Tải bản đầy đủ (.doc) (40 trang)

tài liệu về cán cân thanh toán quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (479.35 KB, 40 trang )


LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang là xu thế của thời đại và diễn ra ngày
càng sâu rộng về nội dung, quy mô trên nhiều lĩnh vực. Trong xu thế đó, quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã diễn ra từ lâu, kể từ khi Việt
Nam khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện đất nước vào năm 1986. Việt
Nam đã gia nhập khối ASEAN năm 1995; tham gia vào khu vực mậu dịch tự do
ASEAN (AFTA) năm 1996; ký Hiệp định thương mại song phương Việt Nam -
Hoa Kỳ năm 2000 và ký kết các hiệp định thúc đẩy quan hệ thương mại, đầu tư
song và đa phương khác. Đặc biệt từ năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành
thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), là mốc son quan
trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, đánh dấu cho việc
hội nhập ngày càng sâu rộng với thị trường quốc tế nói chung và trong lĩnh vực
tài chính ngân hàng nói riêng. Để nắm bắt được những cơ hội cũng như chủ
động đối phó với các thách thức trong quá trình hội nhập, Việt Nam đã và đang
tiến hành cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Để có thêm kiến thức về vấn đề
này, chúng ta sẽ tìm hiểu về cán cân thanh toán của Việt Nam và các nguyên
nhân cũng như giải pháp cho sự thâm hụt cán cân thương mại quốc tế của Việt
Nam.

Trang 1

I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ
1. Khái niệm và ý nghĩa kinh tế của cán cân thanh toán quốc tế
(CCTTQT)
1.1 Khái niệm
Cán cân thanh toán quốc tế (balance of payment) được hiểu là bảng kế toán
tổng hợp các luồng vận động về hàng hoá dịch vụ , tư bản… của một quốc gia
với phần còn lại của thế giới trong từng thời kỳ nhất định. Những giao dịch này
có thể được tiến hành bởi các cá nhân, các doanh nghiệp cư trú trong nước hay
chính phủ của quốc gia đó. Đối tượng giao dịch bao gồm các loại hàng hóa, dịch


vụ, tài sản thực, tài sản tài chính, và một số chuyển khoản. Thời kỳ xem xét có
thể là một tháng, một quý, song thường là một năm. Những giao dịch đòi hỏi sự
thanh toán từ phía người cư trú trong nước tới người cư trú ngoài nước được ghi
vào bên tài sản nợ. Các giao dịch đòi hỏi sự thanh toán từ phía người cư trú ở
ngoài nước cho người cư trú ở trong nước được ghi vào bên tài sản có.
Vậy, cán cân thanh toán quốc tế là một bản đối chiếu giữa các khoán tiền
thu được từ nước ngoài với các khoản tiền trả cho nước ngoài của một quốc gia
trong một thời kỳ nhất định.
Theo Nghị định số 164/1999/NĐ-CP ngày 16/11/2009 của Chính phủ về
quản lý cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam, Cán cân thanh toán quốc tế
của Việt Nam được quy định là bảng tổng hợp có hệ thống toàn bộ các chỉ tiêu
về giao dịch kinh tế giữa Người cư trú và Người không cư trú trong một thời kỳ
nhất định. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được giao là cơ quan chịu
trách nhiệm chủ trì lập, theo dõi và phân tích cán cân thanh toán.
1.2 Ý nghĩa kinh tế của CCTTQT.
Thực chất của cán cân thanh toán quốc tế là một tài liệu thống kê, có mục
đích cung cấp sự kê khai đầy đủ dưới hình thức phù hợp với yêu cầu phân tích
những quan hệ kinh tế tài chính của một nước với nước ngoài trong một thời

Trang 2

gian xác định. Do đó, CCTTQT là một trong những công cụ quan trọng trong
quản lý kinh tế vĩ mô. Thông qua, cán cân thanh toán trong một thời kỳ, Chính
phủ của mỗi quốc gia có thể đối chiếu giữa những khoản tiền thực tế thu được từ
nước ngoài với những khoản tiền mà thực tế nước đó chi ra cho nước ngoài
trong một thời kỳ nhất định. Từ đó, đưa ra các quyết sách về điều hành kinh tế vĩ
mô như chính sách tỷ giá, chính sách xuất nhập khẩu.
Ngoài ra, CCTT là công cụ đánh giá tiềm năng kinh tế của một quốc gia,
giúp các nhà hoạch định kinh tế có định hướng đúng đắn. Cán cân thanh toán
bộc lộ rõ ràng khả năng bền vững, điểm mạnh và khả năng về kinh tế bằng việc

đo lường chính xác kết quả xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ của đất nước
đó.
CCTT còn được sử dụng như một chỉ số về kinh tế và tính ổn định chính
trị. Ví dụ, nếu một nước có thặng dư cán cân thanh toán có nghĩa là có nhiều đầu
tư từ nước ngoài đáng kể vào nước đó hoặc cũng có thể là nước đấy không xuất
khẩu nhiều tiền tệ ra nước ngoài dẫn đến sự tăng giá của giá trị đồng nội tệ so
với ngoại tệ.
2. Kết cấu và các cán cân bộ phận của cán cân thanh toán quốc tế
2.1. Các thành phần của cán cân thanh toán
Theo quy tắc mới về biên soạn biểu cán cân thanh toán do IMF đề ra năm
1993, cán cân thanh toán của một quốc gia bao gồm bốn thành phần sau:
• Tài khoản vãng lai: Tài khoản vãng lai ghi lại các giao dịch về hàng hóa,
dịch vụ và một số chuyển khoản.
• Tài khoản vốn : Tài khoản vốn ghi lại các giao dịch về tài sản thực và tài
sản tài chính.
• Thay đổi trong dự trữ ngoại hối nhà nước
• Mức tăng hay giảm trong dự trữ ngoại hối của ngân hàng trung ương. Do
tổng của tài khoản vãng lai và tài khoản vốn bằng 0 và do mục sai số nhỏ,
nên gần như tăng giảm cán cân thanh toán là do tăng giảm dự trữ ngoại

Trang 3

hối tạo nên.
• Mục sai số
Do ghi chép đầy đủ toàn bộ các giao dịch trong thực tế, nên giữa phần ghi
chép được và thực tế có thể có những khoảng cách. Khoảng cách này được ghi
trong cán cân thanh toán như là mục sai số.
2.2. Các bộ phận của cán cân thanh toán
• Cán cân vãng lai (current balance)
• Cán cân vốn (capital balance)

