Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Đề tài “Nội dung cơ bản của đầu tư phát triển. Phân tích tình hình đầu tư phát triển trong hệ thống doanh nghiệp nhà nước” pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.6 KB, 86 trang )

Đề tài “Nội dung cơ bản của đầu tư
phát triển. Phân tích tình hình đầu
tư phát triển trong hệ thống doanh
nghiệp nhà nước”



3


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
4


Đầu tư phát triển là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu và
không thể thiếu được để hưng thịnh quốc gia. Đầu tư phát triển là vấn đề được
toàn xã hội, đặc biệt là các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách phát
triển của đất nước thường xuyên quan tâm và coi trọng. Từ Quốc hội – cơ
quan quyền lực cao nhất của nhân dân, đến mỗi người dân, nhất là những
người trực tiếp tham gia hoạt động đầu tư đều rất quan tâm đến vấn đề này.
Từ cổ tới kim, đề cập đến phát triển nói chung và phát triển kinh tế, tăng
trưởng kinh tế nói riêng, người ta đều khơng qn nói đến đầu tư phát triển.
Với tầm quan trọng như vậy của đầu tư phát triển thì việc nghiên cứu, tìm
hiểu nội dung cơ bản của nó là vơ cùng cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn. Ở
Việt Nam và các nước trên thế giới thì doanh nghiệp nói chung cũng như
doanh nghiệp Nhà nước nói riêng được coi là tế bào của nền kinh tế, nó cụ thể
hóa đường lối phát triển doanh nghiệp của Đảng, quyết định tăng trưởng kinh
tế và phát triển kinh tế của đất nước.
Trên cơ sở nhận thức được tầm quan trọng ấy, nhóm 13 đã tìm hiểu và


trình bày đề tài “Nội dung cơ bản của đầu tư phát triển. Phân tích tình
hình đầu tư phát triển trong hệ thống doanh nghiệp nhà nước”. Chúng tơi
tìm hiểu đề tài này với mong muốn có được sự hiểu biết sâu rộng hơn về đầu tư
phát triển cũng như tình hình đầu tư phát triển trong hệ thống doanh nghiệp nhà
nước đồng thời giúp cho các bạn trong lớp có thêm tài liệu tham khảo khi
muốn tìm hiểu về vấn đề này. Dù thế nào đi nữa cũng phải nhấn mạnh rằng
việc tìm hiểu về đề tài này là vấn đề lớn, có phạm vi rộng, cần phải có cơng sức
và thời gian. Trong q trình làm đề tài chúng em đã nhận được sự chỉ dẫn và
giúp đỡ tận tình của PGS.TS Từ Quang Phương. Mặc dù, với sự cố gắng tích
cực của các thành viên trong nhóm nhưng trong khn khổ hạn hẹp của bài
viết, chắc hẳn sẽ khó lịng đề cập đầy đủ các khía cạnh của vấn đề đưa ra, và
những sai sót là không thể tránh khỏi vậy chúng tôi chân thành cám ơn sự góp
ý, bổ sung của thầy cơ giáo và bạn đọc để cho đề tài được hoàn thiện hơn.

Các thành viên nhóm 13
CHƯƠNG I
5


MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
TRONG HỆ THỐNG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
I. ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN VÀ NỘI DUNG CỦA ĐẦU TƯ PHÁT
TRIỂN.
1. Các khái niệm chung.
- Đầu tư: là hoạt động bỏ vốn vào các lĩnh vực kinh tế xã hội (KT-XH)
để mong thu được lợi ích dưới các hình thức khác nhau trong tương lai. Đầu
tư hay hoạt động đầu tư là việc huy động các nguồn lực hiện tại để tiến hành
các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn
hơn. Nguồn lực bỏ ra đó có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động,
tài sản vật chất khác. Biểu hiện bằng tiền tất cả các nguồn lực đã bỏ ra trên

đây được gọi là vốn đầu tư. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài
sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường sá,...), tài sản trí tuệ
( trình độ văn hố, chun mơn, khoa học kỹ thuật,…) và nguồn nhân lực. Có
nhiều cách phân loại đầu tư. Xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do đầu
tư đem lại ngưịi ta phân chia ra thành :
- Đầu tư tài chính : là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho
vay hoặc mua chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm,
mua trái phiếu chính phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của công ty phát hành (mua cổ phiếu, trái phiếu công ty).
- Đầu tư thương mại: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để
mua hàng hố và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh
lệch giá khi mua và khi bán.
- Đầu tư tài sản vật chất và nguồn nhân lực, khoa học công nghệ .. : là
loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm
trực tiếp tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh
doanh, hoạt động xã hội khác. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa
6


chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, xây lắp, bồi
dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền
với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các
cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền KTXH. Loại đầu tư này được
gọi chung là đầu tư phát triển.
2. Khái niệm đầu tư phát triển.
Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn
trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra
những tài sản vật chất (nhà xưởng thiết bị…) và tài sản trí tuệ (tri thức, kỹ
năng…), gia tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát
triển

Đối tượng của đầu tư phát triển: là tập hợp các yếu tố được chủ đầu tư
bỏ vốn thực hiện nhằm đạt những mục tiêu nhất định.
-> Theo quan điểm phân công lao động xã hội thì có hai nhóm đối
tượng chính là đầu tư theo ngành và đầu tư theo lãnh thổ.
-> Theo góc độ tính chất và mục đích đầu tư, đối tượng đầu tư được
chia thành hai nhóm chính la cơng trình vì mục tiêu lợi nhuận và cơng trình
phi lợi nhuận
-> Theo góc độ xem xét mức độ quan trọng, đối tượng đầu tư được
chia thành loại khuyến khích đầu tư, loại khơng khuyến khích đầu tư và loại
bị cấm đầu tư
-> Theo góc độ xem xét mức độ tài sản, đối tượng đầu tư được chia
thành: những tài sản vật chất và tài tài sản vơ hình
- Kết quả của đầu tư phát triển là sự tăng thêm về tài sản vật chất, tài
sản trí tuệ và tài sản vơ hình. Mặc dù đầu tư là ở hiện tại nhưng kết quả đầu tư
thường thu được trong tương lai.

7


- Mục đích của đầu tư phát triển là vì sự phát triển bền vững, vì lợi ích
quốc gia, cộng đồng và nhà đầu tư. Đầu tư nhà nước nhằm thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế, tăng thu nhập quốc dân, góp phần giải quyết việc làm và nâng
cao đời sống của các thành viên trong xã hội. Đầu tư của doanh nghiệp nhằm
tối thiểu chi phí, tối đa lợi nhuận, nâng cao khả năng cạnh tranh và chất lượng
nguồn nhân lực…
- Chủ đầu tư của đầu tư phát triển là người sỡ hữu vốn hoặc được giao
quản lý, sử dụng vốn đầu tư. Chủ đầu tư chịu trách nhiệm kiểm tra giám sát
đầu tư, chịu trách nhiệm toàn diện về những sai phạm và hậu quả do ảnh
hưởng của đầu tư đến mơi sinh và do đó, có ảnh hưởng quan trọng đến việc
nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư.

