Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Một số mẩu chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.05 KB, 27 trang )

Một số mẩu chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh!
- Đối với mình - Phải siêng năng, không được lười biếng, ai lười biếng không làm
được việc. Phải tiết kiệm, không xa xỉ, vì xa xỉ hoá ra tham lam, nhất là đối với tiền
bạc của đoàn thể phải rất phân minh.
Con đường giải phóng. Tháng 12 năm 1940.
Tư liệu Bảo tàng Hồ Chí Minh
Người làm việc trong hang đá ở Việt Bắc
- Học cái tốt thì khó, ví như người ta leo núi, phải vất vả, khó nhọc mới lên đến đỉnh.
Học cái xấu thì dễ, như ở trên đỉnh núi trượt chân một cái là nhào xuống vực sâu.
Mấy năm kháng chiến, các cô, các chú đã học được nhiều đức tính tốt. Về xuôi nhất
là về thành thị, sẽ có nhiều người phức tạp, nhiều thứ quyến rũ mình vào thói xấu.
Bài nói chuyện với bộ đội, công an và cán bộ trước khi vào tiếp quản Thủ đô.
Ngày 5 tháng 9 năm 1954.T.7, Tr.346
- Trong giáo dục không những phải có tri thức phổ thông mà phải có đạo đức cách
mạng. Có tài phải có đức. Có tài không có đức, tham ô hủ hoá có hại cho nước. Có
đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được ai
Bài nói chuyện tại lớp đào tạo hướng dẫn viên các trại hè cấp I.
Ngày 12 tháng 6 năm 1956. T.8, Tr.184.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí
Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Trường Chinh
- Công trạng của cá nhân chủ yếu là nhờ tập thể mà có. Vì vậy người có công trạng
không nên tự kiêu mà cần khiêm tốn. Khiêm tốn và rộng lượng, đó là hai đức tính
mà người cách mạng nào cũng phải có
Nói chuyện tại lớp chỉnh huấn trung, cao cấp
của Bộ Quốc phòng và các lớp trung cấp của các tổng cục.
Tháng 5 năm 1957. T.8, Tr.391.
Hồ Chủ tịch trong phòng làm việc của Người ở Phủ Chủ tịch nǎm 1946
- Cần, Kiệm, Liêm, Chính là nền tảng của Đời sống mới, nền tảng của Thi đua ái
quốc.
Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc


Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa, thì không thành trời.
Thiếu một phương, thì không thành đất
Thiếu một đức, thì không thành người.

Cần với Kiệm, phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người.
Cần mà không Kiệm, "thì làm chừng nào xào chừng ấy". Cũng như một cái thùng không
có đáy; nước đổ vào chừng nào, chảy ra hết chừng ấy, không lại hoàn không.
Kiệm mà không Cần, thì không tăng thêm, không phát triển được. Mà vật gì đã không
tiến tức phải thoái. Cũng như cái thùng chỉ đựng một ít nước, không tiếp tục đổ thêm vào,
lâu ngày chắc nước đó sẽ hao bớt dần, cho đến khi khô kiệt.

Cần, Kiệm, Liêm, là gốc rễ của Chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có ngành, lá,
hoa, quả mới là hoàn toàn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải Chính mới
là người hoàn toàn.

Tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình không chính, mà muốn
người khác chính là vô lý.
Cần Kiệm Liêm Chính. Tháng 6 năm 1949. T.5
- Do chủ nghĩa cá nhân mà sinh ra đòi hỏi hưởng thụ, đãi ngộ. Người ta ai cũng
muốn ăn ngon mặc đẹp, nhưng muốn phải cho đúng thời, đúng hoàn cảnh. Trong
lúc nhân dân ta còn thiếu thốn mà một người nào đó muốn riêng hưởng ăn ngon
mặc đẹp, như vậy là không có đạo đức.
Nói chuyện tại lớp chỉnh huấn trung, cao cấp
của Bộ Quốc phòng và các lớp trung cấp của các tổng cục.
Tháng 5 năm 1957. T.8, Tr.391
Từ chiếc máy chữ này của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã ra đời nhiều văn kiện quan hệ đến vận mệnh của Tổ quốc
Kiên trì và nhẫn nại,
Không chịu lùi một phân,

Vật chất tuy đau khổ
Không nao núng tinh thần.
Bốn tháng rồi. Nhật ký trong tù.
Năm 1942-1943. T.3, Tr.387
- Trong cuộc đấu tranh to lớn, lâu dài, gay go, ít nhiều đảng viên, ít nhiều nơi không
tránh khỏi những khuyết điểm như: chủ quan, hẹp hòi, mạo hiểm, hủ hoá, xa quần
chúng, chủ nghĩa địa phương, không giữ kỷ luật, làm việc luộm thuộm, tự kiêu, tự
mãn v.v.
- Dù đó là những chứng bệnh thành niên, nhưng từ nay, Đảng đòi hỏi các đảng viên
phải kiên quyết tẩy cho kỳ sạch những bệnh ấy. Vì nếu không trị cho khỏi hết, thì
nó có thể lây ra mà trở nên rất nguy hiểm cho Đảng.
Kiểm điểm công việc của Đảng. Tháng 1 năm 1949.
Tư liệu Bảo tàng Hồ Chí Minh
- Luôn luôn cầu tiến bộ. Không tiến bộ thì là ngừng lại. Trong khi mình ngừng lại
thì người ta cứ tiến bộ. Kết quả là mình thoái bộ, lạc hậu.
Tiến bộ không giới hạn. Mình cố gắng tiến bộ, thì chắc tiến bộ mãi.
Luôn luôn tự kiểm điểm, tự phê bình những lời mình đã nói, những việc mình đã
làm, để phát triển điều hay của mình, sửa đổi khuyết điểm của mình.
Đồng thời phải hoan nghênh người khác phê bình mình
Cần kiệm liêm chính. Tháng 6 năm 1949. T.5, Tr. 644
- Thang thuốc chữa bệnh quan liêu:
+ Phải đặt lợi ích dân chúng lên trên hết, trước hết.
+ Phải gần gũi dân, hiểu biết dân, học hỏi dân.
+ Phải thật thà thực hành phê bình và tự phê bình.
+ Phải làm kiểu mẫu: Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư.
Phải tẩy sạch bệnh quan liêu. Báo Sự thật, số 140,
ngày 2 tháng 9 năm 1950. T.6, Tr.90
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị Tổng tư lệnh tối cao
- Dao có mài, mới sắc.
Vàng có thui, mới trong.

Nước có lọc, mới sạch.
Người có tự phê bình, mới tiến bộ.
Tự phê bình. Báo Nhân dân, số 9,
ngày 20 tháng 5 năm 1951. T.6. Tr.209
- Phải thật sự mở rộng dân chủ trong cơ quan. Phải luôn luôn dùng cách thật thà tự
phê bình và thẳng thắn phê bình, nhất là phê bình từ dưới lên. Phải kiên quyết
chống cái thói "cả vú lấp miệng em", ngăn cản quần chúng phê bình.
Nhiệm vụ của chi bộ ở các cơ quan.
Báo Nhân dân, số 176, từ ngày 6 đến 10-4-1954. T.7, Tr.269
- Đối với mình - Phải siêng năng, không được lười biếng, ai lười biếng không làm
được việc. Phải tiết kiệm, không xa xỉ, vì xa xỉ hoá ra tham lam, nhất là đối với tiền
bạc của đoàn thể phải rất phân minh.
Con đường giải phóng. Tháng 12 năm 1940.
Tư liệu Bảo tàng Hồ Chí Minh
Người làm việc trong hang đá ở Việt Bắc
- Học cái tốt thì khó, ví như người ta leo núi, phải vất vả, khó nhọc mới lên đến đỉnh.
Học cái xấu thì dễ, như ở trên đỉnh núi trượt chân một cái là nhào xuống vực sâu.
Mấy năm kháng chiến, các cô, các chú đã học được nhiều đức tính tốt. Về xuôi nhất
là về thành thị, sẽ có nhiều người phức tạp, nhiều thứ quyến rũ mình vào thói xấu.
Bài nói chuyện với bộ đội, công an và cán bộ trước khi vào tiếp quản Thủ đô.
Ngày 5 tháng 9 năm 1954.T.7, Tr.346
- Trong giáo dục không những phải có tri thức phổ thông mà phải có đạo đức cách
mạng. Có tài phải có đức. Có tài không có đức, tham ô hủ hoá có hại cho nước. Có
đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được ai
Bài nói chuyện tại lớp đào tạo hướng dẫn viên các trại hè cấp I.
Ngày 12 tháng 6 năm 1956. T.8, Tr.184.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí
Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Trường Chinh
- Công trạng của cá nhân chủ yếu là nhờ tập thể mà có. Vì vậy người có công trạng
không nên tự kiêu mà cần khiêm tốn. Khiêm tốn và rộng lượng, đó là hai đức tính

mà người cách mạng nào cũng phải có
Nói chuyện tại lớp chỉnh huấn trung, cao cấp
của Bộ Quốc phòng và các lớp trung cấp của các tổng cục.
Tháng 5 năm 1957. T.8, Tr.391.
Hồ Chủ tịch trong phòng làm việc của Người ở Phủ Chủ tịch nǎm 1946
- Cần, Kiệm, Liêm, Chính là nền tảng của Đời sống mới, nền tảng của Thi đua ái
quốc.
Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa, thì không thành trời.
Thiếu một phương, thì không thành đất
Thiếu một đức, thì không thành người.