• Cán cân bù đắp chính thức (official finacing balance)
• Cán cân cơ bản (basic balance)
• Cán cân tổng thể (overall balance)
2.2.1. Cán cân vãng lai
Tài khoản vãng lai (còn gọi là cán cân vãng lai) trong cán cân thanh toán
của một quốc gia ghi chép những giao dịch về hàng hóa và dịch vụ giữa người
cư trú trong nước với người cư trú ngoài nước. Những giao dịch dẫn tới sự thanh
toán của người cư trú trong nước cho người cư trú ngoài nước được ghi vào bên
"nợ" (theo truyền thống kế toán sẽ được ghi bằng mực đỏ). Còn những giao dịch
dẫn tới sự thanh toán của người cư trú ngoài nước cho người cư trú trong nước
được ghi vào bên "có" (ghi bằng mực đen). Thặng dư tài khoản vãng lai xảy ra
khi bên có lớn hơn bên nợ.
Theo quy tắc mới về biên soạn báo cáo cán cân thanh toán quốc gia do IMF
soạn năm 1993, tài khoản vãng lai bao gồm:
● Cán cân thương mại hàng hóa
Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh
toán quốc tế. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và
nhập khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc
năm) cũng như mức chênh lệch (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) giữa chúng. Khi
mức chênh lệch là lớn hơn 0, thì cán cân thương mại có thặng dư. Ngược lại, khi

Trang 4

mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán cân thương mại có thâm hụt. Khi mức chênh
lệch đúng bằng 0, cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng.
Cán cân thương mại còn được gọi là xuất khẩu ròng hoặc thặng dư thương
mại. Khi cán cân thương mại có thặng dư, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại
mang giá trị dương. Khi cán cân thương mại có thâm hụt, xuất khẩu ròng/thặng
dư thương mại mang giá trị âm. Lúc này còn có thể gọi là thâm hụt thương mại.
Tuy nhiên, cần lưu ý là các khái niệm xuất khẩu, nhập khẩu, xuất khẩu ròng,

thặng dư/thâm hụt thương mại trong lý luận thương mại quốc tế rộng hơn các
trong cách xây dựng bảng biểu cán cân thanh toán quốc tế bởi lẽ chúng bao gồm
cả hàng hóa lẫn dịch vụ.
Các yếu tố ảnh hưởng đến cán cân thương mại:
+ Nhập khẩu: có xu hướng tăng khi GDP tăng và thậm chí nó còn tăng
nhanh hơn. Sự gia tăng của nhập khẩu khi GDP tăng phụ thuộc xu hướng nhập
khẩu biên (MPZ). MPZ là phần của GDP có thêm mà người dân muốn chi cho
nhập khẩu. Ví dụ, MPZ bằng 0,2 nghĩa là cứ 1 đồng GDP có thêm thì người dân
có xu hướng dùng 0,2 đồng cho nhập khẩu. Ngoài ra, nhập khẩu phụ thuộc giá
cả tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước và hàng hóa sản xuất tại nước
ngoài. Nếu giá cả trong nước tăng tương đối so với giá thị trường quốc tế thì
nhập khẩu sẽ tăng lên và ngược lại. Ví dụ: nếu giá xa đạp sản xuất tại Việt Nam
tăng tương đối so với giá xe đạp Nhật Bản thì người dân có xu hướng tiêu thụ
nhiều xe đạp Nhật Bản hơn dẫn đến nhập khẩu mặt hàng này cũng tăng.
+ Xuất khẩu: chủ yếu phụ thuộc vào những gì đang diễn biến tại các quốc
gia khác vì xuất khẩu của nước này chính là nhập khẩu của nước khác. Do vậy
nó chủ yếu phụ thuộc vào sản lượng và thu nhập của các quốc gia bạn hàng.
Chính vì thế trong các mô hình kinh tế người ta thường coi xuất khẩu là yếu tố
tự định.
+ Tỷ giá hối đoái: là nhân tố rất quan trọng đối với các quốc gia vì nó ảnh
hưởng đến giá tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa trên
thị trường quốc tế. Khi tỷ giá của đồng tiền của một quốc gia tăng lên thì giá cả

Trang 5

của hàng hóa nhập khẩu sẽ trở nên rẻ hơn trong khi giá hàng xuất khẩu lại trở
nên đắt đỏ hơn đối với người nước ngoài. Vì thế việc tỷ giá đồng nội tệ tăng lên
sẽ gây bất lợi cho xuất khẩu và thuận lợi cho nhập khẩu dẫn đến kết quả là xuất
khẩu ròng giảm. Ngược lại, khi tỷ giá đồng nội tệ giảm xuống, xuất khẩu sẽ có
lợi thế trong khi nhập khẩu gặp bất lợi và xuất khẩu ròng tăng lên. Ví dụ, một bộ

ấm chén sứ Hải Dương có giá 70.000 VND và một bộ ấm chén tương đương của
Trung Quốc có giá 33 CNY (Nhân dân tệ). Với tỷ giá hối đoái 2.000 VND = 1
CNY thì bộ ấm chén Trung Quốc sẽ được bán ở mức giá 66.000 VND trong khi
bộ ấm chén tương đương của Việt Nam là 70.000 VND. Trong trường hợp này
ấm chén nhập khẩu từ Trung Quốc có lợi thế cạnh tranh hơn. Nếu VND mất già
và tỷ giá hối đoái thay đổi thành 2.300 VND = 1 CNY thì lúc này bộ ấm chén
Trung Quốc sẽ được bán với giá 75.900 VND và kém lợi thế cạnh tranh hơn so
với ấm chén sản xuất tại Việt Nam.
Tác động của cán cân thương mại đến GDP :
Đối với một nền kinh tế mở, cán cân thương mại có hai tác động quan
trọng: xuất khẩu ròng bổ sung vào tổng cầu (AD) của nền kinh tế; số nhân đầu
tư tư nhân và số nhân chi tiêu chính phủ khác đi do một phần chi tiêu bị "rò rỉ"
qua thương mại quốc tế.
Xuất khẩu ròng và GDP cân bằng

Cán cân thương mại phi hàng hóa

Trang 6

- Cán cân dịch vụ :
Bao gồm các khoản thu chi từ các dịch vụ về vận tải, du lịch, bảo hiểm,
bưu chính, viễn thông, ngân hàng, thông tin xây dựng và các hoạt động khác
giữa người cư trú với người không cư trú. Giống như xuất nhập khẩu hàng hoá
xuất khẩu dịch vụ làm phát sinh cung ngoại tệ nên nó được ghi vào bên co và có
dấu dương; nhập khẩu ngoại tệ làm phát sinh cầu ngoại tệ. Các nhân tố ảnh
hưởng lên giá trị xuất khẩu dịch vụ cũng giống như các nhân tố ảnh hưởng lên
giá trị xuất nhập khẩu dịch vụcũng giống như các nhân tố ảnh hưởng lên giá trị
xuất nhập khẩu hàng hoá.
- Cán cân thu nhập:
+ Thu nhập người lao động: là các khoản tiền lương, tiền thưởng và các

khoản thu nhập khác bằng tiền hiện vật người cư trú trả cho người không cư trú
hay ngược lại.các nhân tố ảnh hưởng lên thu nhập của người lao động ở nước
ngoài.
+ Thu nhập về đầu tư: là các khoản thu từ lợi nhuận đầu tư trực tiếp, lãi từ
đầu tư giấy tờ có giá và các khoản lãi đến han phải trả của các khoản vay giữa
người cư trú và không cư trú.
- Cán cân chuyển giao vãng lai một chiều :
Các khoản viện trợ không hoàn lại, quà tặng, quà biếu và các khoản chuyển
giao khác bằng tiền, hiện vật cho mục đích tiêu dùng do người không cư trú
chuyển cho người không cư trú và ngược lại. Các khoản chuyển giao vãng lai
một chiều phản ánh sự phân phối lại thu nhập giữa người cư trú với người không
cư trú các khoản thu làm phát sinh cung ngoại tệ (cầu nội tệ) nên được ghi vào
bên có (+), các khoản chi làm phát sinh cầu ngoại tệ nên được ghi vào bên nợ
(-). Nhân tố chính ảnh hưởng lên chuyển giao vãng lai một chiều là lòng tốt, tình
cảm giữa người cư trú và người không cư trú.
Chúng ta thấy rằng cán cân dịch vụ, thu nhập và chuyển giao vãng lai một
chiều không thể quan sát bằng mắt thường nên chúng được gọi là cán cân vô
hình (invisible) Như vậy, cán cân vãng lai có thể biểu diễn :

