Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Bệnh thuỷ đậu và cách xử trí pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.45 KB, 6 trang )

Bệnh thuỷ đậu và cách xử
trí

Những nốt ban hồng
đường kính vài mm
biến thành phỏng
nước rất ngứa, lan
khắp cơ thể. Bệnh
thường xuất hiện ở trẻ
em chưa chủng ngừa,
gây sốt, mệt mỏi, khó
chịu, kém ăn nhiều ngày. Người lớn bệnh nặng có
thể tử vong nếu không được chăm sóc đúng.
Bệnh thủy đậu (trái rạ) do virus Varicelle Zoster gây
nên, có thể bị quanh năm nhưng thường gặp nhiều
khi thời tiết thay đổi. Bệnh xảy ra phần lớn ở trẻ em
(90%), lây lan cao qua đường hô lấp (80-90%) và chỉ
lây cho người lần đầu mắc bệnh vì có tính miễn dịch


rất cao, ít khi bị bệnh lần 2. Bệnh thường lành tính ở
trẻ em, nhưng khá nặng khi gặp ở người lớn với tỷ lệ
tử vong 2-25/100.000.
Thời kỳ ủ bệnh thủy đậu chừng 10-21 ngày, sau đó là
1-2 ngày sốt nhẹ, mệt mỏi, nhức đầu, khó chịu, kém
ăn Dấu hiệu để nhận biết bệnh là các nốt ban hồng
đường kính vài mm, sau đó xuất hiện các phỏng
nước trên toàn thân của trẻ. Đặc biệt, các nốt phỏng
có thể có ở niêm mạc miệng, thực quản đường hô
hấp trên và kết mạc, rất ngứa rối sẽ xẹp dần và khô
sau chừng 4 ngày do nước bị cơ thể hấp thu lại.



Các nốt thủy đậu mọc làm nhiều đợt nên ta có thể
thấy đồng thời trên cơ thể nhiều giai đoạn khác nhau
của ban phỏng nước, tập trung ở thân mình nhiều
hơn ở chi và mặt (đây là điểm khác biệt so với bệnh
đậu mùa). Bệnh rất dễ lây do tiếp xúc trực tiếp hay
lan truyền qua đường hộ hấp bởi nước bọt và các
chất tiết đường hô hấp do người bệnh ho, hắt hơi
trong thời gian 2 - 5 ngày trước khi phát ban và kéo
dài đến khi nốt đậu đóng vẩy.

Do vậy, người bị mắc bệnh cần được cách ly tiếp xúc
với người ngoài trong vòng 7-10 ngày và trẻ em dưới
12 tuổi nên được chủng ngừa.

Vì vaccine không có hiệu quả suốt đời và chỉ có hiệu
quả phòng bệnh 70-88% nên ngoài việc tiêm chủng
ngay sau khi sinh, trẻ em còn cần được tiêm nhắc lại
sau 14 tháng. Phụ nữ có thai bị nhiễm bệnh trong thời
kỳ đầu mang thai có thể gây ra các dị tật bẩm sinh ở
trẻ. Trẻ nhỏ mắc bệnh nhẹ hơn trẻ lớn, với thể thông
thường không có biến chứng thì bệnh sẽ tự khỏi
trong vòng 10 ngày.

Biến chứng

Các biến chứng hay gặp nhất là bội nhiễm da do nốt
phỏng bị vỡ hoặc do trẻ gãi hay dịch nước hóa mủ.
Viêm phổi gặp ở 20-30% người bệnh. Biến chứng
nặng nhất là viêm não do thủy đậu, gặp ở 0,1-0,2%

và thường rất nặng ở người lớn. Các biến chứng
như: giảm tiểu cầu, viêm tủy cắt ngang, liệt thần kinh
mặt, rối loạn tiểu não, hội chứng Reye, viêm cơ tim,
viêm thận, viêm gan, viêm đa rễ thần kinh ít gặp
hơn.

Để chẩn đoán chính xác bệnh thủy đậu, cần phết tổn
thương lên kính và soi tìm tế bào đa nhân khổng lồ,
phân lập virus từ tổn thương hay sử dụng các phản
ứng huyết thanh như ELISA, miễn dịch huỳnh quang,
phản ứng kết hợp bổ thể

Xử trí

- Cách ly ngay người bệnh cho đến khi các nốt thủy
đậu đã đóng vảy.
- Giữ vệ sinh thân thể bằng tắm rửa hàng ngày với
loại xà phòng sát trùng.
- Ăn uống tăng cường chất bổ để tạo sức đề kháng
cho cơ thể.
- Cắt ngắn móng tay, tránh gãi.
- Bôi hoặc uống các thuốc chống ngứa.
- Khi người bệnh sốt cao, cần hạ sốt nhưng không
được dùng Aspirin.
- Có thể dùng các thuốc chống virus: Acyclovir,
Vidarabin, Lamivudin

Chữa thuỷ đậu theo Y học cổ truyền

Trường hợp nhẹ: Không cần cho uống thuốc, chỉ

kiêng lạnh, kiêng gió, giữ vệ sinh da dẻ thật tốt. Có
thể dùng bài thuốc nam: lá dâu 12g, cam thảo đất
10g, kim ngân hoa 12g, kinh giới 6g cho vào ấm sắc
lấy nước uống nhiều lần.

Trường hợp nặng (sốt cao, khát nước, mặt đỏ miệng
lưỡi tróc, mụn thuỷ đậu dày và to, quầng đỏ, mụn
nước đục, tiểu tiện ít và khó: dùng chủ yếu phép
thanh nhiệt giải độc. Kim ngân hoa 12g, lá tre 16g,
bạc hà 8g, hoa kinh giới 8g, rau diếp cá 16g, cam
thảo đất 12g, quả dành dành 8g sắc lấy nước uống.
Nếu có ho, thêm 10g lá chanh, 12g lá táo. nếu ăn
không tiêu thêm sơn trang, thần khúc 10g.

Điều quan trọng nhất là phải chủ động tiêm vaccine
phòng ngừa khi trẻ được 12 tháng và có thể tiêm
nhắc lại lúc 12 tuổi. Vaccine có hiệu quả phòng bệnh
95% và ngừa bệnh nặng 100%. Nếu bệnh nhân bị lại,
thường nhẹ, không quá nguy hiểm.

×