3. Nội dung cơ bản của đầu tư phát triển.


Theo cách tiếp cận dựa vào lĩnh vực phát huy tác dụng của đầu

tư phát triển, đầu tư phát triển bao gồm:
* Đầu tư phát triển sản xuất
* Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng chung của nền kinh tế
* Đầu tư phát triển văn hóa giáo dục
* Đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật
* Đầu tư phát triển khác


Theo cách tiếp cận dựa vào quá trình hình thành và thực hiện

đầu tư, đầu tư phát triển bao gồm :
* Đầu tư cho hoạt động chuẩn bị đầu tư
* Đầu tư trong quá trình thực hiện đầu tư
* Đầu tư trong quá trình vận hành

8




Ở đây chúng ta chọn cách tiếp cận dựa vào khái niệm đầu tư

phát triển, theo đó khái niệm nội dung của đầu tư phát triển bao gồm: đầu tư
phát triển các tài sản vật chất và đầu tư phát triển các tài sản vơ hình.
* Đầu tư phát triển các tài sản vật chất gồm: đầu tư phát triển xây dựng

cơ bản và đầu tư vào hàng tồn trữ.
- Đầu tư xây dựng cơ bản : là hoạt động đầu tư nhằm tái tạo tài sản cố
định của doanh nghiệp. Đầu tư xây dựng cơ bản bao gồm các hoạt động như
xây lắp và mua sắm máy móc thiết bị. Hoạt động đầu tư này đòi hỏi vốn lớn
và chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn đầu tư phát triển của đơn vị. Đầu tư xây
dựng cơ bản trong khối nhà nước tuy có nhiều kết quả tốt song việc thất thoát
trong lĩnh vực đầu tư này đang rất lớn. Đây là một trong những vấn đề làm
“đau đầu” của Chính phủ ta.
- Đầu tư bổ sung hàng tồn trữ: Việc xác định quy mô đầu tư hàng tồn
trữ tối ưu cho doanh nghiệp là rất cần thiết. Trong danh mục hàng tồn trữ gồm
nguyên vật liệu, bán thành phẩm và sản phẩm hồn thành. Tùy theo loại hình
doanh nghiệp, quy mô và cơ cấu các mặt hàng tồn trữ củng khác nhau.
* Đầu tư phát triển tài sản vơ hình gồm: đầu tư nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, đầu tư nghiên cứu triển khai các hoạt động khoa học, kỹ
thuật, đầu tư xây dựng thương hiệu, quảng cáo…
- Đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực có vị trí đặc biệt
quan trọng trong nền kinh tế và doanh nghiệp vì chỉ có nguồn nhân lực chất
lượng cao thì mới tao ra hiệu quả cao nhất. Do đó đầu tư phát triển nguồn
nhân lực phải được quan tâm tối đa, là việc làm hết sức cần thiết. Đầu tư phát
triển nguồn nhân lực bao gồm đầu tư cho hoạt động đào tạo đội ngũ lao động;
đầu tư cho cơng tác chăm sóc sức khỏe, y tế; đầu tư cải thiện môi trường, điều
kiện làm việc của người lao động.
- Đầu tư nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học và công nghệ.
Nhằm phát triển sản phẩm mới và các lĩnh vực hoạt động mới. Đầu tư nghiên
9


cứu hoặc mua cơng nghệ địi hỏi vốn lớn và độ rủi ro cao. Hiện nay khả năng
đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và triển khai khoa học và cơng nghệ của
doanh nghiệp Việt Nam cịn khá khiêm tốn. Đặc biệt việc nhập các công nghệ

cũ, đã lỗi thời trên thê giới còn rất phổ biến ở Việt Nam. Có rất ít các trung
tâm nghiên cứu lớn, các trường đại học với nhiều chuyên gia đầu nghành
củng chưa phát huy được vai trò nghiên cứu. Cùng với đà phát triển của kinh
tế đất nước và doanh nghiệp, trong tương lai tỷ lệ chi cho hoạt động đầu tư
này sẽ ngày càng tằng, tương ứng với nhu cầu và khả năng của doanh nghiệp.
- Đầu tư cho hoạt động marketing cũng là một lĩnh vực đầu tư hết sức
quan trọng, đặc biệt là trong các doanh nghiệp thương mại. Đầu tư cho hoạt
động marketing bao gồm đầu tư cho hoạt động quảng cáo, xúc tiến thương
mại, xây dựng thương hiệu…Đầu tư cho hoạt động marketing cần chiếm một
tỷ trọng hợp lý trong tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp
4. Vai trò của đầu tư phát triển.
- Trước hết cần phải xác định rõ rằng đầu tư nói chung có một vai trò
hết sức to lớn trong nền kinh tế, là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là
chìa khố của sự tăng trưởng. Nếu khơng có đầu tư thì khơng có phát triển.
Nhìn trên giác độ tồn bộ nền kinh tế của đất nước, đầu tư vừa tác động đến
tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu. Về cầu, đầu tư chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng cầu. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng
24-28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng
cầu, tác động của đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự
tăng lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng, đường tổng cầu dịch chuyển sang
phải, kéo sản lượng và mức giá cân bằng tăng theo. Về cung, khi đầu tư đã có
thành quả thì tổng cung đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên, đường tổng
cung dịch chuyển xuống dưới, kéo theo sản lượng tiềm năng tăng và do đó
mức giá chung giảm. Tăng tiêu dùng tiếp tục kích thích sản xuất tăng hơn
nữa. Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế. Sự tác động không
10


đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và tổng cung làm cho
mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu

tố duy trì sự ổn định, vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế của mọi
quốc gia.
- Đầu tư có tác động to lớn đến việc tăng cường khả năng khoa học và
cơng nghệ của đất nước. Có hai con đường cơ bản để có cơng nghệ là tự
nghiên cứu phát minh và nhập cơng nghệ từ bên ngồi. Dù là tự nghiên cứu
phát minh hay là nhập công nghệ từ bên ngồi đều phải có đầu tư. Đầu tư là
điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ. Mọi
phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những
phương án khơng khả thi.
- Đầu tư có mối quan hệ chặt chẽ với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Kinh
nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy nếu muốn tốc độ phát triển kinh tế
tăng cao ( 9-10%) thì phải tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở khu
vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm, ngư nghiệp do hạn
chế nhiều mặt, để đạt tốc độ tăng trưởng từ 5 - 6% là rất khó khăn. Như vậy
chính đầu tư đã quyết định chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm đạt được tốc độ
tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.
- Ngồi ra đầu tư cịn có tác động giải quyết những mất cân đối về phát
triển giữa các vùng lãnh thổ, xố đói giảm nghèo, phát huy lợi thế so sánh về
tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị … của những vùng có khả năng phát
triển nhanh để làm đầu tàu cho các vùng khác. Đầu tư tác động đến tốc độ
tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho
thấy, muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư ít nhất
phải đạt được từ 15-20% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR mỗi nước.
- Đối với các cơ sở kinh doanh dịch vụ thì đầu tư quyết định sự ra đời,
tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Đối với các cơ sở hoạt động phi lợi nhuận,
để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành sửa chữa lớn định kỳ các cơ sở vật
11


chất kỹ thuật cịn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả những hoạt

động và chi phí này đều là những hoạt động đầu tư.
- Đầu tư phát triển có vai trị hết sức quan trọng trong nền kinh tế bởi
vì nó tạo ra các tài sản cố định. Đầu tư xây dựng cơ bản là hoạt động đầu tư
để sản xuất ra của cải vật chất đặc biệt, tạo ra cơ sở vật chất và kỹ thuật ban
đầu cho xã hội. Tất cả các ngành kinh tế chỉ có thể tăng nhanh khi có đầu tư
xây dựng cơ bản , đổi mới công nghệ, xây dựng mới để tăng năng suất, chất
lượng và hiệu quả. Đầu tư phát triển xây dựng cơ bản nhằm xây dựng kết cấu
hạ tầng kinh tế, tạo điều kiện cho các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước
đầu tư mở rộng sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy sự tăng trưởng và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Đầu tư phát triển sẽ tạo điều kiện để phát triển mới, đầu tư chiều sâu,
mở rộng sản xuất ở các doanh nghiệp, sẽ góp phần phát triển nguồn nhân lực,
cải thiện cơ sở vật chất của giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát
triển y tế, văn hoá và các mặt xã hội khác. Đầu tư phát triển góp phần thực
hiện mục tiêu xố đói giảm nghèo, tạo việc làm, phát triển cơ sở hạ tầng, cải
thiện điều kiện sống ở các vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa, phát triển nguồn
nhân lực, xây dựng các cơ sở sản xuất và dịch vụ, tạo ra những tác động tích
cực cho vùng nghèo, người nghèo, hộ nghèo khai thác các tiềm năng của
vùng, vươn lên làm ăn khá giả. Từ đó đảm bảo tỷ lệ cân đối vùng miền, ngành
nghề, khu vực và phân bố hợp lý sức sản xuất, tận dụng lợi thế so sánh.
- Đầu tư phát triển của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN với xuất phát điểm thấp như nước ta hiện nay có một vai trị
quan trọng hết sức to lớn, bởi vì vốn dành cho đầu tư phát triển của nhà nước
chiếm một tỷ lệ lớn trong ngân sách của toàn xã hội. Đầu tư phát triển của nhà
nước góp phần khắc phục những thất bại của thị trường, tạo cân bằng trong cơ
cấu đầu tư, giải quyết các vấn đề xã hội. Mặt khác đầu tư phát triển của nhà
nước được tập trung vào những cơng trình trọng điểm, sử dụng nguồn vốn
12



lớn, có khả năng tác động mạnh đến đời sống kinh tế xã hội. Bên cạnh đó
cũng cần phải thấy rằng đầu tư phát triển của nhà nước nếu không được quản
lý một cách hợp lý sẽ dễ gây ra thất thốt, lãng phí, kém hiệu quả hơn là đầu
tư phát triển từ các nguồn vốn khác.
II. DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
TRONG HỆ THỐNG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1.

Khái niệm doanh nghiệp nhà nước.
Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là loại hình doanh nghiệp được thừa

nhận tồn tại ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.Tuy nhiên, do đặc điểm hình
thành, vai trị, phạm vi hoạt động… không giống nhau nên quan niệm về
DNNN cũng không giống nhau.
Thơng thường, DNNN là những loại hình doanh nghiệp do Nhà nước
đầu tư, xây dựng và chi phối hoạt động sản xuất và kinh doanh. DNNN có
nhiều hình thức khác nhau như doanh nghiệp quốc hữu hố, xí nghiệp quốc
doanh, doanh nghiệp công…Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc, DNNN
được hiểu la ”những doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ toàn bộ hoặc một
phần sở hữu và Nhà nước kiểm sốt tới một mức độ nhất định q trình ra
quyết định của doanh nghiệp”.
Ở Việt Nam, nhận thức về DNNN là cả một quá trình gắn liền với các
giai đoạn lịch sử. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường có sự điều tiết
của Nhà nước hiên nay, nền kinh tế Việt Nam tồn tại nhiều thành phần kinh
tế, nhiều hinh thức sở hữu khác nhau như sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân, sở
hữu hỗn hợp… Tương ứng với mỗi hình thức sở hữu đó có ba loại hình thức
doanh nghiệp là: DNNN, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp hỗn hợp (cơng
ty cổ phần…), trong đó DNNN la nịng cốt của thành phần nhà nước, giữ vị
trí chu đạo. Chính thực tế này đặt ra vấn đề cần nghiên cứu nghiêm túc khái
niệm DNNN và cần nghiên cứu đầy đủ hơn về khái niệm này theo hướng

ngày càng phù hợp hơn với thực tế.
13


Theo Nghị định 388/HĐBT ngày 20/11/1991 của Hội đồng Bộ trưởng
(nay là Chính phủ), “DNNN là tổ chức kinh doanh do nhà nước thành lập, đầu
tư vốn và quản lý với tư các chủ sở hữu. DNNN là một pháp nhân kinh tế,
hoạt động theo pháp luật và bình đẳng trước pháp luật”. Để phù hợp với tình
hình mới Luật DNNN được ban hành ngày 24/4/1995 đã đưa ra định nghĩa
như sau: “ Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn,
thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động cơng ích,
nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do nhà nước giao , DNNN có tư
cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn
bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi vốn do doanh nghiệp quản lý. DNNN
có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam”. Tuy
nhiên, chỉ đến khi luật DNNN ra đời thì nhận thức về DNNN mới đầy đủ sát
với thực tế hơn và để phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế và xu thế hội
nhập của nước ta vào nền kinh tế khu vực và thế giới thì theo nghị quyết số
14/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003 quy định về doanh nghiệp
nhà nước như sau: “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước
sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức
dưới hình thức cơng ty nhà nước, cơng ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu
hạn.”
Luật Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) được Quốc hội ban hành ngày
26-11-2003, có hiệu lực thi hành ngày 1-7-2004, thay thế cho Luật DNNN
ban hành ngày 20-4-1995. Việc ban hành Luật DNNN lần này có tác dụng rất
quan trọng trong việc khắc phục những hạn chế, khuyết điểm của Luật DNNN
năm 1995, như quy định chặt chẽ hơn các vấn đề về quản lý tài chính, tiền tệ
doanh nghiệp, mở rộng thẩm quyền, đồng thời xác định rõ ràng hơn trách
nhiệm của giám đốc, quy định rõ mối quan hệ giữa Tổng giám đốc và Chủ

tịch Hội đồng quản trị...
Từ khái niệm trên có thể nêu ra một số đặc trưng cơ bản của doanh
nghiệp nhà nước :
14