Trang 7

Cán cân vãng lai = cán cân hữu hình +cán cân vô hình
Tóm lại, các khoản thu nhập của người cư trú từ người không cư trú làm
phát sinh cung ngoại tệ nên dược ghi vào bên có và các khoản thu nhập trả cho
người không cư trú làm phát sinh cầu ngoại tệ nên được ghi vào bên nợ. Tất cả
các khoản thanh toán của các bộ phận nhà nước hay tư nhân đều được gộp
chung vào trong tính toán này. Đối với phần lớn các quốc gia thì cán cân thương
mại là thành phần quan trọng nhất trong tài khoản vãng lai. Tuy nhiên, đối với
một số quốc gia có phần tài sản hay tiêu sản ở nước ngoài lớn thì thu nhập ròng
từ các khoản cho vay hay đầu tư có thể chiếm tỷ lệ lớn.

Vì cán cân thương mại là thành phần chính của tài khoản vãng lai, và xuất
khẩu ròng thì bằng chênh lệch giữa tiết kiệm trong nước và đầu tư trong nước,
nên tài khoản vãng lai còn được thể hiện bằng chênh lệch này.
Cùng với tài khoản vốn, và thay đổi trong dự trữ ngoại hối, nó hợp thành
cán cân thanh toán. Tài khoản vãng lai thặng dư khi quốc gia xuất khẩu nhiều
hơn nhập khẩu, hay khi tiết kiệm nhiều hơn đầu tư. Ngược lại, tài khoản vãng lai
thâm hụt khi quốc gia nhập nhiều hơn hay đầu tư nhiều hơn. Mức thâm hụt tài
khoản vãng lai lớn hàm ý quốc gia gặp hạn chế trong tìm nguồn tài chính để
thực hiện nhập khẩu và đầu tư một cách bền vững. Theo cách đánh giá của IMF,
nếu mức thâm hụt tài khoản vãng lai tính bằng phần trăm của GDP lớn hơn 5,
thì quốc gia bị coi là có mức thâm hụt tài khoản vãng lai không lành mạnh.
2.2.2. Cán cân vốn
Tài khoản vốn (còn gọi là cán cân vốn) là một bộ phận của cán cân thanh
toán của một quốc gia. Nó ghi lại tất cả những giao dịch về tài sản (gồm tài sản
thực như bất động sản hay tài sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ) giữa
người cư trú trong nước với người cư trú ở quốc gia khác. Khi những tuyên bố
về tài sản nước ngoài của người sống trong nước lớn hơn tuyên bố về tài sản
trong nước của người sống ở nước ngoài, thì quốc gia có thặng dư tài khoản vốn
(hay dòng vốn vào ròng). Theo quy ước, dòng vốn vào ròng phải bằng thâm hụt
tài khoản vãng lai.

Trang 8

Tài khoản tài chính (hay tài khoản đầu tư) là một bộ phận của tài khoản vốn
ghi lại những giao dịch về tài sản tài chính.
Tài khoản vốn và lãi suất:
Giả sử ban đầu tài khoản vốn cân bằng tương ứng với mức lãi suất trong
nước r. Khi lãi suất tăng lên mức r’, tài khoản vốn trở nên thặng dư. Nếu lãi suất
hạ xuống mức r, tài khoản vốn trở nên thâm hụt. Vì vốn có quan hệ mật thiết với
lãi suất. Vì thế, cân đối tài khoản vốn cũng có quan hệ mật thiết với lãi suất.

Khi lãi suất trong nước tăng lên, đầu tư vào trở nên hấp dẫn hơn, vì thế
dòng vốn vào sẽ gia tăng, trong khi đó dòng vốn ra giảm bớt. Cán cân tài khoản
vốn, nhờ đó, được cải thiện. Ngược lại, nếu lãi suất trong nước hạ xuống, cán
cân vốn sẽ bị xấu đi.
Khi lãi suất ở nước ngoài tăng lên, cán cân tài khoản vốn sẽ bị xấu đi. Và,
khi lãi suất ở nước ngoài hạ xuống, cán cân vốn sẽ được cải thiện.
Tài khoản vốn và tỷ giá hối đoái:
Khi đồng tiền trong nước lên giá so với ngoại tệ, cũng có nghĩa là tỷ giá hối
đoái danh nghĩa giảm, dòng vốn vào sẽ giảm đi, trong khi dòng vốn ra tăng lên.
Hậu quả là, tài khoản vốn xấu đi. Ngược lại, khi đồng tiền trong nước mất giá
(tỷ giá tăng), tài khoản vốn sẽ được cải thiện.
2.2.3. Cán cân cơ bản
Như đã phân tích ở trên, cán cân vãng lai ghi chép các hạng mục về thu

Trang 9

nhập, mà đặc trưng của chúng là phản ánh mối quan hệ sở hữu về tài sản giữa
người cư trú với người không cư trú. Chính vì vậy tình trạng của cán cân vãng
lai có ảnh hưởng lâu dài đến sự ổn định của nền kinh tế mà đặc biệt là lên tỉ giá
hối đoái của nền kinh tế.
Tổng của cán cân vãng lai và cán cân dài hạn gọi là cán cân cơ bản. Tính
chất ổn định của cán cân cơ bản ảnh hưởng lâu dài đến nền kinh tế và tỉ giá hối
đoái. Chính vì vậy cán cân cơ bản được các nhà phân tích và hoạch định chính
sách kinh tế quan tâm.
Cán cân cơ bản = các cân vãng lai +cán cân vốn dài hạn
Những hạng mục hay thay đổi như vốn ngắn hạn và thay đổi dự trữ ngoại
2.2.4. Cán cân tổng thể (overall balance)
Nếu công tác thống kê đạt mức chính xác tuyệt đối (tức nhầm lẫn và sai sót
bằng không ) thì cán cân tổng thể bằng tổng của cán cân vãng lai và cán cân
vốn. Trong thực tế do có rất nhiều vấn đề phức tạp về thống kê trong quá trình

thu nhập số liệu và lập CCTTQT do đó thường phát sinh những nhầm lẫn và sai
sót. Do đó cán cân tổng thể được điều chỉnh lại bằng tổng của cán cân vãng lai
và cán cân vốn và hạng mục sai sót trong thống kê. Ta có :
Cán cân tổng thể = cán cân vãng lai +cán cân vốn + nhầm lẫn và sai sót
2.2.5. Cán cân bù đắp chính thức(official finacing balance)
Cán cân bù đắp chính thức (OFB) bao gồm các hạng mục :
- Thay đổi dự trữ ngoại hối quốc gia (ΔR)
- Tín dụng với IMF và các ngân hàng trung ương khác (L)
- Thay đổi dự trữ của các ngân hàng trung ương khác bằng đồng tiền của
quốc gia lập cán cân thanh toán (≠)
OFB = ΔR + L + ≠
Một thực tế rằng, khi dự trữ ngoại hối tăng thì chúng ta ghi nợ (-) và giảm
thì ghi có (+), do đó nhầm lẫn thường xảy ra ở đây. Điều này được giải thích
như sau :