Cần với Kiệm, phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người.
Cần mà không Kiệm, "thì làm chừng nào xào chừng ấy". Cũng như một cái thùng không
có đáy; nước đổ vào chừng nào, chảy ra hết chừng ấy, không lại hoàn không.
Kiệm mà không Cần, thì không tăng thêm, không phát triển được. Mà vật gì đã không
tiến tức phải thoái. Cũng như cái thùng chỉ đựng một ít nước, không tiếp tục đổ thêm vào,
lâu ngày chắc nước đó sẽ hao bớt dần, cho đến khi khô kiệt.

Cần, Kiệm, Liêm, là gốc rễ của Chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có ngành, lá,
hoa, quả mới là hoàn toàn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải Chính mới
là người hoàn toàn.

Tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình không chính, mà muốn
người khác chính là vô lý.
Cần Kiệm Liêm Chính. Tháng 6 năm 1949. T.5
- Do chủ nghĩa cá nhân mà sinh ra đòi hỏi hưởng thụ, đãi ngộ. Người ta ai cũng
muốn ăn ngon mặc đẹp, nhưng muốn phải cho đúng thời, đúng hoàn cảnh. Trong

lúc nhân dân ta còn thiếu thốn mà một người nào đó muốn riêng hưởng ăn ngon
mặc đẹp, như vậy là không có đạo đức.
Nói chuyện tại lớp chỉnh huấn trung, cao cấp
của Bộ Quốc phòng và các lớp trung cấp của các tổng cục.
Tháng 5 năm 1957. T.8, Tr.391
Từ chiếc máy chữ này của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã ra đời nhiều văn kiện quan hệ đến vận mệnh của Tổ quốc
Kiên trì và nhẫn nại,
Không chịu lùi một phân,
Vật chất tuy đau khổ
Không nao núng tinh thần.
Bốn tháng rồi. Nhật ký trong tù.
Năm 1942-1943. T.3, Tr.387
- Trong cuộc đấu tranh to lớn, lâu dài, gay go, ít nhiều đảng viên, ít nhiều nơi không
tránh khỏi những khuyết điểm như: chủ quan, hẹp hòi, mạo hiểm, hủ hoá, xa quần
chúng, chủ nghĩa địa phương, không giữ kỷ luật, làm việc luộm thuộm, tự kiêu, tự
mãn v.v.
- Dù đó là những chứng bệnh thành niên, nhưng từ nay, Đảng đòi hỏi các đảng viên
phải kiên quyết tẩy cho kỳ sạch những bệnh ấy. Vì nếu không trị cho khỏi hết, thì
nó có thể lây ra mà trở nên rất nguy hiểm cho Đảng.
Kiểm điểm công việc của Đảng. Tháng 1 năm 1949.
Tư liệu Bảo tàng Hồ Chí Minh
- Luôn luôn cầu tiến bộ. Không tiến bộ thì là ngừng lại. Trong khi mình ngừng lại
thì người ta cứ tiến bộ. Kết quả là mình thoái bộ, lạc hậu.
Tiến bộ không giới hạn. Mình cố gắng tiến bộ, thì chắc tiến bộ mãi.
Luôn luôn tự kiểm điểm, tự phê bình những lời mình đã nói, những việc mình đã
làm, để phát triển điều hay của mình, sửa đổi khuyết điểm của mình.
Đồng thời phải hoan nghênh người khác phê bình mình
Cần kiệm liêm chính. Tháng 6 năm 1949. T.5, Tr. 644
- Thang thuốc chữa bệnh quan liêu:

+ Phải đặt lợi ích dân chúng lên trên hết, trước hết.
+ Phải gần gũi dân, hiểu biết dân, học hỏi dân.
+ Phải thật thà thực hành phê bình và tự phê bình.
+ Phải làm kiểu mẫu: Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư.
Phải tẩy sạch bệnh quan liêu. Báo Sự thật, số 140,
ngày 2 tháng 9 năm 1950. T.6, Tr.90
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị Tổng tư lệnh tối cao
- Dao có mài, mới sắc.
Vàng có thui, mới trong.
Nước có lọc, mới sạch.
Người có tự phê bình, mới tiến bộ.
Tự phê bình. Báo Nhân dân, số 9,
ngày 20 tháng 5 năm 1951. T.6. Tr.209
- Phải thật sự mở rộng dân chủ trong cơ quan. Phải luôn luôn dùng cách thật thà tự
phê bình và thẳng thắn phê bình, nhất là phê bình từ dưới lên. Phải kiên quyết
chống cái thói "cả vú lấp miệng em", ngăn cản quần chúng phê bình.
Nhiệm vụ của chi bộ ở các cơ quan.
Báo Nhân dân, số 176, từ ngày 6 đến 10-4-1954. T.7, Tr.269
- Đối với mình - Phải siêng năng, không được lười biếng, ai lười biếng không làm
được việc. Phải tiết kiệm, không xa xỉ, vì xa xỉ hoá ra tham lam, nhất là đối với tiền
bạc của đoàn thể phải rất phân minh.
Con đường giải phóng. Tháng 12 năm 1940.
Tư liệu Bảo tàng Hồ Chí Minh
Người làm việc trong hang đá ở Việt Bắc
- Học cái tốt thì khó, ví như người ta leo núi, phải vất vả, khó nhọc mới lên đến đỉnh.
Học cái xấu thì dễ, như ở trên đỉnh núi trượt chân một cái là nhào xuống vực sâu.
Mấy năm kháng chiến, các cô, các chú đã học được nhiều đức tính tốt. Về xuôi nhất
là về thành thị, sẽ có nhiều người phức tạp, nhiều thứ quyến rũ mình vào thói xấu.
Bài nói chuyện với bộ đội, công an và cán bộ trước khi vào tiếp quản Thủ đô.
Ngày 5 tháng 9 năm 1954.T.7, Tr.346

- Trong giáo dục không những phải có tri thức phổ thông mà phải có đạo đức cách
mạng. Có tài phải có đức. Có tài không có đức, tham ô hủ hoá có hại cho nước. Có
đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được ai
Bài nói chuyện tại lớp đào tạo hướng dẫn viên các trại hè cấp I.
Ngày 12 tháng 6 năm 1956. T.8, Tr.184.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí
Tôn Đức Thắng, Lê Duẩn, Trường Chinh
- Công trạng của cá nhân chủ yếu là nhờ tập thể mà có. Vì vậy người có công trạng
không nên tự kiêu mà cần khiêm tốn. Khiêm tốn và rộng lượng, đó là hai đức tính
mà người cách mạng nào cũng phải có
Nói chuyện tại lớp chỉnh huấn trung, cao cấp
của Bộ Quốc phòng và các lớp trung cấp của các tổng cục.
Tháng 5 năm 1957. T.8, Tr.391.
Hồ Chủ tịch trong phòng làm việc của Người ở Phủ Chủ tịch nǎm 1946
- Cần, Kiệm, Liêm, Chính là nền tảng của Đời sống mới, nền tảng của Thi đua ái
quốc.
Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa, thì không thành trời.
Thiếu một phương, thì không thành đất
Thiếu một đức, thì không thành người.

Cần với Kiệm, phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người.
Cần mà không Kiệm, "thì làm chừng nào xào chừng ấy". Cũng như một cái thùng không
có đáy; nước đổ vào chừng nào, chảy ra hết chừng ấy, không lại hoàn không.
Kiệm mà không Cần, thì không tăng thêm, không phát triển được. Mà vật gì đã không
tiến tức phải thoái. Cũng như cái thùng chỉ đựng một ít nước, không tiếp tục đổ thêm vào,
lâu ngày chắc nước đó sẽ hao bớt dần, cho đến khi khô kiệt.


Cần, Kiệm, Liêm, là gốc rễ của Chính. Nhưng một cây cần có gốc rễ, lại cần có ngành, lá,
hoa, quả mới là hoàn toàn. Một người phải Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải Chính mới
là người hoàn toàn.

Tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình không chính, mà muốn
người khác chính là vô lý.
Cần Kiệm Liêm Chính. Tháng 6 năm 1949. T.5
- Do chủ nghĩa cá nhân mà sinh ra đòi hỏi hưởng thụ, đãi ngộ. Người ta ai cũng
muốn ăn ngon mặc đẹp, nhưng muốn phải cho đúng thời, đúng hoàn cảnh. Trong
lúc nhân dân ta còn thiếu thốn mà một người nào đó muốn riêng hưởng ăn ngon
mặc đẹp, như vậy là không có đạo đức.
Nói chuyện tại lớp chỉnh huấn trung, cao cấp
của Bộ Quốc phòng và các lớp trung cấp của các tổng cục.
Tháng 5 năm 1957. T.8, Tr.391
Từ chiếc máy chữ này của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã ra đời nhiều văn kiện quan hệ đến vận mệnh của Tổ quốc
Kiên trì và nhẫn nại,
Không chịu lùi một phân,
Vật chất tuy đau khổ
Không nao núng tinh thần.
Bốn tháng rồi. Nhật ký trong tù.
Năm 1942-1943. T.3, Tr.387
- Trong cuộc đấu tranh to lớn, lâu dài, gay go, ít nhiều đảng viên, ít nhiều nơi không
tránh khỏi những khuyết điểm như: chủ quan, hẹp hòi, mạo hiểm, hủ hoá, xa quần
chúng, chủ nghĩa địa phương, không giữ kỷ luật, làm việc luộm thuộm, tự kiêu, tự
mãn v.v.
- Dù đó là những chứng bệnh thành niên, nhưng từ nay, Đảng đòi hỏi các đảng viên
phải kiên quyết tẩy cho kỳ sạch những bệnh ấy. Vì nếu không trị cho khỏi hết, thì
nó có thể lây ra mà trở nên rất nguy hiểm cho Đảng.
Kiểm điểm công việc của Đảng. Tháng 1 năm 1949.

Tư liệu Bảo tàng Hồ Chí Minh
- Luôn luôn cầu tiến bộ. Không tiến bộ thì là ngừng lại. Trong khi mình ngừng lại
thì người ta cứ tiến bộ. Kết quả là mình thoái bộ, lạc hậu.
Tiến bộ không giới hạn. Mình cố gắng tiến bộ, thì chắc tiến bộ mãi.
Luôn luôn tự kiểm điểm, tự phê bình những lời mình đã nói, những việc mình đã
làm, để phát triển điều hay của mình, sửa đổi khuyết điểm của mình.
Đồng thời phải hoan nghênh người khác phê bình mình
Cần kiệm liêm chính. Tháng 6 năm 1949. T.5, Tr. 644
- Thang thuốc chữa bệnh quan liêu:
+ Phải đặt lợi ích dân chúng lên trên hết, trước hết.
+ Phải gần gũi dân, hiểu biết dân, học hỏi dân.
+ Phải thật thà thực hành phê bình và tự phê bình.
+ Phải làm kiểu mẫu: Cần, Kiệm, Liêm, Chính, Chí công vô tư.
Phải tẩy sạch bệnh quan liêu. Báo Sự thật, số 140,
ngày 2 tháng 9 năm 1950. T.6, Tr.90
Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị Tổng tư lệnh tối cao
- Dao có mài, mới sắc.
Vàng có thui, mới trong.
Nước có lọc, mới sạch.
Người có tự phê bình, mới tiến bộ.
Tự phê bình. Báo Nhân dân, số 9,
ngày 20 tháng 5 năm 1951. T.6. Tr.209
- Phải thật sự mở rộng dân chủ trong cơ quan. Phải luôn luôn dùng cách thật thà tự
phê bình và thẳng thắn phê bình, nhất là phê bình từ dưới lên. Phải kiên quyết
chống cái thói "cả vú lấp miệng em", ngăn cản quần chúng phê bình.
Nhiệm vụ của chi bộ ở các cơ quan.
Báo Nhân dân, số 176, từ ngày 6 đến 10-4-1954. T.7, Tr.269
Đi làm ruộng với nông dân
Bác sinh ra và lớn lên trong gia đình nhà nho, nhưng là nhà
nho có nguồn gốc nông dân. Thời gian dài từ tấm bé đến tuổi học

trò Bác sống ở quê giữa những người nghèo khổ một nắng hai
sương ngoài đồng nên Người hiểu sâu sắc nỗi khổ, nỗi vất vả của
người nông dân. Những việc của nghề nông đối với Bác cũng
không có gì xa lạ. Thời kỳ hoạt động cách mạng ở nước ngoài, khi
Người được bầu vào Ban chấp hành Quốc tế nông dân, có người
thắc mắc, hoài nghi vì Bác khai trong lý lịch là xuất thân nhà nho,
trí thức. Nghề nghiệp chính là thuỷ thủ, họ e rằng Bác sẽ không có
điều kiện để am hiểu các vấn đề nông dân. Sau khi bế mạc Đại hội
nông dân, các đại biểu đi thăm một nông trang, thấy nông dân đang
lao động, Bác cũng xắn quần xuống giúp một nông dân đang làm
ruộng, việc nhà nông đối với Bác không gì khó khăn, trong khi các
đại biểu nhiều người đang lúng túng; thì Bác làm nhanh nhẹn như
một nông dân thực thụ, trước con mắt thán phục của mọi người. Có
ai biết một thời Bác ra đồng cùng người dân quê làng Sen làm
lụng, hay những lúc đi trồng nho cùng những người nông dân
nghèo khổ ở Bruklin nước Mỹ. Trên mặt trận báo chí công luận,
Bác là người viết nhiều về nông dân, vạch mặt tố cáo sự bóc lột
sức lao động người nông dân của địa chủ cường hào phong kiến,
đẩy nông dân vào con đường bần cùng bằng sưu cao thuế nặng.
Bác đã tìm ra và chính Người đã thực hiện cương lĩnh giải phóng
người nông dân bằng cuộc cách mạng Tháng Tám lịch sử. Người
đã để lại một di sản có một không hai trong lịch sử loài người chân
dung một lãnh tụ bên người nông dân. Người Nga, một dân tộc đi
đầu tiên phong, biến người nông dân lao động "thành người tự do",
nhưng nay họ chưa đi đến nơi đã tạm dừng. Còn người nông dân
Việt Nam chúng ta luôn có Bác Hồ cùng đi bởi không chỉ tư tưởng
Bác soi đường mà hình ảnh Bác dung dị bên người nông dân mãi
mãi là chỗ dựa tinh thần để tự hào, tin tưởng và làm theo lời
Người.
Cùng đổ mồ hôi với người nông dân mới quý hạt gạo, củ khoai,

mới xót lòng khi bão lụt ập đến cướp đi thành quả lao động vất vả
của người dân trên ruộng đồng. Ngay sau khi giành được chính
quyền, tuy bận trăm công nghìn việc Bác vẫn dành nhiều thời gian,
không chỉ nhắc nhở các địa phương đắp đê chống bão lụt, mà còn
trực tiếp xuống tận các xã để đôn đốc, kiểm tra công việc. Biết tin
đê sông Hồng ở khu vực Hưng Yên, Thái Bình bị vỡ, Bác trực tiếp
xuống kiểm tra việc khắc phục hậu quả để có biện pháp kịp thời
cùng chính quyền địa phương vận động giúp đỡ nhân dân vượt qua
khó khăn, Bác hỏi cặn kẽ có mấy người bị nạn, trước hết phải lo
cái ăn để họ khỏi đứt bữa, sau đến nơi ở và ổn định sinh hoạt cho
mọi người, tập trung nhân tài vật lực để đắp lại chỗ đê bị vỡ. Bác
hứa khi nào đắp xong Bác sẽ xuống thăm. Thế rồi, giữ đúng lời
hứa, bốn tháng sau Bác xuống cắt băng khánh thành chỗ đê vừa
mới đắp. Bác đi xem kiểm tra một lượt, nhìn chỗ giáp ranh đê mới
đê cũ, Người nhắc nhở phải tăng cường gia cố mới an toàn. Bác
vừa đi vừa nhún thử độ lún, Bác khen đắp nhanh nhưng chưa lèn
chặt, cần tăng cường thêm lực lượng để đầm thật kỹ mới bảo đảm
lâu dài.
Thay mặt "Ban đời sống" mới nhà văn Nguyễn Huy Tưởng đến
báo cáo với Bác là hoạt động của Ban dựa trên 3 nguyên tắc: dân
tộc, dân chủ và khoa học, nghe xong, Bác liền nói: "Trong đồng
bào ta chưa mấy người hiểu những từ chú nói mà hiện nay họ cần
là cần cái này", vừa nói Bác vừa chỉ tay vào bụng, "phải có cái ăn
đã, nếu không có ăn không làm gì được. Hoạt động của ban "Đời
sống mới" cũng phải tập trung cái đó đã, vận động bà con "lá lành
đùm lá rách", tăng gia sản xuất, cứu đói". Hậu quả nạn đói năm
1945 như một bóng ma ghê rợn phủ lên cuộc sống đói rách của
người nông dân, càng làm không khí ảm đạm khó khăn thêm, trên
cương vị Chủ tịch nước, Bác đi xuống các địa phương như Ninh
Bình, Thái Bình để đôn đốc việc cứu đói, tổ chức tăng gia sản