Thứ nhất về mức độ sở hữu vốn trong doanh nghiệp, Nhà nước là chủ
sở hữu đối với toàn bộ hoặc đa số vốn trong doanh nghiệp và vì thế nhà nước
có thể chi phối được những hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp
Thứ hai Nhà nước kiểm soát đối với quá trình ra quyết định của
DNNN bằng việc nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc nắm giữ trên 50% vốn.
Song điều này khơng có nghĩa la nhà nước can thiệp trực tiếp vào hoạt động
hàng ngày của doanh nghiệp bởi lẽ, nhà nước và DNNN là những chủ thể
pháp lý tách bạch và độc lập với nhau. Nhà nước đóng vai trị là người chủ sở
hữu đối với doanh nghiệp người đầu tư vốn, còn DNNN là chủ thể kinh doanh
độc lập có tư cách pháp lý như mọi chủ thể kinh doanh của các nhà đầu tư
khác trong nền kinh tế.
Thứ ba Doanh nghiệp nhà nước là đối tượng quản lý của nhà nước,
phải thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hộido Nhà nước giao cho.
Tóm lại quan niệm về doanh nghiệp nhà nước có thể được xem xét từ
các góc độ khác nhau, thay đổi theo từng thời kỳ, gắn với thực tiễn đổi mới
kinh tế xã hội 20 năm qua ở nước ta. Trong điều kiện tiến tới hội nhập kinh
tế khu vực và toàn cầu nhưng vẫn đảm bảo đường lối độc lập tự chủ về kinh
tế của nước ta hiện nay, tạo mọi thuận lợi phát huy hiệu quả vốn Nhà nước
và tiềm năng về vốn của mọi thành phần kinh tế khác thì phải nhận thức
đúng phù hợp về khái niệm doanh nghiệp Nhà nước .
2. Phân loại doanh nghiệp Nhà nước.
Có nhiều cách phân loại doanh nghiệp Nhà nước khác nhau. Ở đây bài
viết trình bày một số cách phân loại DNNN mà sẽ được sử dụng trong nghiên
cứu.

Thứ nhất : Dựa vào mục đích hoạt động chia DNNN thành hai loại:
DNNN hoạt động kinh doanh và DNNN hoạt động công ích.
DNNN hoạt động kinh doanh là loại doanh nghiệp có chức năng chủ
yếu là hoạt động kinh doanh trên số vốn và tài sản Nhà nước được giao. Mục

15


tiêu chủ yếu của loại doanh nghiệp này là thu lợi nhuận và doanh nghiệp tự
quyết định loại sản phẩm kinh doanh trên cơ sở tuân thủ pháp luật.
DNNN hoạt động cơng ích là loại doanh nghiệp thuộc khu vực vô vị
lợi, hoạt động với chức năng chủ yếu là đáp ứng nhu cầu của xã hội bằng
những sản phẩm, dịch vụ cụ thể, không thể thiếu được trong quốc kế dân sinh.
Yếu tố lợi nhuận khơng đóng vai trị quan trọng
Thứ hai: căn cứ theo mức độ đầu tư vốn Nhà nước tại doanh nghiệp
chia DNNN thành hai loại:
Doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước là những doanh nghiệp mà Nhà
nước đầu tư toàn bộ vốn điều lệ để thành lập.
Doanh nghiệp cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước là những doanh
nghiệp mà Nhà nước đầu tư trên 50% vốn điều lệ và Nhà nước giữ quyền chi
phối doanh nghiệp.
Thứ ba: căn cứ vào lĩnh vực hoạt động trong nền kinh tế DNNN được
chia thành hai loại: doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất vật chất
và doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ.
DNNN hoạt động sản xuất vật chất là những doanh nghiệp trực tiếp
tham gia sản xuất, tạo ra các sản phẩm , hàng hóa cho xã hội. DNNN hoạt
động thương mại dịch vụ là những doanh nghiệp tham gia vào khâu lưu thơng
phân phối của q trình tái sản xuất hoặc lĩnh vực dịch vụ, nhưng không trực
tiếp sản xuất ra sản phẩm vật chất.
3. Vai trò của doanh nghiệp Nhà nước.

Doanh nghiệp nhà nước có vai trị rất quan trọng điều này được thể
hiện tại Nghị quyết 05 Hội nghị lần thứ ba BCHTƯ Đảng khoá IX: kinh tế
Nhà nước có vai trị quyết định trong việc giữ vững định hướng XHCN.
DNNN phải không ngừng được đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ
vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để Nhà
nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nịng cốt, góp phần chủ
16


yếu để kinh tế Nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN, là chủ lực trong hội nhập quốc tế.
Theo chúng tôi cần nhấn mạnh một số điểm dưới đây về vai trị của
kinh tế Nhà nước mà nịng cốt là DNNN:


Vai trị chính trị: Một là, DNNN nắm giữ những ngành đặc biệt

quan trọng liên quan đến an ninh, quốc phòng quốc gia. Hai là, DNNN tham
gia chiếm giữ một số vị trí thiết yếu, quan trọng (tuỳ theo từng thời kỳ phát
triển kinh tế) để chủ động định hướng xã hội, làm đối trọng trong phát triển
hội nhập kinh tế quốc tế.