Trang 10

Chúng ta hình dung, quốc gia Việt Nam được chia thành hai bộ phận gồm
NHTW và phần còn lại không bao gồm NHTW (gọi là nền kinh tế - NKT). Tiêu
chí để phân thành NHTW và NKT là: NHTW có chức năng can thiệp lên cung
cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối, còn nền kinh tế thì không có chức năng
can thiệp. Theo quy tắc CCTTQT được lập trên cơ sở của nền kinh tế, do đó, các
hoạt động can thiệp của NHTW trên thị trường ngoại hối (mua bán nội tệ) nhằm
tác động lên nền kinh tế, được xem là quan hệ giữa người cư trú với người
không cư trú. Khi NHTW can thiệp bán ngoại tệ ra, làm cho dự trữ ngoại hối
giảm, đồng thời làm tăng cung nội tệ cho nền kinh tế, do đó ta phải ghi có(+) .
Khi NHTW can thiệp mua ngoại tệ vào làm cho dự trữ ngoại hối tăng, đồng thời
làm tăng cầu ngoại tệ đối với NKT , do đó ta phả ghi nợ (-)
2.2.6. Nhầm lẫn và sai sót
OB + OFB = 0

→OB = - OFB
→CA+K+OM= - OFB
→OM =-(CA+K+OFB)
Đẳng thức cuối cùng cho thấy số dư của hạng mục nhầm lẫn và sai sót chính
là độ lệch giữa cán cân bù đắp chính thức và tổng của cán cân vãng lai và cán cân
vốn. Bởi vì cán cân bù đắp chính thức, cán cân vãng lai và cán cân vốn luôn được
xác định (luôn thể hiện là một số cụ thể trên CCTTQT ), do đó đẳng thức trên
được áp dụng số dư nhầm lẫn và sai sót khi lập CCTTQT trong thực tế.
3. Thặng dư và thâm hụt CCTTQT
CCTT được lập theo nguyên tắc hạch toán kép, do đó tổng các bút toán ghi
có luôn bằng tổng các bút toán ghi nợ, nhưng có dấu ngược nhau. Điều này có
nghĩa là, về tổng thể thì CCTTQT luôn được cân bằng. Do đó nói đến thặng dư,
thâm hụt CCTTQT là nói đến thặng dư thâm hụt của một hoặc của một nhóm
các cán cân bộ phận chứ không nói đến toàn bộ cán cân.
Về mặt nguyên tắc, thặng dư hay thâm hụt của CCTTQT được xác định

Trang 11

theo hai phương pháp:
 Phương pháp xác định thặng dư thâm hụt của từng cán cân bộ phận.
 Phương pháp tích lũy.
3.1. Thặng dư và thâm hụt cán cân thương mại
 TB=X-M
Như vậy cán cân thương mại là chênh lệch giữa giá trị xuất khẩu và giá trị
nhập khẩu về hàng hóa
Cán cân thương mại thặng dư: X > M, cho biết:
- Thu từ người không cư trú > chi cho người không cư trú
- Cung ngoại tệ > cầu ngoại tệ
Cán cân thương mại thâm hụt: X < M, cho biết:
- Thu từ người không cư trú < chi cho người không cư trứ

- Cung ngoại tệ < cầu ngoại tệ
Việc phân tích diễn biến cán cân thương mại có vai trò to lớn trong nền
kinh tế, bởi vì: Cán cân thương mại là bộ phận chính cấu thành cán cân vãng lai,
Thâm hụt và thặng dư cán cân thương mại thường quyết định đến tình trạng của
cán cân vãng lai. Cán cân thương mại phản ánh kịp thời xu hướng vận động của
cán cân vãng lai. Điều này xảy ra là vì, cơ quan hải quan thường cung cấp kịp
thời các số liệu về xuất nhập khẩu hàng hóa, trong khi đố việc thu thập các số
liệu về dịch vụ, thu nhập và chuyển giao vãng lai thường diễn ra chậm hơn, tức
là có một độ lệch về thời gian nhất định.
Do tầm quan trọng của cán cân thương mại, cho nên hầu hết các nước phát
triển thường công bố tình trạng cán cân này hàng tháng.
Để cân bằng cán cân thương mại, các biện pháp chủ yếu thường được áp
dụng sẽ tác động vào lượng hàng hoá xuất nhập khẩu thông qua các hình thức
thuế quan, quotas, v.v… và tác động vào tâm lý tiêu dùng hàng hoá nhập khẩu
của công chúng.
3.2 Thặng dư và thâm hụt cán cân vãng lai

Trang 12

Cán cân vãng lai bao gồm cán cân “Hữu hình” và “Vô hình’, nên nhìn tổng
thể thì nó quan trọng hơn cán cân thương mại.
Công thức xác định:
CA = TB + Se + Ic + Tr = Kl + Ks+  R
- Cán cân vãng lai thặng dư khi: ( X – M + Se + Ic + Tr ) > 0
Cán cân vãng lai thặng dư (CA > 0) có nghĩa thu từ người không cư trú lớn
hơn so với chi cho người không cư trú. Điều này có nghĩa là giá trị ròng của các
giấy tờ có giá do người không cư phát hành nằm trong tay người cư trú tăng
lên.cung ngoại tề lớn hơn cầu ngoại tệ.
- Cán cân vãng lai thâm hụt khi: ( X – M + Se + Ic + Tr ) < 0
Cán cân vãng lai thâm hụt ( CA < 0) có nghĩa là thu nhập của người cư trú

từ người không cư trú là thấp hơn so với chi cho người không cư trú. Điều này
có nghĩa là giá trị ròng của các giấy tờ có giá do người không cư trú phát hành
nằm trong tay người cư trú giảm xuống. cung ngoại tệ nhỏ hơn cầu ngoại tệ.
- Hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng, trạng thái cán cân vãng lai là lý
tưởng để phân tích trạng thái nợ nước ngoài của quốc gia. Lý do có thể được giả
thích như sau: Trạng thái cán cân vãng lai có mối liên hệ trực tiếp với trạng thái
tổng nợ nước ngoài của một quốc gia. Cán cân vãng lai cân bằng nói lên rằng
tổng nợ nước ngoài của quốc gia là không đổi ( quốc gia không là chủ nợ và
cũng không là con nợ ). Cán cân vãng lai thặng dư phản ánh tài sản có ròng của
quốc gia đối với phần thế giới còn lại được tăng lên ( vị thế quốc gia là chủ nợ ).
Ngược lại cán cân vãng lai thâm hụt phản ánh tài sản nợ ròng của quốc gia đối
với nước ngoài tăng lên ( vị thế quốc gia là con nợ).
CA = 0, trong dài hạn
Theo giả thiết cán cân vãng lai cân bằng, nghĩa là:
( X- M + Se + Ic + Tr ) = 0
Vì trong dài hạn hiệu ứng can thiệp của NHTW mang tính trung lập do đó
chúng ta có thể coi dự trữ ngoại hối của NHTW thay đổi là bằng 0, tức: R= 0
- Kl + Ks = 0.có 2 khả năng xảy ra

