh Hữu sinh viên Khoa Luật–Đại học Kinh tế–Luật.




×