xuất, đắp đê phòng chống thiên tai Một lần trong cuộc họp, bàn
chống đói, Bác nói: "Các chú biết không, người xưa nói "dân di
thực vi thiên", có đồng chí tưởng Bác nói nhầm bèn chữa lại thưa
Bác "dân dĩ thực vi tiên chứ ạ", Bác cười và giải thích: "Bác nói
"Dân dĩ thực vi thiên" người xưa dạy "dân lấy cái ăn làm trời",
Đảng, Chính phủ phải lo cái ăn cho dân không được để dân đói.
Đó là Bác lấy lời của Lục sinh nói với Hán Cao Tổ "Nhà vua lấy
dân làm trời, dân lấy cái ăn làm trời". Bác dạy thật chí lý. Năm
1955, nghe tin lũ lụt lớn ở Kiến An, gây thiệt hại lớn về người và
của cho nhân dân. Bác cho gọi đồng chí có trách nhiệm lên hỏi cụ
thể. Bác hỏi, xã Hoà Nghĩa thiệt hại mấy người chết, nhà cừa
trưởng học bệnh xá bị đổ bao nhiêu, khi nghe báo cáo con số thiệt
hại cụ thể, Bác rất lo lắng và rơm rớm nước mắt nhất là biết có
nhiều gia đình chết người và trôi nhà cửa. Bác căn dặn phải có
phương án tỷ mỉ khắc phục hậu quả thiệt hại. Người chỉ thị Tỉnh
ủy phải trực tiếp chỉ đạo và dặn đi dặn lại "trước hết phải lo cái ăn,
nơi ở cho người bị nạn, tuyệt đối không để một người bị đói". Cứ
đến mùa nước lũ, hay kỳ hạn hán Bác thường trực tiếp xuống địa
phương tham gia "chống trời" cùng nhân dân. Nhớ lần Bác về công
trường Đại thuỷ nông Bắc-Hưng-Hải, Bác xuống công trường
tham gia lao động như một người dân. Trên đường đi, thấy một chị
đang đẩy chiếc xe cút (!)(!)(!) nặng nề lên dốc, Bác vội chạy đến
đẩy giúp chị. Bác hoà vào không khí lao động khẩn trương của
công trường như tăng thêm sức mạnh cho mọi người hăng say
quên mình trong không khí vui vẻ. Lần Bác về Hải Hưng tham gia
chống hạn với nông dân, nghe tin Bác về các đồng chí cán bộ tỉnh
tổ chức đón Bác long trọng, Bác không hài lòng, Bác phê bình
ngay: "Bác về là đi chống hạn chứ có phải đi chơi đâu mà đón
tiếp"~ Bác ăn mặc quần áo như một lão nông thực sự Người đi rất
nhanh đến chỗ nhân dân đang đào mương, Bác vội xắn quần xắn

tay áo xuống cùng đào đất với bà con để lại phía sau các "quan
cách mạng" trong những bộ quần áo bảnh bao đang lúng túng hổ
thẹn trước dân chúng; cuối cùng tất cả cùng ào xuống đào đất với
bà con theo gương Bác. Bác không nói, không hô hào, nhưng
Người đã làm cuộc "cách mạng" cho "các quan" trước muôn dân.
Bác ăn cơm chung với mọi người tại nơi đang đào mương. Thấy
người xới cơm, xới bát nào cũng vơi, Bác nói vui: " Chú xới cơm
thế này thì công việc làm sao cho đầy được" Bữa ăn có Bác thêm
vui hẳn lên. Bác hỏi chuyện: "Các chú có biết nấu nướng không?".
Mỗi người kể theo cách hiểu của mình. Bác thừa hiểu chẳng có ai
ở nhà thực sự giúp vợ nấu ăn cả, nên nghe nói nấu nướng sao thì
kể vậy. Rồi Bác kể chuyện hồi xưa Bác làm phụ bếp thế nào nên
biết nấu nướng, Bác nói nghề nấu ăn ai biết nấu kể là biết ngay,
còn ai chỉ nghe hoặc nhìn thấy thì không thể bịp được người khác,
vì kỹ thuật nấu ăn quan trọng là chỗ này - Bác chỉ vào mũi, chứ
không phải chỗ này - Bác chỉ vào mắt và tai. Bác nói tiếp, vì sao
mọi người phải biết nấu ăn là vì vừa giúp được "cô ấy" có thời gian
học tập và nuôi dạy con cái, vừa rèn luyện mình, chữa cái bệnh
hão, bệnh sĩ, bệnh gia trưởng thâm căn cố đế, cho việc bếp núc là
của đàn bà. Hơn nưa khi tự mình nấu thì mình ăn ngon hơn, thích
ăn món nào thì làm món ấy. Chuyện vui, nhưng Bác giáo dục đạo
đức con người, đạo đức cộng sản trong cán bộ. Bác lo lắng quan
tâm đến sự tiến bộ của cán bộ từ những việc làm bình thường nhất,
nhưng chính đó là những xuất phát điểm của đạo đức chân chính,
mà mọi người cán bộ muốn dân tin thì rõi vào để tự xem xét, rèn
luyện hoàn thiện mình. Bác về Hà Đông chống hạn, khi đến một
con mương chắn ngang đường, đồng chí Chủ tịch tỉnh mời Bác đi
vòng đến chỗ dễ qua hơn. Nhìn xuống thấy đồng chí Chủ tịch tỉnh
đi đôi dày bóng lộn, Bác bảo: "Chú cứ đi đường ấy" nói rồi, Bác
cởi dép lội tắt qua cho nhanh để đến với nông dân đang tát nước

chống hạn. Sang bờ bên kia, Bác bảo mọi người cùng tát nước giúp
dân. Bác chỉ một thanh niên ăn mặc bảnh bao cùng tát nước với
Bác, nhưng đồng chí này không biết tát nước, đồng chí Bí thư tỉnh
đỡ lời: "Thưa Bác, đồng chí này là nhà báo ạ". Bác cười và nói:
"Nhà báo của nông dân thì phải biết lao động như nông dân thì viết
mới đúng được".
Mỗi người dân chúng ta ai cũng được xem hình ảnh Bác đang đạp
nước trên guồng chống úng, ghi nhận trong ta hình ảnh Bác hoà
mình với nỗi vất vả một nắng hai sương của người nông dân. Khắc
sâu trong ta tâm niệm Chủ tịch nước cũng là một công dân, một
người lao động trong triệu triệu người không có gì cách biệt. Đó là
hình ảnh được ghi lại vào năm 1960 Bác về chống úng tại xã Hiệp
Lực. Vừa đạp guồng nước, Bác nhắc nên lắp ổ bi vào trục để người
đạp đỡ vất vả, mà năng suất cao hơn. Bác hỏi các cô thanh niên có
biết hát đối đáp không, rồi Bác lẩy Kiều: "Trăm năm trông cõi
người ta, chống úng thắng lợi mới là người ngoan". Bác bảo các cô
lẩy tiếp, các cô vì mải ngắm Bác nên không chuẩn bị không lẩy
tiếp được chỉ biết vỗ tay, và xin mắc nợ với Bác. Bác nói: "Muốn
lao động đỡ mệt và có sức mạnh, thanh niên nên tổ chức văn
nghệ".
Năm 1958, Bác về Nam Định dự Hội nghị "Bàn về sản xuất, nông
nghiệp". Bác chăm chú lắng nghe các bản báo cáo thành tích của
các đơn vị. Bác chú ý bản báo cáo nói về cách làm các loại phân
bón. Bác đứng lên nhìn khắp hội trường và hỏi to: "Chú nào gánh
bùn đổ-cho hai sào lúa có đây không?", không có ai đứng dậy. Một
đồng chí cán bộ tỉnh uỷ báo cáo, là người nông dân đó không thuộc
diện tham dự hội nghị này. Bác phê bình và yêu cầu cho người đó
đến dự hội nghị ngay. Bác hỏi chị em phụ nữ ở đây có đội phân
nữa không? Các đồng chí cán bộ tỉnh chưa dám báo cáo Bác ngay,
may có chị đại biểu nữ đỡ lời: "Thưa Bác, chị em ở đây không