Trang 13

+ TH1: Kl < 0 và Ks > 0. nếu luồng vốn ngắn hạn chảy vào càng lớn
và được cân đối bởi luồng vốn dài hạn chảy ra, có thể làm cho năng lực thanh
toán của quốc gia trong tương lai bị đe dọa, dẫn đến áp lực tăng áp suất và giảm
giá nội tệ
+ TH2: Kl > 0 và Ks < 0. nếu luồng vốn dài hạn chảy vào càng lớn và
được cân đối bởi luồng vốn ngắn hạn chảy ra, thì sẽ tạo ra môi trường kinh tế vĩ
mô ổn định hơn để duy trì ổn định tỷ giá, lãi suất va thực hiện chiến lược phát
triển kinh tế quốc gia.
CA = 0 trong ngắn hạn

Trong ngắn hạn, các khoản đầu tư dài hạn coi như không đổi, nghĩa là
Kl=0, Ks + R = 0 có 2 khả năng xảy ra:
+ TH1: R > 0 và Ks < 0. Dây là trạng thái khi vốn ngắn hạn chảy ra được
bù đắp bởi sự giảm sút của dự trữ ngoại hối quốc gia. Trong thực tế tình huống
này có thể xảy ra trong ngắn hạn, khi NHTW nỗ lực cân đối các luồng vốn ngắn
hạn có tính đầu cơ chảy ra nước ngoài bằng cách can thiệp bán dự trữ trên thị
trường noại hối nhằm bảo vệ tỷ giá, tức ngăn ngừa nội tệ giảm giá. Do vậy cho
dù trang thái cán cân vãng lai là cân bằng, nhưng vẫn tồn tại áp lực giảm giá
nội tệ hoặc phải tăng lãi suất nội tệ, nếu NHTW không tiếp tục can thiệp bán
ngoại tệ trên thị trường ngoại hối
+ TH2: R < 0 và Ks > 0. Đây là trạng thái khi vốn ngắn hạn chảy vào
làm tăng ngoại hối dự trữ quốc gia. Trong thực tế, tình huống này có thêr xảy
ra, khi NHTW tăng mức lãi suất của nội tệ để ngăn ngừa các luồng vốn ngắn
hạn chạy ra và thu hút thêm các luồng vốn ngắn hạn chạy vào nhằm bảo vệ cho
tỷ giá không tiếp tục tăng nữa ( tức ngăn không cho nội tệ tiếp tục giảm giá.
Phân tích cán cân vãng lai có ý nghĩa rất quan trọng trong quản lý kinh tế
vĩ mô vì tình trạng của cán cân này tác động trực tiếp đến tỷ giá, lãi suất, tăng
trưởng kinh tế, lạm phát và cuối cùng tác động đến cán cân tổng thể. Để tác
động đến tình trạng của cán cân vãng lai, cần phải có thêm các giải pháp tổng
thể về tài khoá và tiền tệ hơn là chỉ các giải pháp về chính sách thương mại quốc

Trang 14

tế và tác động vào tâm lý tiêu dùng.
3.3.Thặng dư và thâm hụt cán cân cơ bản(BB)
BB = CA + Kl
Khi CA < 0 nhưng (CA + KI )> 0 thì quốc gia không hề chịu rủi ro thanh
toán. Chính vì thế mà nhiều nhà kinh tế cho rằng, cán cân cơ bản phản ánh tổng
quát hơn về trạng thái nợ nước ngoài của một quốc gia so với cán cân vãng lai.
Điều này xảy ra là vì; vốn dài hạn có đặc trưng của sự phân phối lại thu nhập

tương đối ổn định trong một thời gian dài giữa một quốc gia và thế giới.
- Thông thường người ta cho rằng một sự xấu đi của cán cân cơ bản là tín
hiệu xấu của nền kinh tế. Tuy nhiên, điều này không nhất thiết phải như vậy,
nghĩa là cho dù cán cân cơ bản bị thâm hụt nhưng đây chưa hẳn đã là điều xấu.
Ví dụ, một quốc gia có thể đang bị thâm hụt cán cân vãng lai & đồng thời có
các luồng vốn dài hạn chảy ra, điều này khiến cho cán cân cơ bản trở lên thâm
hụt nặng; nhưng các luồng vốn chảy ra sẽ hứa hện những thu nhập như lãi suất,
cổ tức hay lợi nhuận trong tương lai; những thu nhập mày sẽ góp phần cải thiện
thâm hụt hay tạo thặng dư cán cân vãng lai trong tương lai. Ngược lại thặng dư
cán cân cơ bản không nhất thiết là điều tốt. khi mà luồng vốn ròng dài hạn chảy
vào lớn hơn mức thâm hụt cán cân vãng lai thì cán cân cơ bản trở lên thặng dư.
*) Tình trạng cán cân cơ bản có tác động một cách không rõ ràng đến nền
kinh tế tuỳ theo cách tiếp cận.
*) Đối với các nước đang phát triển, vốn là yếu tố cần thiết để thực hiện
công nghiệp và hiện đại hoá, thặng dư cán cân cơ bản nhìn chung được coi là
dấu hiệu tích cực.
*) Các chính sách thu hút vốn đầu tư, nhất là đầu tư trực tiếp là giải pháp
cơ bản cho vấn đề này.
Ngược lại thặng dư cán cân cơ bản không nhất thiết là điều tốt. khi mà
luồng vốn ròng dài hạn chảy vào lớn hơn mức thâm hụt cán cân vãng lai thì cán
cân cơ bản trở lên thặng dư. Có hai cách để nhìn nhận vấn đề thặng dư của cán
cân cơ bản như sau:

Trang 15

- Cách thứ nhất cho rằng, do được phía nước ngoài tin tưởng nên quốc gia
có khả năng nhập khẩu được nhiều vốn dài hạn, do đó không có vấn đề gì phải
lo lắng khi cán cân vãng lai bị thâm hụt.
- Cách thứ hai cho rằng, thặng dư cán cân cơ bản là một vấn đề phải xem
xét, bởi vì việc một quốc gia nhập khẩu vốn dài hạn sẽ phải thanh toán các

khoản lãi suất, cổ tức và lợi nhuận trong tương lai. Điều này có thể làm cho cán
cân vãng lai trở lên xấu đi trong tương lai.
3.4. Thặng dư và thâm hụt cán cân tổng thể
Cán cân tổng thể phản ánh bức tranh các hoạt động của Ngân hàng Trung
ương trong việc tài trợ cho sự mất cân đối cuối cùng của nền kinh tế.
OB= X-M + Se + Ic +Tr + Kl + Ks
OB = - OFB
Cán cân tổng thể có ý nghĩa vì: (i) Nếu thặng dư nó cho biết số tiền có sẵn
để một quốc gia có thể sử dụng để tăng dự trữ ngoại hối; (ii) Nếu thâm hụt nó
cho biết số tiền một quốc gia phải hoàn trả bằng việc bán ngoại hối.
Khái niệm thặng dư và thâm hụt cán cân tổng thể chỉ thích hợp đối với
quốc gia áp dụng tỷ giá cố định mà không thích hợp đối với quốc gia áp dụng tỷ
giá thả nổi. Sở dĩ vậy là do, nếu áp dụng tỷ giá thả nổi thì tỷ giá hoàn toàn tự do
biến động và như thế thì cán cân tổng thể luôn có xu hướng vận động về trạng
thái cân bằng , vì Ngân hàng trung ương không can thiệp mua vào hay bán ra
đồng tiền của mình, do đó dự trữ ngoại hối không thay đổi.
Trong tỷ giá thả nổi, nếu cầu về một đồng tiền lớn hơn cung của đồng tiền
đó thì tỷ giá của nó sẽ tăng và ngược lại , do đó thông qua cơ chế biến đổi tỷ giá
mà cán cân tổng thể sẽ luôn có xu hướng chuyển về vị trí cân bằng.
Tuy nhiên, cán cân tổng thể là rất quan trọng đối với tỷ giá cố định vì nó
cho biết áp lực dãn đến phải phá giá hay nâng giá đồng tiền như thế nào. Trong
hệ thống tỷ giá cố định một quốc gia có thâm hụt cán cân tổng thể phải chịu áp
lực cung nội tệ lớn hơn cầu, do đó để tránh phá giá, Ngân hàng trung ương phải
tiến hành bán dự trữ

Trang 16

*) Tình trạng của cán cân tổng thể là rất quan trọng và tác động trực tiếp đến
nền kinh tế và sự vận hành các chính sách vĩ mô, đặc biệt khi cán cân tổng thể ở
tình trạng thâm hụt

*) Các giải pháp cân bằng đối với cán cân tổng thể khi ở tình trạng thặng dư
không những không khó mà luôn mang lại những hiệu ứng tích cực, kể cả trong
ngắn hạn và dài hạn
*) Ngược lại, các biện pháp cân bằng khi ở tình trạng thâm hụt không những
khó khăn hơn mà tác động mặt trái thường rất nặng nề, thậm chí có thể mang lại
những hậu quả trong dài hạn
*) Cân bằng cán cân tổng thể cần lựa chọn và thực hiện các giải pháp một
cách hết sức thận trọng.
II. CÁN CÂN THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
1. Thực tế CCTTQT của Việt Nam
1.1. Cán cân thương mại (TB)
Tổng lưu chuyển hàng hoá XNK của Việt Nam giai đoạn từ 2000 – 2008

Triệu USD
Tổng số Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân thương mại
30,119.2 14,482.7 15,636.5 -1,153.8
31,247.1 15,029.2 16,217.9 -1,188.7
36,451.7 16,706.2 19,745.6 -3,039.5
45,405.1 20,149.3 25,255.8 -5,106.5
58,453.8 26,485.0 31,968.8 -5,483.8
69,208.2 32,447.1 36,761.1 -4,314.0
84,717.3 39,826.2 44,891.1 -5,064.9
111,326.1 48,561.4 62,764.7 -14,203.3
143,398.9 62,685.1 80,713.8 -18,028.7

Trang 17

Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu và cán cân thương mại 8T/2009
Nhận xét chung:
Cán cân thương mại hàng hoá của Việt Nam luôn có xu hướng thâm hụt

(nhập khẩu cao hơn xuất khẩu), con số thâm hụt ngày một tăng lên. Nếu như vào
năm 2000, thâm hụt cán cân thương mại chỉ ở mức 1,153.8 triệu USD thì đến
năm 2008 con số này đã lên tới 18,028.7 triệu USD (tăng gấp 15 lần so với năm
2000. Nhìn vào xu hướng đó có thể thấy thâm hụt cán cân thương mại hàng hoá
của Việt Nam ngày càng gia tăng.
Trong 8 tháng đầu năm 2009, tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của các mặt
hàng chủ lực và thị trường xuất khẩu chủ yếu được duy trì. Tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu hàng hoá cả nước đạt 79,13 tỷ USD, giảm 22,7% so với cùng kỳ năm

Trang 18

2008. Trong đó, xuất khẩu là 37,06 tỷ USD, giảm 14,6% và nhập khẩu là 42,08
tỷ USD, giảm 28,7%. Kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng chủ lực như hàng
dệt may, cao su, gỗ và sản phẩm gỗ, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh
kiện… tăng trưởng đều vào các tháng trong quý III/2009. Bên cạnh đó, giá xuất
khẩu bình quân của nhiều mặt hàng chủ lực đã tăng dần lên so với những tháng
đầu năm. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa bình quân trong Quý
III/2009 đạt 4,6 tỷ USD/tháng cao hơn so với mức bình quân 4,5 tỷ USD/tháng
trong Quý II nhưng vẫn thấp hơn nhiều so với mức bình quân 5,98 tỷ
USD/tháng của cùng kỳ năm 2008. Tính chung 9 tháng, nhập siêu là hơn 6 tỷ
USD chiếm gần 16% kim ngạch xuất khẩu hàng hóa.
Xuất khẩu:
* Quy mô và tốc độ.
Tháng 8/2009, tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước là 4,52 tỷ USD, giảm 5,9%
so với tháng 7/2009.Trong đó, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
là 2,10 tỷ USD, giảm 0,5% so với tháng trước; nâng tổng kim ngạch xuất khẩu
của khu vực này 8 tháng lên 14,61 tỷ USD và chiếm 39% kim ngạch xuất khẩu
của cả nước.
* Một số mặt hàng xuất khẩu chính.
- Hàng dệt may: Trong 8 tháng năm 2009, Hoa Kỳ tiếp tục là đối tác lớn

nhất của hàng dệt may Việt Nam với trị giá đạt 3,25 tỷ USD và chiếm tới 55,2%
tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước. Đứng thứ hai là thị
trường EU với kim ngạch đạt 1,1 tỷ USD, tiếp theo là xuất khẩu sang thị trường
Nhật Bản: 605 triệu USD, Đài Loan: 141 triệu USD, Hàn Quốc: 123 triệu USD,
Canađa: 121 triệu USD,…
- Giày dép các loại: Tính đến hết tháng 8, xuất khẩu nhóm hàng giày dép
của nước ta đạt 2,72 tỷ USD, giảm 12,8% so với cùng kỳ năm 2008. Trong đó,
thị trường EU là 1,33 tỷ USD, giảm 21% và chiếm 49% tổng kim ngạch xuất
khẩu nhóm hàng này của cả nước. Tiếp theo là thị trường Hoa Kỳ trị giá xuất
khẩu đạt 697 triệu USD, Mêxicô: 91 triệu USD, Nhật Bản: 83 triệu USD, Trung