Vai trị xã hội: Được thể hiện ở một số điểm sau: Thứ nhất,DNNN

đi đầu trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội đối với cộng đồng, đặc biệt đối
với địa phương nơi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, nơi các vùng kinh tế
khó khăn, vùng sâu, vùng xa. Nếu lợi nhuận là mục tiêu cở bản của doanh
nghiệp tư nhân thì đối với DNNN, ngồi mục tiêu kinh doanh cịn nhiều mục
tiêu cở bản khác. Lợi nhuận khơng phải là mục tiêu duy nhất mà trước hết

phải xem xét đến lợi ích chính trị- xã hội- kinh tế của đất nước. DNNN phải
có mặt và phát triển tại các lĩnh vực mà các doanh nghiệp khác không muốn
hoặc khơng có khả năng làm, để đảm bảo cung cấp các hàng hoá và dịch vụ
cần thiết cho nhu cầu của các tầng lớp dân cư. Vì vậy, hiệu quả của DNNN có
thể là hiệu quả kinh tế, hoặc hiệu quả xã hội, hoặc cả hiệu quả kinh tế và hiệu
quả xã hội. Do đó trong nhiều trường hợp các DNNN hoạt động trong lĩnh
vực cơng ích phải đặt mục tiêu lợi nhuận xuống hàng thứ yếu. Thứ hai,
DNNN đóng vai trò quan trọng trong việc khắc phục những khuyết tật của
nền kinh tế thị trường, tạo điều kiện cho việc xây dựng xã hội mới. Từ thực
tiễn phát triển kinh tế thị trường ở các quốc gia trên thế giới, bên cạnh nhiều
mặt tích cực, người ta cũng nhận thấy những khuyết tật vốn có. Những khuyết
tật cơ bản của nền kinh tế thị trường bao gồm: Một là, do theo đuổi mục tiêu
làm cho chi phí biên cá nhân nhỏ hơn chi phí biên xã hội, gây ra ảnh hưởng
17


ngoại ứng, ô nhiễm môi trường. Hai là, việc cung cấp sản phẩm công cộng
thường không hấp dẫn các doanh nghiệp vì lợi nhuận ở khu vực này thường
thấp trong khi địi hỏi đầu tư lớn. Trong tình hình đó, DNNN đóng vai trị tạo
điều kiện khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường. Để góp phấn hạn
chế khuyết tật thứ hai, các DNNN không những phải xuất hiện ở lĩnh vực
cung cấp sản phẩm công cộng, mà quan trọng là phải cung cấp sản phẩm công
cộng một cách có hiệu quả.


Vai trị kinh tế: DNNN phải là công cụ kinh tế quan trọng để Nhà

nước trực tiếp tác động đến các quá trình kinh tế xã hội, điều tiết vĩ mô, thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế và đổi mối cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HDH.
Doanh nghiệp Nhà nước có vai trị kinh tế chung rất quan trọng. Vai trò ấy thể

hiện chủ yếu ở chỗ khắc phục thất bại thị trường, điều tiết vĩ mô, nhằm làm
cho các hoạt động kinh tế có hiệu quả, cơng bằng, ổn định. Đồng thời DNNN
nắm giữ các ngành then chốt và thực sự trở thành công cụ để Nhà nước điều
tiết và định hướng phát triển XHCN. DNNN là công cụ để Nhà nước điều
chỉnh cơ cấu sản xuất, cơ cấu kinh tế, đặc biệt cơ cấu kinh tế ngành, vùng
lãnh thổ, phát triển hạ tầng cơ sở và xây dựng từng bước nền Cơng nghiệp
hiện đại. Vai trị chủ đạo của kinh tế Nhà nước được thể hiện không phải ở
việc phát triển tràn lan mà lựa chọn các ngành kinh tế then chốt, mũi nhọn để
phát triển. Kinh tế Nhà nước nắm giữ phần lớn những cơ sở hạ tầng kinh tếxã hội, dịch vụ công cộng…, những lĩnh vực mà tư nhân các thành phần kinh
tế khác không được làm, không muốn hoặc không đủ năng lực đầu tư. Mặt
khác, trong nền kinh tế thị trường, quyết định đầu tư trước hết phải là của
doanh nghiệp, hộ gia đình trong nền kinh tế, do vậy trước hết phải huy động
đầu tư phát triển từ khu vực tư nhân. Quyết định ấy bị dẫn dắt bởi chính nền
kinh tế thị trường. Tuy nhiên có những lĩnh vực mà tư nhân sẽ không đầu tư
hoặc đầu tư không hiệu quả, đòi hỏi đầu tư của nhà nước. Cụ thể là nhà nước
nên đầu tư sản xuất hàng hoá công. Nhà nước phải trực tiếp đầu tư để cung
cấp một số hàng hoá tư nhân mà khu vực tư nhân không thể, không muốn đầu
18


tư. Ví dụ như hàng hố tư nhân chi phí cao ( nước sạch, …). Nhà nước phải
đầu tư để sản xuất một số hàng hố tư nhân vì lý do chính trị xã hội, mà nếu
khơng có việc sản xuất các loại hàng hố này thì nền kinh tế sẽ khơng có hiệu
quả
Ngồi vai trị kinh tế chung, nhà nước có hai vai trị cơ bản hết sức
quan trọng trong lĩnh vực đầu tư phát triển của toàn xã hội:
Một là tạo ra khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động đầu tư phát triển
được tiến hành.
Hai là khuyến khích, dẫn dắt hoạt động đầu tư phát triển theo định
hướng nhất định trên cơ sở quyết định quy hoạch, kế hoạch, cấp phát ngân

sách, cho vay vốn hoặc các biện pháp điều tiết khác.Vai trò của nhà nước
trong hoạt động đầu tư phát triển được thể hiện rõ thông qua chính hoạt động
đầu tư phát triển của nhà nước cũng như việc điều tiết, thúc đẩy, hỗ trợ đầu tư
khu vực ngoài nhà nước( tư nhân và đầu tư nước ngồi) và thơng qua việc
quyết định kế hoạch, quy hoạch.
Ở một góc độ cụ thể hơn, ta có thể thấy vai trị của nhà nước thể hiện
trên các khía cạnh như chi tiêu, cấp phát ngân sách, cho vay vốn ưu đãi; đầu
tư phát triển để tạo ra hàng hố cơng; đầu tư phát triển để thực hiện việc cung
cấp cơng cộng một số hàng hố tư nhân; chính sách bao tiêu một số sản phẩm
và dịch vụ từ đầu tư phát triển được lựa chọn để giữ vững cầu, ổn định giá cả
và thúc đẩy tăng trưởng; đầu tư cho nghiên cứu và phát triển; thi hành chính
sách thuế khoá liên quan đến hoạt động đầu tư phát triển; quản lý nhà nước về
đầu tư phát triển (quản lý cá nhân và tổ chức tham gia đầu tư phát triển , quản
lý sản phẩm của đầu tư phát triển ); xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật
nhằm điều chỉnh hoạt động đầu tư phát triển; thanh tra, kiểm tra hoạt động
đầu tư phát triển ,...
Công tác xử lý các vướng mắc, các phát sinh trong quá trình thực hiện và vận
hành dự án đầu tư phát triển
19


CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
TRONG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC THỜI KỲ 2000 – 2006
I. TỔNG QUAN CHUNG VỀ TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ PHÁT
TRIỂN TRONG HỆ THỐNG DNNN THỜI KỲ 2000 - 2006
DNNN tiếp tục là lực lượng nòng cốt của thành phần kinh tế nhà nước,
đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế quốc dân.
Trong những năm qua, tỷ trọng đầu tư của khu vực này trong tổng mức đầu tư
toàn xã hội vẫn được duy trì theo các năm, đóng góp rất lớn về đầu tư trong

tổng đầu tư của xã hội. Đây là nguồn vốn các doanh nghịêp chủ động trong
việc huy động và sử dụng theo đúng yêu cầu của các doanh nghịêp. Nguồn
vốn này được tập trung đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, bổ sung thiết bị
để nâng cao công suất, chất lượng sản phẩm và một phần dùng để đầu tư xây
dựng mới, mở rộng sản xuất kinh doanh. Nếu nguồn vốn huy động được từ
doanh nghiệp nhà nước được sử dụng có hiệu quả hơn sẽ góp phần trực tiếp
cho tăng trưởng nhanh kinh tế, nâng cao sức cạnh tranh trong từng sản phẩm.
Một số kết quả chính đã đạt được trong năm 2003 như sau:
- Doanh thu khu vực DNNN đạt 470.000 tỷ đồng, tăng 10,5% so với
năm 2002 và 11% so với năm 2001, đã đóng góp 40% GDP của cả nước, tăng
0,5% so với năm 2001;
- Nộp ngân sách đạt 87.000 tỷ đồng, tăng 10% so với năm 2002 và 69%
so với năm 2001 chiếm trên 60% tổng thu NSNN ;
- Lợi nhuận thực hiện đạt 21.000 tỷ đồng, tăng 10,5% so với năm 2002
và 31,2% so với năm 2001 ;
- Chiếm 50% kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng bình quân trong 3 năm 2001 - 2003 của
DNNN đạt mức 10%/năm, xấp xỉ mức bình quân trong 10 năm 1991-2000
20


(11%). Trình độ cơng nghệ và quản lý có nhiều tiến bộ, sức cạnh tranh được
nâng cao, dần dần thích nghi với cơ chế thị trường.
DNNN hoạt động cơng ích đi vào thực chất hơn, đảm bảo đa số sản
phẩm, dịch vụ thiết yếu của xã hội, đặc biệt cho quốc phòng - an ninh, đồng
bào vùng sâu, vùng xa. Cải cách DNNN được đẩy mạnh theo hướng tiếp tục
đa dạng hóa sở hữu các DNNN, đạt kết quả vượt bậc so với 5 năm trước 1996
- 2000.
Doanh nghiệp nhà nước tiếp tục được sắp xếp lại theo tinh thần Nghị
quyết Trung ương 3 theo hướng đa dạng hóa sở hữu với các hình thức cổ

phần hóa, giao, bán, khốn, cho thuê doanh nghiệp nhà nước. Tổng số doanh
nghiệp nhà nước được sắp xếp lại trong 5 năm qua vượt xa cùng thời kỳ trước
đó. Các doanh nghiệp sau khi sắp xếp lại hoạt động có hiệu quả hơn, nâng cao
được tính cạnh tranh, phát huy được vai trị tích cực và chủ động trong các
hoạt động kinh tế, xã hội. Từ 2001 - 2004 cổ phần hoá được 1.654 DNNN và
bộ phận DNNN (sau đây gọi chung là DNNN) chiếm 73% tổng số DNNN cổ
phần hoá từ năm 1992 đến nay (2.242 DNNN cổ phần hố). Trong đó, năm
2001: 205 doanh nghiệp: năm 2002: 164 doanh nghiệp: năm 2003: 532 doanh
nghiệp; năm 2004: 753 doanh nghiệp. Nhiều đơn vị thực hiện tốt lộ trình cổ
phần hố theo đế án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, điển hình là:
Bộ Xây dựng (đạt 125%), Bộ Công nghiệp (đạt 106%), Tổng cơng ty Bưu
chính Viễn thơng Việt Nam (đạt 182%), Tổng công ty Dệt May Việt Nam
(đạt 133%), tỉnh An Giang (đạt 130%), tỉnh Hải Dương (đạt 116%), tỉnh Vĩnh
Phúc (đạt 115%), thành phố Hồ Chí Minh (đạt 109%), thành phố Cần Thơ
(đạt 109%), tỉnh Nam Định (đạt 109%), tỉnh Hà Tây (đạt 103%). Theo kế
hoạch, năm 2005 sẽ thực hiện cổ phần hố 724 DNNN, hồn thành cơ bản
104 Đề án sắp xếp DNNN đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án cổ phần hố tồn Tổng cơng
ty Thương mại và Xây dựng (Bộ Giao thông - Vận tải) và Tổng công ty Điện
21


tử và Tin học (Bộ Xây dựng). Ngoài ra, một số đề án cổ phần hố các Tổng
cơng ty lớn đang được trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định như
Tổng công ty Xuất nhập khẩu xây dựng VINACONEX (Bộ Xây dựng); Ngân
hàng Ngoại thương Việt Nam. Đây sẽ là bước quan trọng để triển khai đẩy
mạnh quá trình cổ phần hố DNNN.
Nhìn chung, kết quả hoạt động kinh doanh của các DNNN sau khi cổ
phần hóa đều tốt hơn theo hướng tăng vốn sản xuất kinh doanh, tăng doanh
thu, tăng lợi nhuận và tăng thu nhập cho người lao động

Bên cạnh hình thức cổ phần hố là giải pháp mang tính đột phá trong
q trình sắp xếp, đổi mới DNNN, các hình thức khác như giao, bán, chuyển
DNNN thành công ty TNHH 1 thành viên cũng được triển khai mạnh, làm đa
dạng hố các hình thức sắp xếp, đổi mới cơ chế quản lý, góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động của DNNN. Ngồi ra, cịn thực hiện các hình thức tổ chức
lại, giải thể và phá sản DNNN làm ăn kém hiệu quả.
Sau 4 năm thực hiện (2001 - 2004), cả nước thực hiện giao 127 doanh
nghiệp, bán 76 doanh nghiệp, sáp nhập 390 doanh nghiệp, hợp nhất 133
doanh nghiệp, giải thể 134 doanh nghiệp, phá sản 18 doanh nghiệp, chuyển
sang công ty TNHH 1 thành viên 55 doanh nghiệp, thành lập mới 67 doanh
nghiệp[2].
Trong quá trình sắp xếp DNNN, doanh nghiệp đã quan tâm giải quyết
chế độ cho người lao động dôi dư theo Nghị định số 41/2002/NĐ-CP ngày 11
tháng 4 năm 2002 của Chính phủ về chính sách đối với lao động dơi dư do
sắp xếp lại DNNN.
Tính đến hết năm 2004, đã có 1.342 doanh nghiệp được Bộ Tài chính
duyệt cấp kinh phí cho 62.305 người nghỉ việc hưởng theo chế độ lao động
dôi dư với tổng số tiền khoảng 1.803 tỷ đồng. Trong đó, có 6.448 người nghỉ
hưu trước tuổi với số tiền là 111,1 tỷ đồng; 55.257 người hưởng trợ cấp mất
việc làm với số tiền là 1.698,4 tỷ đồng.
22