quen gánh nên cái gì cung đội ạ", Bác dặn: "Nên tìm cách cải tiến
vận chuyển bằng xe để đỡ cho chị em về lâu dài".
Năm 1963, Bác về chống hạn ở Nghiêm Xuân (huyện Thường Tín)
hôm đó Bác đến sớm, đồng bào còn vắng, tiện đường Bác xuống
khu dân cư, hỏi thăm dân- Bác vào một nhà dân thăm và hỏi tết
vừa qua gia đình đón, tết có vui không. Có cụ già hơn 60 tuổi thưa
với Bác là ăn tết không vui. Bác hỏi vì sao, cụ kể lại gia đình từ
xưa có ngôi nhà gần đường, vừa qua Huyện có lệnh đuổi bà đi để
mở đường không bồi thường, cũng không chỉ cho gia đình chuyển
đi đâu, vì thế gia đình ăn tết không vui, người ra lệnh ấy là ông
Chủ tịch huyện. Bác lắng nghe mà vẻ mặt không vui Bác bảo, làm
người cán bộ như vậy là không xứng đáng không khác gì cường
hào xưa. Sau đó Bác chỉ thị phải điều tra làm rõ ngay. Vị Chủ tịch
kia bị kỷ luật. Lòng dân rất hả dạ và nhắc mãi chuyện đó như làm
gương cho cán bộ đối với dân phải làm gì. Hơn nữa hôm đó Bác
tham gia chống hạn với dân, trời nắng to có đồng chí cầm ô che
cho Bác, Bác bảo: "Dân chịu được thì Bác cũng chịu được, chú
làm như Bác là ông quan thời xưa". Trên đường đi chống hạn giúp
dân, Bác thấy đi trước Bác có xe công an còi inh ỏi dẹp đường,
Bác cho dừng xe và lệnh cho xe công an dừng lại, Bác mới đi tiếp.
Bác phê bình: "Bác xuống với dân để chống hạn mà các chú làm
cho dân họ sợ thì xuống làm gì?". Trong di sản tư tưởng của Bác,
vấn đề giải phóng nông dân chiếm một vị trí quan trọng. Trên hành
trình đi tìm đường cứu nước, tiếp cận với nhiều xu hướng chính trị
của loài người, Bác phân tích lựa chọn tiếp thu những gì tinh túy
phù hợp với hoàn cảnh đất nước và vận dụng một cách sáng tạo
những tinh hoa đó vào hoàn cảnh cụ thể của nước nhà. Người đi
đến kết luận vấn đề giải phóng dân tộc ở Việt Nam thực chất là vấn
đề nông dân. Nông dân vừa là động lực nhưng cũng là đối tượng
của cách mạng. Cho nên Bác dành nhiều trí tuệ, công sức và thời

gian cho vấn đề nông dân. Từ tấm bé, xuất phát từ trực quan sinh
động, trước cảnh người nông dân làng quê khổ cực vì bị áp bức,
bóc lột mà nghèo đói, từ đó mới có nhận thức do mất nước, không
có tự do và động cơ ra đi tìm đường cứu nước một phần cũng được
xuất phát từ vấn đề nông dân. Thời kỳ hoạt động cách mạng ở
nước ngoài, Bác nói nhiều viết nhiều; đấu tranh không mệt mỏi
cho vấn đề giải phóng dân tộc, cho quyền lợi người nông dân. Bác
bênh vực, xây dựng cho mình một hệ thống quan điểm về vấn đề
nông dân trong hệ tư tưởng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp.
Bác đứng về nông dân, bênh vực quyền ldi củá nông dân nhưng
không sa vào nông dân chủ nghĩa, không quá tả, không xô bồ khi
phân tích mặt tốt, mặt phải hoàn thiện của nông dân trong cách
nạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Những năm tháng cuối đời Bác, tuy sức khoẻ yếu nhưng Người
dành nhiều thời gian làm việc với các đồng chí phụ trách nông
nghiệp. Họp Bộ Chính trị, hay các buổi làm việc về nông nghiệp
Bác thường nhắc bản Điều lệ Hợp tác xã. Bác bảo công nhân có
ngày kỷ niệm thì nông dân cũng phải có ngày kỷ niệm. Nên lấy
ngày ban hành Điều lệ Hợp tác xã làm ngày kỷ niệm cho nông dân.
Bác dặn viết bản Điều lệ sao cho nông dân ít học cũng hiểu được.
Sau khi đọc bản dự thảo, Bác nói đây là bản dùng cho cán bộ, còn
đối với xã viên thì viết phải tóm tắt hơn, dễ hiểu hơn. Bác đọc và
sửa chữa rất kỹ, có chỗ nào, chữ nghĩa cầu kỳ khó hiểu Bác đều
sửa lại. Số thứ tự các chương đánh số La mã, Bác sửa lại "Chương
Một Hai ". Câu "Nhà nước hết lòng giúp đỡ" Bác bỏ chữ "hết
lòng" vì thừa. Câu "xã viên phải góp ruộng đất, trâu bò, các công
cụ chủ yếu", Bác sửa cho chặt chẽ hơn: "Xã viên phải góp ruộng
đất, góp cổ phần, để lại trâu bò và các công cụ chủ yếu" chữ "để
lại" vừa có tình và có nghĩa giữa xã viên và Hợp tác xã. Trong
cuộc họp Bộ Chính trị bàn về nông nghiệp, Bác đề nghị: "Quỹ tích

luỹ để khoảng 7 - 10% thu nhập Hợp tác xã là quá cao, đời sống
dân còn thấp nên tập trung nâng mức sống của dân". Bộ Chính trị
nhất trí chỉ để quỹ tích luỹ 5 - 10%. Sau đó Bác yêu cầu chuyển
nội dung Bản Điều lệ sang diễn ca phát trên đài phát thanh cho dân
dễ thuộc dễ nhớ để làm theo.
Bác Hồ với Thủ tướng Ấn Độ Nehru
Tại cuộc đối thoại với các đoàn viên thanh niên ngành ngoại giao chiều ngày 25-8 vừa
qua tại Hà Nội, một bạn trẻ đề nghị Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên kể về những
kỷ niệm khi ông làm phiên dịch cho Bác Hồ. Ông Nguyễn Dy Niên, năm nay 70 tuổi, 51
năm làm việc trong ngành ngoại giao, đã kể cho các đoàn viên thanh niên nghe câu
chuyện còn ít người biết dưới đây.
Năm 1958 Bác Hồ sang thăm Ấn Độ. Trước đó, tôi được cử sang Ấn Độ học tiếng
Hindhi, chuẩn bị cho chuyến thăm này của Bác Hồ và vinh dự được làm phiên dịch cho
Bác trong thời gian Người ở thăm Ấn Độ.
Ấn tượng sâu sắc và vinh dự to lớn đối với tôi là lần đầu tiên được đọc bài diễn văn của
Bác đã dịch sẵn sang tiếng Hindhi. Trong cuộc mít-tinh có hàng vạn người dự tại Red
Fort (Thành Đỏ) ở thủ đô Delhi, các bạn Ấn Độ làm sẵn một cái ghế cho Bác Hồ ngồi
trên bục danh dự. Chiếc ghế trông như một cái ngai vàng, rất lớn. Trong khi đó, Thủ
tướng Ấn Độ ngày ấy là J. Nehru thì chỉ ngồi một chiếc ghế bình thường như mọi người
khác. Khi Thủ tướng Nehru mời Bác Hồ ngồi vào chiếc ghế đó, Bác dứt khoát từ chối.
Thấy vậy, Thủ tướng Nehru nói: Ngài là khách danh dự của chúng tôi, việc Ngài ngồi lên
chiếc ghế này chính là niềm vinh dự của chúng tôi mà Chứng kiến điều này, hàng vạn
người dự mít tinh phía dưới quảng trường đứng cả lên xem. Hai vị lãnh tụ của hai nước
cứ nhường nhau, cuối cùng chẳng ai ngồi lên chiếc ghế lớn ấy. Thủ tướng Nehru đành
gọi người cho chuyển chiếc ghế đi, thay bằng một chiếc ghế khác giản dị hơn. Thấy vậy,
hàng vạn người dân Ấn Độ dưới quảng trường rất cảm kích vỗ tay vang dội và hô rất to:
"Hồ Chí Minh muôn năm!" Hồ Chí Minh muôn năm!". Chuyện này được người Ấn Độ
sau đó kể lại rất nhiều, trở thành một huyền thoại của họ về Bác Hồ.
Trong chuyến thăm này, trong một bữa tiệc do Thủ tướng Nehru chiêu đãi Bác Hồ có
món thịt gà địa phương rất nổi tiếng. Người Ấn Độ khi ăn cơm không dùng thìa, dĩa mà