Trang 19

Quốc: 62 triệu USD,…
- Hàng thuỷ sản: Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang các đối tác lớn
trong 8 tháng qua như sau: thị trường EU với kim ngạch gần 704 triệu USD,
giảm 3,9% so với cùng kỳ năm 2008; Nhật Bản: 464 triệu USD, giảm 13,7%;
Hoa Kỳ: 448 triệu USD, tăng 4,0%; Hàn Quốc: 189 triệu USD, giảm 10,9%;…
- Dầu thô: Tính đến hết tháng 8, lượng dầu thô xuất khẩu của Việt Nam là
9,75 triệu tấn, tăng 7,7% so với cùng kỳ năm trước. Mặc dù lượng xuất khẩu
tăng so với cùng kỳ năm 2008, nhưng do giá bình quân giảm mạnh tới 51,9%
(tương đương với giảm 456 USD/tấn), nên kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này 8
tháng chỉ đạt 4,13 tỷ USD, giảm 48,2%.
Các thị trường chính nhập khẩu dầu thô của nước ta chủ yếu là Ôxtrâylia:
2,5 triệu tấn, Singapore: 1,74 triệu tấn, Malaysia: 1,36 triệu tấn, Nhật Bản: 685
nghìn tấn, Hoa Kỳ: 672 nghìn tấn, Hàn Quốc: 656 nghìn tấn ,…
- Gạo: Tháng 8, lượng gạo xuất khẩu là 417 nghìn tấn, nâng lượng xuất
khẩu mặt hàng này trong 8 tháng lên 4,63 triệu tấn, tăng 41,0% so với cùng kỳ
năm trước. Tính đến hết tháng 8, kim ngạch xuất khẩu gạo của cả nước đạt 2,11
tỷ USD, giảm 3,0% so với cùng kỳ năm 2008.

Biểu đồ: Giá bình quân và lượng xuât khẩu gạo 8 tháng năm 2009
Tính đến hết tháng 8/2009, lượng gạo của Việt Nam xuất sang hầu hết các
châu lục đều tăng trên 20% so với cùng kỳ năm 2008 (trừ Châu Mỹ). Trong đó,

Trang 20

lượng gạo xuất khẩu sang Châu Á đạt 2,66 triệu tấn, tăng 22,4% và chiếm 57%
tổng lượng xuất khẩu gạo của cả nước; sang châu Phi: 1,13 triệu tấn, tăng 124%;
sang châu Mỹ: 387 nghìn tấn, giảm 12%; sang Châu Đại Dương: 267 nghìn tấn,
tăng mạnh 317%; sang châu Âu: 182 nghìn tấn, tăng 83,2% so với cùng kỳ năm
2008.
- Cao su: Tháng 8/2009, tổng lượng cao su xuất khẩu của cả nước là 410
nghìn tấn, kim ngạch là 603 triệu USD, giảm 42,4% so với cùng kỳ năm 2008.
Trung Quốc tiếp tục là thị trường dẫn đầu về nhập khẩu cao su của Việt
Nam trong 8 tháng qua với 285 nghìn tấn, chiếm 69,4% tổng lượng cao su xuất
khẩu của cả nước. Tiếp theo là Hàn Quốc: 18,1 nghìn tấn, Malaixia: 16,9 nghìn
tấn, Đài Loan: 13,5 nghìn tấn, Đức: 11 nghìn tấn, Hoa Kỳ: 8,7 nghìn tấn,…
- Cà phê: Các thị trường chính nhập khẩu cà phê của Việt Nam trong 8
tháng qua là Bỉ: 118,7 nghìn tấn, Đức: 92,4 nghìn tấn, Hoa Kỳ: 86,3 nghìn tấn,
Italia: 78,7 nghìn tấn, …
- Gỗ & sản phẩm gỗ: tháng 8/2009, xuất khẩu mặt hàng này đạt 208 triệu
USD, giảm nhẹ 0,3% so với tháng trước. Nâng tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm
hàng này của Việt Nam 8 tháng/2009 lên 1,55 tỷ USD, giảm 15,3% so với cùng
kỳ năm 2008.
Hết tháng 8, Hoa Kỳ tiếp tục trở thành thị trường nhập khẩu nhóm hàng
này nhiều nhất của Việt Nam với 664 triệu USD, tiếp theo là thị trường EU: 344
triệu USD, Nhật Bản: 231 triệu USD, Trung Quốc: 96 triệu USD,…
- Máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh kiện: Dẫn đầu về nhập khẩu
nhóm hàng này của Việt Nam trong 8 tháng qua vẫn là thị trường Hoa Kỳ với
278 triệu USD, tiếp theo là Nhật Bản: 230 triệu USD, Thái Lan: 181 triệu USD,

Trung Quốc: 150 triệu USD, Singapore: 108 triệu USD, Hà Lan: 107 triệu USD,

Nhập khẩu.
* Quy mô và tốc độ.
Tháng 8/2009, trị giá nhập khẩu hàng hoá cả nước là 5,85 tỷ USD, giảm

Trang 21

7,5% so với tháng trước. Trong đó, nhập khẩu của các doanh nghiệp FDI là 2,19
tỷ USD, giảm 7,0% (tương đương giảm 166 triệu USD).
Số liệu thống kê cho thấy, chỉ có 8 trong số 43 nhóm hàng nhập khẩu có
mức tăng trưởng dương trong tháng 8. Trong đó, nhập khẩu các mặt hàng chủ
lực đều giảm mạnh (trừ sắt thép các loại tăng 10,4%). Cụ thể: xăng dầu giảm
18,8%, máy móc, thiết bị, dụng cụ & phụ tùng giảm 8,2%; chất dẻo giảm
11,3%; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện giảm 7,2%,…
* Một số mặt hàng nhập khẩu chủ yếu.
- Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng: tổng kim ngạch nhập khẩu 8
tháng năm 2009 là 7,33 tỷ USD, giảm 17,4% so với cùng kỳ 2008.
Nhóm hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng nhập khẩu vào Việt
Nam trong 8 tháng qua có xuất xứ chủ yếu từ Trung Quốc với 2,4 tỷ USD, giảm
6,7%; Nhật Bản: 1,47 tỷ USD, giảm 19,3%; Hàn Quốc: 521 triệu USD; giảm
21,7%; Hoa Kỳ: 462 triệu USD, tăng 12,6%; so với cùng kỳ năm 2008.
- Sắt thép các loại: Hết 8 tháng/2009, lượng sắt thép nhập khẩu của cả
nước là 6,16 triệu tấn, giảm 10,7% so với cùng kỳ năm trước với trị giá đạt được
là 3,21 tỷ USD.
Biểu đồ: Lượng, đơn giá bình quân nhập khẩu phôi thép và sắt thép
các loại từ tháng 1 đến tháng 8 năm 2009
- Thức ăn gia súc và nguyên liệu: Trong tháng, trị giá nhập khẩu nhóm
hàng này là 205 triệu USD, giảm 16,2% so với tháng trước, nâng tổng kim
ngạch nhập khẩu 8 tháng/2009 lên 1,27 tỷ USD, giảm 2,5% so với cùng kỳ năm