Chính sách đối với những lao động dơi dư phù hợp với thực tế, quyền
lợi được bảo đảm, góp phần bình ổn thị trường lao động dơi dư, giảm nhẹ
gánh nặng cho xã hội, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển sau khi thực
hiện các hình thức sắp xếp.
Bên cạnh đó Đảng và chính phủ cũng khơng ngừng hồn thiện khung
pháp lý theo hướng dần bình đẳng với các doanh nghiệp khác; dần hình thành
các Tổng cơng ty mạnh, Tập đoàn kinh tế lớn. Kỳ họp thứ 4, Quốc hội Khố XI

đã thơng qua Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 thay thế Luật Doanh
nghiệp nhà nước năm 1995. Luật DNNN năm 2003 đã có thay đổi lớn về khái
niệm DNNN, DNNN được hiểu là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ
vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối được tổ chức dưới hình thức cơng
ty nhà nước, cơng ty cổ phần, công ty TNHH. Ngày 24 tháng 8 năm 2004, Thủ
tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 155/2004/QĐ-TTg về ban hành tiêu
chí, danh mục phân loại cơng ty nhà nước và cơng ty thành viên hạch tốn độc
lập thuộc tổng công ty nhà nước, đây là cơ sở để các Bộ, ngành, địa phương tập
trung đầu tư cho những doanh nghiệp hoạt động trong những ngành, lĩnh vực
then chốt, mang tính chất ổn định kinh tế - xã hội mà Nhà nước cần nắm giữ
100% vốn. Ngày 09 tháng 8 năm 2004, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
153/2004/NĐ-CP về tổ chức, quản lý tổng công ty nhà nước và chuyển đổi tổng
công ty nhà nước, công ty nhà nước độc lập theo mơ hình cơng ty mẹ - cơng ty
con, làm nền tảng hình thành các Tổng cơng ty mạnh, thay đổi cơ chế quản lý từ
quan hệ hành chính sang quan hệ dựa vào tỷ lệ góp vốn.
Hiện nay, đã có 47 tổng cơng ty nhà nước, công ty nhà nước độc lập
xây dựng đề án chuyển đổi hoạt động theo mơ hình cơng ty mẹ - cơng ty con,
trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Trong đó, một số doanh nghiệp đã
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và đi vào hoạt động. Ngoài ra, Thủ
tướng Chính phủ đã cho phép xây dựng thí điểm đề án các Tập đoàn kinh tế
hoạt động trong một số lĩnh vực mang tính then chốt, mũi nhọn của nền kinh
tế như Bưu chính - Viễn Thơng; Dầu khí; Điện lực; Xi măng...
23


Tóm lại, với tình hình phát triển doanh nghiệp trong nước trong 5 năm
qua đã tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế theo hướng sắp
xếp lại và đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước, phát huy mạnh mẽ tiềm năng
của khu vực kinh tế dân doanh, kinh tế hợp tác xã, kinh tế trang trại...
Đóng góp của từng thành phần kinh tế vào quá trình tăng trưởng chung

của tồn nền kinh tế cũng có nhiều thay đổi, theo hướng giảm tỷ trọng của
khu vực kinh tế nhà nước, tăng tỷ trọng của khu vực kinh tế dân doanh.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì những yếu kém, tồn tại vẫn cịn
là vấn đề bức xúc, chưa được giải quyết triệt để ở nhiều lĩnh vực. Điển hình là
tình trạng thất thốt, lãnh phí vốn đầu tư phát triển diễn ra khá là phổ biến nhất là
trong xây dựng cơ bản, diễn ra trong nhiều dự án đâu tư, thuộc các nguồn vốn, ở
các ngành, các địa phương và trong tất cả các giai đoạn của quá trình đầu tư.
Năm 2002, Thanh tra Nhà nước thanh tra 17 dự án có tổng mức đầu tư
là 9.385 tỷ đồng, tổng giá trị vốn đầu tư được thanh tra, kiểm tra là 6.407 tỷ
đồng. Tổng số sai phạm về kinh tế và tài chính được phát hiện ở 17 dự án là
871 tỷ đồng, chiếm 13,6% tổng số vốn đầu tư được thanh tra, kiểm tra.
Năm 2003, Thanh tra Nhà nước thanh tra 14 dự án lớn với tổng mức đầu
tư là 8.193 tỷ đồng, trong đó giá trị vốn đầu tư được thanh tra là 6.450 tỷ đồng.
Qua thanh tra đã phát hiện nhiều sai phạm về kinh tế do làm trái các quy định
của Nhà nước là 1.235 tỷ đồng, chiếm khoảng 19% số vốn được thanh tra. Trong
tổng số vốn được phát hiện có sai phạm nói trên, Thanh tra Nhà nước đã kiến
nghị thu hồi 357 tỷ đồng, chiếm 5,5% tổng số vốn được thanh tra.
II.

NỘI DUNG VÀ THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
TRONG HỆ THỐNG DNNN 2000 - 2006

1. Đầu tư phát triển xây dựng cơ bản.
 Thực trạng cơ sở hạ tầng:
Một trong nhiều yêu cầu để Việt Nam gia nhập vào WTO là phải minh
24


bạch trong việc kiểm toán chi thu của quốc gia. Do đó, lần đầu tiên trong lịch
sử Đảng CSVN đã đưa ra bản báo cáo từng phần ngân sách nhà nước năm