dùng năm ngón tay để bốc thức ăn. Cả Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ cũng muốn dùng tay
bốc thức ăn. Nhưng tại bữa tiệc quốc tế người ta phải dùng dao, thìa, dĩa cho lịch sự. Khi
món thịt gà được đưa ra, các quan khách Ấn Độ có vẻ không quen dùng dao, dĩa. Bác Hồ
rất tinh ý, Người nói với Thủ tướng Nehru: Thịt gà phải ăn bằng tay thì mới ngon chứ
còn ăn bằng thìa dĩa thì khác nào nói chuyện với người yêu lại phải qua ông phiên dịch.
Nghe Bác Hồ nói vậy, cả bàn tiệc cười ầm cả lên làm cho không khí bữa tiệc hôm đó rất
vui vẻ và thân mật.
Vàng là ở hai bàn tay
Bác Hồ vào Phan Thiết dạy học ở trường Dục Thanh của Hội Liên Thành. Bác sĩ Nguyễn
Kinh Chi ở Bộ Y tế là học trò của thầy Thành kể lại:
- Thầy giáo Thành dạy lớp ba, thầy thường mặc áo vải, chân đi guốc. Trong giờ địa lý,
thầy giáo Thành dạy tiếng Pháp, tôi còn nhớ mãi buổi học đầu tiên của thầy Thành:
"Montagne" là núi, "rivière" là sông
Núi kia là núi của ai
Sông xanh nước biếc chảy dài đi đâu?
Thầy giáo Thành bảo núi thì có rừng. Trên rừng rất nhiều gỗ quí như lim, trai, sếu, táu,
vàng tâm, v.v . Có nhiều cây thuốc quí, có nhiều muông thú như hổ, báo, hươu, nai,
voi Trong núi có nhiều khoáng sản như vàng, bạc, châu báu, dưới sông có nhiều cá
ngon, nước sông có nhiều phù sa, nên ngăn nước ấy lại tưới cho đồng ruộng thì màu mỡ
tươi tắn. Tổ tiên ta kiên cường, giang sơn ta gấm vóc: thầy giáo Thành dạy chúng tôi như
vậy?
Ông Chi đọc học xong rồi đi du lịch. Ông thắc mắc tại sao thầy giáo Nguyễn Tất Thành
dạy rừng núi, sông ngòi, đất đai là của ta. Thế mà bây giờ Tây nó lại lấy. Đời sống của
người lao động thì khổ cực, nghèo đói. Ngày ngày làm nghề thuốc tiếp xúc với người
bệnh, bao nhiêu câu hỏi đã gieo vào đầu óc ông: tại sao người đàn bà làm ăn vất vả, sớm
tối ngày đêm sương gió, thế mà chỉ có một cái yếm bằng vải và chiếc khố tải che thân?
Người đàn ông cũng chỉ có cái quần đùi? Các em bé tám chín tuổi vẫn trần truồng chưa
có áo quần mặc? Ông Chi suy nghĩ và càng thấm thía những lời giảng của thầy giáo
Thành gieo vào lòng tuổi trẻ nhiều ý nghĩa. Ông và các bạn ở trường Dục Thanh cũ dần
dần ghét Tây. Từ đó ông bắt đầu đi tìm cách mạng và ông cũng như nhiều bạn bè khác

trở nên người Cộng sản.
Rời Phan Thiết, Bác Hồ đi vào Sài Gòn học nghề. Ngày ngày, lúc học xong, Bác thường
xuống xem cảng Sài Gòn. Bác đi để biết tình hình. ở cảng này, Bác Hồ làm quen với ông
Mai, được ông giới thiệu xuống làm ở chiếc tàu của hãng "Vận tải hợp nhất" của Pháp.
Tàu Đô đốc Latútsơ Trêvin chuyên chở thực phẩm cho Pháp ở thuộc địa. Ông Mai người
ở An Dương (Hải Phòng), gặp Bác lần đầu đã thấy mến. Bác Hồ ngỏ ý muốn xin làm ở
dưới tàu. Ông Mai vui vẻ nhận lời giới thiệu giúp Bác. Ông đưa Bác đến gặp thuyền
trưởng người Pháp. Người thuyền trưởng nói:
- Nếu cần làm việc ở đây, tám giờ sáng mai đến?
Tối hôm ấy về chỗ ở, Bác rủ thêm một người bạn cùng đi Pháp. Người bạn thân đó nói:
Ta đi Pháp sẽ chết đói thôi, bởi vì chúng ta không có tiền để ǎn.
Bác đã giơ tay ra và nói:
- Tiền là ở đây, vàng là ở đây. Chúng ta còn trai trẻ. Chúng ta sẽ làm lụng để sống.
Sáng hôm sau, người bạn ấy ngần ngại từ chối, không đi. Bác chia tay anh ta. Ông Mai
đưa Bác xuống tàu gặp người thuyền trưởng. Nhìn Bác một lát, người thuyền trưởng
Pháp nói:
- ở đây không có việc gì nhẹ cho anh làm cả. Chỉ có những việc nặng thôi, trông anh gầy
yếu thế kia. Làm sao nổi?!
Bác trả lời:
- Vâng, tôi gầy yếu thật, nhưng tôi còn trai trẻ, tôi có nghị lực, tôi có thể làm được tất cả!
Người thuyền trưởng thấy Bác nhanh nhẹn giỏi tiếng Pháp nên cho làm phụ bếp. Bác
nhận lời làm việc ở đây và lấy tên là Văn Ba.
Qua những ngày làm việc đầu tắt mặt tối ở dưới tàu, Bác nhận thấy ở đây có hai hạng
người: người bị bóc lột và người đi bóc lột. Hai thái cực đó thật là rõ ràng. Công việc mà
Bác phải làm hàng ngày thật là cực nhọc: hết bưng những sọt khoai tây lên mặt bàn để
gọt rửa, lại bê những thùng rượu để phục vụ các bữa ǎn, rồi rửa bát, nồi, soong, giặt giũ,
lau bàn ghế, đánh bóng boong tàu. Suốt ngày Bác nhễ nhại mồ hôi và mình đầy than bụi.
Công việc vất vả thật nhưng khi được nghỉ tay là Bác tranh thủ dạy ông Mai chữ quốc
ngữ.
Trong phong trào Đông Du do cụ Phan đề xướng, cụ chủ trương "Gương Nhật Bản, đất

A' Đông". Cụ mong nhờ vào bọn Nhật cô lập giặc Pháp thì thật khác nào "đưa hổ cửa
trước, rước hùm cửa sau". Cụ Phan Chu Trinh lúc này đã bị bắt và theo quan niệm của cụ
thì "Học Pháp càng nhiều; làm bồi càng to".
Vậy tại sao Bác Hồ lại đi Pháp? Vừa rồi chúng ta tìm được cuốn lược dịch "Binh thư Tôn
Tử" của Bác, Bác nói là lược dịch, nhưng khi đọc chúng ta nhận thấy là chiến lược của
Bác. Qua sự giáo dục của gia đình và cuốn lược dịch "Binh thư Tôn Tử", qua trao đổi với
một số cụ đương thời có học với Bác và ngay cụ thân sinh ra Bác vẫn thường dạy học trò
là "biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng", chúng ta càng thấy rõ việc Bác đi Pháp là Bác
có suy nghĩ chín chắn. Với lại hồi ấy, những từ Pháp "Tự do, bình đẳng, bác ái rất hay,
Bác muốn biết đằng sau nhừng từ ấy ẩn giấu cái gì
Bác lĩnh được mười quan, dần dà sau này được năm mươi quan (trong khi đó mỗi nhân
viên người Việt Nam ít nhất cũng phải lĩnh đến một trăm quan). Lên đất pháp, vì tiền ít
Bác thường phải thuê chỗ ngủ đứng. ở nước Pháp lúc này có hai loại tiệm ngủ. Một loại
ngủ giường đệm, màn và lò sưởi. Một loại là lấy vé vào ngủ đứng. ở Pháp ít lâu, Bác đi
châu Phi, rồi Bác lại trở về Pháp. Lúc rời châu Phi, Bác có nói:
- Người ta nói ở châu Phi có nhiều ác thú, nhưng ác thú ở đây mà ác hơn cả, chính lại là
lũ thực dân. Sau này, các đồng chí cộng sản quốc tế sang dự lễ tang Bác có cho biết:
Bác đi châu Phi trên một chiếc tàu buôn. Chiếc tàu buôn này rời cảng Lơ Havơrơ đỗ tại
Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Angiêri, Tuynidi và các cửa biển phía đông châu Phi cho đến
Công gô. Mỗi khi tàu cập bến, Bác tìm cách lên thăm thành phố, khi chiếc tàu này trở về
Pháp sửa chữa, người thuyền trưởng thấy anh Ba làm được việc, bèn giới thiệu đi làm bồi
ở một chiếc tàu chở sĩ quan Pháp đi Anh nghỉ mát. Đến nước Anh, Bác không đi làm bồi
tàu nữa. Lên thủ đô nước Anh, Bác tìm đến một trường trung học. Bác rất thích cuộc đời
học sinh. Bác ngồi xem các em học và Bác làm quen được với một người gác cổng. Bác
xin làm việc quét tuyết ở trường học này. Làm được một tuần lễ, vì lao động cực nhọc
quá trời lại rét buốt nên Bác bị cảm lạnh và sưng phổi phải thôi việc.
Khi khỏi bệnh Bác xin làm ở tiệm ăn Cáclơtông, một khách sạn lớn nhất nước Anh lúc
bấy giờ. Khách sạn có một người Pháp tên là ÊcÔpphie làm bếp nổi tiếng, được người ta
đặt tên là "Vua bếp". Những tiệc lớn của nữ hoàng Anh đều do ông ta đứng ra đảm nhận.
Một hôm anh Ba đang rửa bát. Vua bếp đi qua hỏi:

- Anh Ba, anh đổ các thứ thừa đi, chứ anh để lại làm gì?
- ở đây thừa đổ đi - anh Ba trả lời - nhưng ngoài kia những người đói lại đang cần, tôi để
lại lát nữa cho người ta.
Vua bếp ra chiều cảm động thấy một thanh niên châu A' lòng nhân hậu như vậy nên rất
có cảm tình. Nhân đấy Bác lại nói:
- Xin ông cho tôi làm công việc gì có nhiều tiền để tôi chi trả tiền học tiếng Anh. Tôi học
năm bài đã mất năm đồng, trong khi đó tôi chỉ được trả có sáu đồng, còn lại không đủ ăn
trong một tuần lễ.
Vua bếp cười bảo:
- Tôi là người Pháp mà không học được tiếng Anh, còn anh là người châu A' mà dám học
tiếng Anh cơ à? Tôi ở đây hai năm rồi mà chỉ biết có vài ba tiếng "vâng" và "không. Nói
vậy, ông này vẫn giúp Bác, Bác được bố trí đốt lò.
Thế là từ năm giờ sáng đến tám giờ tối Bác phải nặng nhọc đưới hầm lò. Tuy tiền công
có được nhiều hơn, nhưng không được học hành, vì đêm về mệt lả làm sao đi học được
nữa.
Do đó Bác tìm gặp Vua bếp yêu cầu cho Bác làm một nghề khác. Vua bếp xếp cho Bác
làm bánh ga tô, đỡ nặng nhọc hơn và có thêm tiền để học. Thời kỳ này Bác tranh thủ học
nhiều ngoại ngữ: Nǎm một ngàn chín trǎm mười ba, một ngàn chín trăm mười bốn ở
Anh, Bác học tiếng Anh do một giáo sư người ý dạy. Thầy giáo này biết tiếng Đức, cho
nên Bác học cả tiếng Đức và Y' của giáo sư này. Hàng ngày, Bác ra ngồi ở vườn hoa
Hayđơ để học. Lúc này, Bác có quan hệ với các nhà yêu nước ở Â'n Độ như Gǎngđi. Nhà
sử học Thụy Điển, trong một cuốn sử viết về Bác, cho biết: nǎm mộ ngàn chín trǎm mười
lǎm Bác ở khu vực người da đen Háclem (nước Mỹ) và làm nghề chụp ảnh. Nǎm 1916
sang Đức, trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Bác trở lại Pháp và ở nhà cụ Phan Chu
Trinh. ở Pháp, Bác tham gia phong trào của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
Pháp. Bác tổ chức nhóm Việt kiều. Bác đã gặp Sác lông ghê (Charles Longuet), chủ bút
tờ báo "Dân chúng" là cháu ngoại của Các Mác. Ông này đã giúp đỡ Bác viết báo. Lúc
đầu Bác viết nǎm dòng rồi sửa hết, rồi lại viết. Bài báo đầu tiên của Bác là bài báo nǎm
dòng đǎng ở tờ "Đời sống thợ thuyền", nǎm 1917. Sau đó Bác viết cho nhiều tờ báo ở
Pháp như tờ "Nhân đạo và "Dân chúng" hồi đó Bác ở nhà số 9 ngõ hẻm Công poǎng

(compoint). Đạo diễn Phạm Kỳ Nam đi Paris làm phim về Bác cung cấp thêm nhiều tư
liệu: Nhà số 9 Công poǎng tầng dưới là quán cà phê, tầng trên, Bác thuê ở, Bác làm nghề
rửa ảnh. Nhà Bác kê vừa một cái giường, hai cái ghế một cái bàn con. Trên bàn có cái
chậu thau, trong thau có một xô nước. Khi viết, Bác phải đút thau và xô xuống gầm
giường. Hàng ngày, Bác nấu một nồi cơm (gọi là nồi nhưng thật ra nó là cái hộp bích qui
vuông thấp). Khi thổi cơm, Bác hấp vào đó một con cá khô, Bác ǎn một nửa, còn một nửa
lấy giấy báo gói mang đi, làm việc xong, Bác mang ra ǎn nốt suất cơm còn lại. Bác làm
việc rất khẩn trương để có đủ tiền sống, để có nhiều thời gian vào thư viện đọc sách. Bác
còn tranh thủ đi nghe người ta giảng thuyết để học tập. Khi cách mạng Tháng Mười Nga
thành công, Bác rất vui mừng, phấn khởi. Bác vào đảng xã hội Pháp. Tháng ba nǎm một
ngàn chín trǎm mười chín, Quốc tế thứ ba (tức quốc tế Cộng Sản) thành lập, Lênin có đọc
bản luận cương về cách mạng thuộc địa. Khi tiếp thu bản luận cương ấy, Bác đã nói:
- Luận cương của Lênin đã làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi sáng tỏ, tin tưởng biết
bao. Tôi vui mừng phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng, mà tôi nói to, như đang
nói trước quần chúng đông đảo. Hỡi đồng bào bị đọa đày đây là cái cần thiết cho chúng
ta?
Bác tiếp thu điều này rất sâu sắc. Báo Gramma Cuba đã viết: "Nhân loại tiến bộ trên thế
giới đời đời mắc nợ nhân dân Việt Nam".
Dư luận nhiều nước trên thế giới nêu rõ: Các Mác đề ra chủ nghĩa xã hội khoa học, Lênin
là người tổ chức thực hiện. Lênin là người đề ra cách mạng ở các nước thuộc địa, Hồ Chí
Minh là người tổ chức thực hiện và rút những kinh nghiệm quí báu.
Vâng lời Bác dạy:
Không có việc vì khó,
Chỉ sợ lòng không bền.
Đào núi và lấp biển,
Quyết chí ắt làm nên.
Bác chỉ có hai bàn tay trắng mà Bác xây dựng cả sơn hà. Vàng là ở đôi bàn tay lao động,
như thế đấy?
Ít là bao nhiêu
Tháng 12/1965, Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, Hội phụ nữ Hà Nội quyết