Trang 22

2008.
Hết 8 tháng/2009, thức ăn gia súc & nguyên liệu được nhập khẩu từ
Achentina là: 394 triệu USD, tăng 233%; Ấn Độ : 307 triệu USD, giảm 51,6%;
Hoa Kỳ: 110 triệu USD, giảm 5,4%; Trung Quốc: 109 triệu USD, tăng 35,2%;
… so với 8 tháng 2008.
- Nhóm hàng nguyên liệu ngành dệt may, da giày: trong tháng nhập
khẩu là 573 triệu USD, giảm 11,6% so với tháng 7/2009 (tương đương giảm 75
triệu USD về số tuyệt đối). Trong đó trị giá nhập khẩu vải là 327 triệu USD,
giảm 13,6%, nguyên phụ liệu dệt may: 131 triệu USD, giảm 15,2%, xơ sợi dệt
giảm 2,5% và lượng bông nhập khẩu giảm 4,2%.
Hết tháng 8/2009, nhóm hàng này đạt kim ngạch là 4,64 tỷ USD, giảm
13,8% so với cùng kỳ năm 2008. Các thị trường chính cung cấp nguyên liệu,
phụ liệu ngành dệt may, da giày cho Việt Nam trong 8 tháng qua là: Trung
Quốc: 1,3 tỷ USD, Đài Loan: 946 triệu USD, Hàn Quốc: 905 triệu USD, Nhật
Bản: 302 triệu USD, Hồng Kông: 270 triệu USD,…
- Xăng dầu:
Biểu đồ: Giá bình quân nhập khẩu xăng dầu háng 1 đến tháng
8/2009

Hết tháng 8/2009, cả nước nhập khẩu 8,75 triệu tấn xăng dầu các loại, giảm
8,6% so với cùng kỳ năm trước. Giá nhập khẩu bình quân nhóm hàng này giảm
mạnh so với cùng kỳ 2008 nên kim ngạch nhập khẩu chỉ đạt hơn 4 tỷ USD, giảm
tới 55,7%.

Trang 23

Xăng dầu các loại nhập khẩu vào Việt Nam trong 8 tháng qua chủ yếu có

xuất xứ từ Singapore với hơn 3,4 triệu tấn, tiếp theo là Đài Loan: 1,69 triệu tấn,
Trung Quốc: 1,59 triệu tấn, Hàn Quốc: 836 nghìn tấn, Nga: 416 nghìn tấn, Thái
Lan: 350 nghìn tấn
- Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện: nhập khẩu trong tháng
8/2009 là 338 triệu USD, nâng tổng trị giá nhập khẩu 8 tháng/2009 lên 2,29 tỷ
USD, giảm 4,7% so với cùng kỳ 2008.
Tính đến hết tháng 8 năm 2009, Trung Quốc là thị trường dẫn đầu về cung
cấp nhóm hàng này cho nước ta với 842 triệu USD, tăng 2,0% so với 8
tháng/2008. Tiếp theo là Nhật Bản: 494 triệu USD, giảm 5,7%; Đài Loan: 183
triệu USD, giảm 3,4%; Malaysia: 178 triệu USD, giảm 0,7%;
- Chất dẻo nguyên liệu: trong tháng 8/2009 nước ta nhập khẩu 201 nghìn
tấn, giảm 11,3% so với tháng 7/2009 và đạt trị giá là 269 triệu USD. Hết tháng
8/2009, tổng lượng nhập khẩu chất dẻo nguyên liệu của cả nước là 1,44 triệu
tấn, tăng 20,6% so với cùng kỳ năm trước và đạt trị giá là 1,73 tỷ USD.
Hết 8 tháng năm 2009, chất dẻo nguyên liệu được nhập khẩu vào Việt Nam
chủ yếu có xuất xứ từ: Hàn quốc : 268 nghìn tấn, tăng 46,7% so với cùng kỳ
2008; Đài Loan: 213 nghìn tấn, giảm 2,4%; Thái Lan: 192 nghìn tấn, tăng 6,7%,
A rập Xê út: 163 nghìn tấn, tăng 79,3%; Singapore: gần 102 nghìn tấn, tăng
3,8%; …
- Phân bón:. Hết 8 tháng/2009, cả nước nhập khẩu 2,85 triệu tấn phân
bón các loại, tăng 12,2% so với cùng kỳ năm 2008.
Lượng phân Urê nhập khẩu vào Việt Nam trong 8 tháng qua là 897 nghìn
tấn, phân SA là 741 nghìn tấn, phân DAP gần 705 nghìn tấn, phân Kali là 250
nghìn tấn, phân NPK là 194,5 nghìn tấn.
Mặt hàng phân bón các loại được nhập khẩu vào Việt Nam chủ yếu có xuất
xứ từ Trung Quốc với 1,13 triệu tấn. Tiếp theo là Nga: 291 nghìn tấn, Ucraina:
202 nghìn tấn, Hàn Quốc: 198 nghìn tấn; Philippin: 193 nghìn tấn, Hoa Kỳ: 129
nghìn tấn, Đài Loan: 83,8 nghìn tấn,…

Trang 24


- Ôtô nguyên chiếc các loại và linh kiện, phụ tùng ôtô: Sau khi đạt mức
tăng đột biến trong tháng 7, nhập khẩu ô tô nguyên chiếc bắt đầu giảm với lượng
nhập khẩu trong tháng 8 là 7,27 nghìn chiếc, trị giá 107 triệu USD. Trong đó, số
lượng ô tô từ 9 chỗ ngồi trở xuống nhập khẩu là 4,3 nghìn chiếc, giảm 15% so
với tháng 7 với trị giá là 45 triệu USD.
Hết tháng 8, lượng ô tô nguyên chiếc nhập khẩu là 39,6 nghìn chiếc giảm
10,8% so với cùng kỳ năm 2008. Trong đó, lượng xe dưới 9 chỗ ngồi là 19,9
nghìn chiếc, chiếm trên 50% lượng ô tô nguyên chiếc nhập khẩu của cả nước.
Biểu đồ : Lượng nhập khẩu ô tô từ tháng 1 đến tháng 8 năm 2009
Trị giá nhập khẩu linh kiện & phụ tùng ô tô trong tháng 8 đạt 158 triệu
USD, giảm 11,4% so với tháng 7, nâng tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này
8 tháng /2009 lên 935 triệu USD.
1.2. Cán cân dịch vụ (SE)
Xuất nhập khẩu dịch vụ 6 tháng đầu năm 2009 ( đơn vị: triệu USD)

6 tháng đầu
năm 6 tháng đầu năm
6 tháng đầu năm
2009
2008 2009 (thực hiện)
(so với cùng kì
năm 2008)
Xuất khẩu 3682 2737 74.3
Dịch vụ hàng không 562 359 62.4
Dịch vụ vận tải biển 575 359 62.4
Dịch vụ bưu chính viễn thông 45 37 82.2
Dịch vụ du lịch 2190 1550 70.8
Dịch vụ tài chính 120 105 87.5
Dịch vụ bảo hiểm 35 31 88.6

Dịch vụ Chính phủ 25 20 80
Dịch vụ khác 130 105 80.8
Nhập khẩu 4414 3256 73.8

Trang 25

×