định mở Đại hội "Ba đảm đang" để động viên tinh thần chị em. Thành Hội có viết thư lên
báo cáo với Bác Hồ, không ngờ hai ngày sau, Bác cho gọi lãnh đạo Hội tới gặp Người.
Bác hoan nghênh sáng kiến của Hội, bàn kỹ nội dung và cách làm, rồi bất chợt bác hỏi:
"Thế đại hội định tiêu hết bao nhiêu tiền?". Chị phụ trách Hội lúng túng: "Thưa Bác,
cũng ít thôi ạ". Bác cười: "Ít là bao nhiêu?". Thấy chị đỏ mặt, Bác không hỏi thêm nữa,
chỉ nhẹ nhàng nhắc: "Đại hội phải bàn những việc thiết thực, tránh hình thức, lãng phí, thì
mới có kết quả tốt được!
Việc nào dễ nhất
Hồi ở chiến khu Việt Bắc, các cơ quan đóng sâu ở trong rừng, hằng tháng, mọi người
phải đi lấy gạo về ăn, có khi mất cả ngày mới được một chuyến, không phải không có
người ngại. Một lần, Bác đi công tác qua một con suối, thấy rất đông cán bộ, trong đó có
nhiều trí thức, trên đường đi lấy gạo về, đang ngồi nghỉ. Bác dừng chân hỏi:
- Đố các cô chú, trong nghề nông, việc nào làm dễ nhất?
Mọi người đua nhau trả lời. Người bảo dễ nhất là gieo mạ, gặt hái; người thì cho là xay
lúa, giã gạo. Một bác sĩ giục Bác:
- Thưa Bác, Bác chấm cho ai trả lời đúng ạ?
Bác cười:
- Theo Bác, việc làm dễ nhất là đi đến kho lấy gạo về nấu ăn
Bác Hồ đến với các cháu mồ côi ở trại Kim Đồng
Bác Hồ tới thăm các cháu thiếu nhi miền Nam tập kết ra Bắc ở tỉnh Thanh Hoá (1957)
Một sáng đẹp trời, Bác Hồ đã đến với các cháu ở trại Kim Đồng. Ngay từ phút đặt chân
đến cổng trại nhìn bờ rào dăng dây thép gai, trong mắt Bác hiện lên sự nhức nhối. Nói với
các cán bộ phụ trách giọng Bác nhẹ nhàng, nhưng vô cùng thấm thía:
- Đây là nơi nuôi dạy các cháu mồ côi, được mang tên liệt sĩ Kim Đồng, sao các cô, các
chú lại rào dây thép gai như một nhà tù thế này?
Chú Thuận thưa:
- Dạ thưa Bác, cơ ngơi của thời đại cũ để lại đấy ạ!
Bác lắc đầu: Các cô, các chú phảI tháo gỡ đám dây thép gai ngay. Chế độ cũ nhóm các
cháu vào đây, chúng ta tiếp tục nuôi dạy vì tương lai của các cháu.
Bác đi vào từng căn phòng ở, phòng ăn, phòng học, nơi các cháu vui hơi. Bác khen:

“Được cái gọn gàng, ngăn nắp, sạch sẽ, nhưng còn – Bác hỏi cán bộ phụ trách trại – còn
thế nào, các cô, các chú biết không?
Mọi người nhìn Bác, vừa xúc động vừa lúng túng. Rồi chú Thuận mạnh dạn đáp:
- Thưa Bác, các cháu ở trại còn chật chội ạ.
Bác Hồ mỉm cười:
- Chú nói mới đúng một phần nhỏ thôi. Đối với các cháu mồ côi, điều lớn nhất là phải bù
đắp tình thương. Các cháu đã không còn bố mẹ, thì các cô, các chú ở đây là bố, là mẹ của
các cháu. Các cô, các chú nuôi dạy các cháu thì phải đem cả tấm lòng làm mẹ, làm cha
mà cư xử, mà săn sóc, mà dạy bảo. Bác thấy ở đây, đối với các cháu, còn cái vẻ “trại
lính”, thiếu cái ấm cúng của gia đình. Dạy cho các cháu vào khuôn phép, sống có kỷ luật,
trật tự là đúng. Nhưng không được để các cháu mất cái hồn nhiên, mất cái vui tươi, thoải
mái. Đừng biến các cháu thành các “ông cụ non”. Các cô, các chú phảI làm sao cho các
cháu thấy trại Kim Đồng là gia đình của các cháu, đi xa các cháu nhớ, lúc ở nhà các cháu
vui. Được như vậy thì cần gì phải rào dây thép gai, phải canh phòng nghiêm ngặt với các
cháu?
Bác lại hỏi:
- Những cháu kém có nhiều không?
- Thưa Bác, còn nhiều lắm ạ.
- Nhiều là bao nhiêu?
Đồng chí phụ trách hơi bối rối. Bác nói ngay:
- Quản lý các cháu thì cần biết cụ thể từng cháu một, biết chắc chắn cái dở, cái hay của
mỗi đứa. Có như vậy thì dạy mới có kết quả tốt.
Bác bảo chú Thuận đứng lên:
- Cho Bác gặp cháu nào kém nhất trại.
Em Quốc đứng khoanh tay trước mặt Bác, Bác cúi xuống vuốt ve nhè nhẹ tóc em. Bác
hỏI:
- Tên cháu là gì?
- Thưa Bác tên cháu là Quốc lủi ạ!
Bác nhìn em, ái ngại:
- Ai đặt cho cháu cái tên ấy?

- Dạ thưa, các bạn gọi cháu thế ạ.
- Vì sao các bạn gọi cháu là Quốc lủi?
- Thưa Bác… Cháu… Cháu hay trốn trại. Cháu chui qua hàng rào, lủi vào các ngõ phố ạ.
Sao cháu không chịu ở trong trại mà lại trốn ra bên ngoài?
- Thưa Bác… ở trong trại khổ cực lắm ạ.
- Khổ cực như thế nào?
- Dạ chúng cháu bị gò bó đủ thứ ạ.
- Cháu nói rõ sự gò bó cho Bác nghe nào?
- Thưa Bác…
Quốc nhìn Bác Hồ mà nước mắt trào ra, nghẹn ngào không nói lên lời. Bác xoa đầu em,
Bác đã hiểu thấu tất cả, dù em chưa nói ra được những điều muốn thưa với Bác. Bác
khuyên Quốc: “Từ nay cháu phải phấn đấu bỏ cái tên “lủi”, giữ lại cái tên Quốc…”.
Nước mắt càng giàn giụa trên hai má Quốc.
Bác Hồ cầm tay em Quốc đi ra chỗ cả trại đang tập hợp đón đợi Bác. Bác thân mật kể cho
các em nghe một số gương tốt của thiếu nhi trong kháng chiến chống Pháp, gương tốt của
thiếu nhi ở Liên Xô và các nước bạn. Các em đã không cầm được nước mắt khi nghe Bác
kể về thời niên thiếu của Bác, Bác đã từng thèm một cái đồ chơi, ước ao một bộ quần áo
mới để mặc Tết. Bác cũng đã mồ côi mẹ từ năm lên chín, lên mười. Bác đã phải bế em
trèo trẹo bên hông đi xin sữa cho em sau ngày mẹ qua đời.
Bác căn dặn các em như ông dặn cháu:
- Các cháu phải vâng lời các cô, các chú phụ trách. Thiếu nhi thì phải ngoan, phải thật
thà, lễ phép với người lớn, kính trọng người già, giúp đỡ người tàn tật yếu đau. Các cháu
ở trong tập thể với nhau càng phảI thương yêu nhau như anh chị em ruột thịt. Và phải
dũng cảm sửa chữa những khuyết điểm, những thói hư tật xấu để lớn lên làm người chủ
của đất nước, đừng để mình là cái gánh nặng của xã hội…
Rồi Bác bảo:
- Các cháu có hứa làm được điều Bác căn dặn không nào?
Một tiếng “có” vang lên, đều khắp và sôi nổi. Bác còn dặn thêm các em là noi gương
dũng cảm của liệt sĩ Kim Đồng trong học tập và rèn luyện, em nào đạt kết quả tốt, được
ban phụ trách báo lên Bác, Bác sẽ gửi phần thưởng. Và Bác thân mật hẹn: “Nếu cả trại

cùng tiến bộ vượt bậc, Bác sẽ còn về thăm các cháu nhiều lần nữa”.
Ngày hôm ấy, Bác đã để lại rất nhiều quà để chia cho các em. Nhận phần quà của Bác
cho, nhiều em đã không ăn, cất làm kỷ niệm.
Từ hôm đó trong từng đôi mắt của các em, ngời lên niềm vui nhận quà Bác. Em Quốc
không lủi ra ngoài trại nữa mà giữ gìn mình như giữ gìn kỷ niệm của Bác trong trái tim.
Theo sách “Hoa râm bụt”, NXB Thanh Niên, Hà Nội, 1999
Bát chè sẻ đôi
Đồng chí liên lạc đi công văn 10 giờ đêm mới đến. Bác gọi mang ra một bát, một thìa
con. Rồi Bác đem bát chè đậu đen, đường phèn, mà anh em phục vụ vừa mang lên, sẻ
một nửa cho đồng chí liên lạc.
- Cháu ăn đi!
Thấy đồng chí liên lạc ngần ngại, lại có tiếng đằng hắng bên ngoài, Bác giục:
- Ăn đi, Bác cùng ăn
Cám ơn Bác, đồng chí liên lạc ra về. Ra khỏi nhà sàn, xuống sân, đồng chí cấp dưỡng
bấm vào vai anh lính thông tin:
- Cậu chán quá. Cả ngày Bác có bát chè để bồi dưỡng làm đêm mà cậu lại ăn mất một
nửa.
- Khổ quá, anh ơi! Em có sung sướng gì đâu. Thương Bác, em vừa ăn vừa rớt nước mắt,
nhưng không ăn lại sợ Bác không vui, mà ăn thì biết cái chắc là các anh mắng mỏ rồi
Theo sách Một số lời dạy và mẩu chuyện về Tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí
Minh

×