2005. Theo đó, riêng trong lãnh vực quốc doanh, 19 tổng công ty và ngân
hàng quốc doanh trên 4.447 quốc doanh tồn quốc, cho thấy kết quả kiểm
tốn hồn tồn đưa đến việc thua lỗ và cơng ty quốc doanh đã làm kinh tế
theo một chính sách phi kinh tế . Sau đây là vài con số thua lỗ cũa các công ty
quốc doanh trong năm 2005: Ngành dệt may lỗ 328 tỷ Đồng ; ngành giấy lỗ
199 tỷ Đồng ; ngành lương thực lỗ 183 tỷ Đồng (1 tỷ Đồng tương đương
60.000 Mỹ kim). Tổng số nợ của 16 doanh nghiệp các ngành kễ trên là 47,000
tỷ đồng, tương đương với 80% tổng tài sản của các công ty. Do đó, những
cơng ty trên hồn tồn khơng cịn khả năng thanh toán phần nợ.
Cơ sở hạ tầng yếu kém trong một thời gian dài là một trong những
nguyên nhân chính khiến các DNNN làm ăn thua lỗ. Một số các nguyên nhân
khác như là trình độ quản lý, tác phong làm việc kém chuyên nghiệp, luật
pháp chưa chặt chẽ, kém linh hoạt… Các DNNN quy mô vẫn chua lớn. Nhiều
DNNN có trình độ cơng nghệ dưới mức trung bình của thế giới và khu vực.
Thiết bị, dây chuyền lạc hậu so với thế giới từ 10-20 năm, trong đó có 38%
đang chờ thanh lý. Chi phí sản xuất cơng nghiệp cịn rất cao, hạn chế mức
tăng giá trị gia tăng. Cụ thể là giá trị sản xuất mấy năm gần đây tăng
15%/năm, nhưng giá trị gia tăng chỉ tăng 10%. Tốc độ đổi mới công nghệ
chậm, chỉ khoảng 10% trong thời gian qua. Các ngành cơng nghiệp có trình
độ cơng nghệ cao, hiện đại như: điện tử, tin học... mới chỉ chiếm vài phần
trăm giá trị sản xuất cơng nghiệp; dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao khơng
nhiều. Một số DNNN có nhiều máy móc, thiết bị tuy được đầu tư hiện đại
nhưng không huy động hết cơng suất (nhiều doanh nghiệp có hiệu suất sử
dụng tài sản cố định chỉ đạt 50-60%) hoặc tổng vốn đầu tư lớn dẫn đến chi phí
khấu hao, chi phí lãi vay trong giá thành sản phẩm cao. Nguyên nhân sâu xa
là trình độ cơng nghệ lạc hậu hiện nay, điều mà nhiều đại biểu Quốc hội đã
lên tiếng khi bàn thảo về Dự án Luật Chuyển giao Công nghệ. Khi cả nền
25



kinh tế Việt Nam chỉ có chưa đầy 2% số doanh nghiệp sử dụng cơng nghệ
cao, mà rất hiếm có DNNN lọt vào số 2% này, thì thực trạng hiện nay là hậu
quả tất yếu không thể tránh khỏi. Trong khi đó, tỷ lệ này ở Thái Lan là 30%,
Malaysia là 51%, Singapore là 73%. Theo cuốn “Nâng cao năng lực cạnh
tranh xuất khẩu trên cơ sở cắt giảm chi phí” do Viện Quản lý kinh tế Trung
ương (CIEM) chủ biên, (Nhà xuất bản Tài chính tháng 7 năm 2006), tình
trạng cơng nghệ ở nước ta hiện nay đang ở vào hoàn cảnh Singapore những
năm 60 của thế kỷ trước.
 Thực trạng đầu tư phát triển xây dựng cở bản trong DNNN.
Trong những năm gần đây, việc phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam đã
có những tiến bộ vượt bậc. Đầu tư vào các hoạt động sản xuất kinh doanh,
xây dựng cơ sở hạ tầng và bảo vệ mơi trường có tác động trực tiếp đến tăng
trưởng kinh tế và hiệu quả của đầu tư cho thấy nhanh hơn, rõ ràng hơn. Chính
vì vậy vốn đầu tư vào lĩnh vực này được xem là quan trọng nhất, đặc biệt với
các nước đang phát triển.Việt Nam hiện đầu tư hơn một phần ba giá trị GDP;
khoảng 9% được đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng. Kết quả là Việt Nam
đang nhanh chóng đuổi kịp các nước láng giềng về dịch vụ cung cấp và chi
phí. Điện khi hóa và điện thoại là những tiến bộ lớn nhất, hệ thống đường bộ
cũng được mở rộng đáng kể. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn phàn
nàn về cơ sở hạ tầng giao thông không đầy đủ; giá điện và điện thoại quá đắt
đỏ. Để đạt được tiến bộ hơn nữa trong phát triển cơ sở hạ tầng đòi hỏi phải đa
dạng nguồn vốn điều tiết đúng đắn hỗ trợ thu hồi chi phí và khuyến khích
cạnh tranh cũng giúp thu hút tư nhân vào tham gia vào phát triển cơ sở hạ
tầng và góp phần phát triển kinh doanh hơn nữa ở Việt Nam. Hiện đã có một
số sáng kiến đầy hứa hẹn trong hầu hết các lĩnh vực của cơ sở hạ tầng đặc biệt
là tăng tính cạnh tranh giữa các nhà cung cấp. Tuy nhiên, phần lớn các bên
tham gia kinh doanh là các DNNN. Nhìn về tương lai, trong những năm tới,
không thể chỉ dựa vào sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân để giải quyết
nhu cầu về cơ sở hạ tầng trông đợi khu vực kinh tế này đáp phần lớn nhu cầu.
26



Trong lĩnh vực hạ tầng cơ sở, phát triển kinh doanh đặc biệt phụ thuộc vào
chất lượng đầu tư công và việc đặt giá phù hợp cho dịch vụ cung cấp.
Vốn đầu tư phát triển của DNNN được huy động từ nhiều nguồn, bao
gồm vốn ngân sách, vốn vay và vốn tự có. Tỷ trọng của từng nguồn vốn
khơng giống nhau vì thay đổi tuỳ thuộc chính sách huy động vốn trong từng
thời kỳ. Trong những năm đầu của thời kỳ chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá
tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước XHCN, để
DNNN vượt qua những khó khăn ban đầu và làm vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế, thì nguồn vốn ngân sách Nhà nước được sử dụng cho đầu tư phát
triển thường chiếm tỷ trọng lớn nhất.
Bảng1: Vốn đầu tư của khu vực kinh tế Nhà nước phân theo nguồn vốn
Vốn ngân sách
Nhà nước

2000
2001
2002
2003
2004
2005
Sơ bộ 2006
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Sơ bộ 2006


Vốn vay

Vốn của các
doanh nghiệp
Nhà nước và
nguồn vốn khác

Giá thực tế (tỷ đồng)
89417
39006
27774
22637
101973
45594
28723
27656
114738
50210
34937
29591
126558
56992
38988
30578
139831
69207
35634
34990
161635

87932
35975
37728
185100
100200
41200
43700
Cơ cấu (%)
100.0
43.6
31.1
25.3
100.0
44.7
28.2
27.1
100.0
43.8
30.4
25.8
100.0
45.0
30.8
24.2
100.0
49.5
25.5
25.0
100.0
54.4

22.3
23.3
100.0
54.1
22.3
23.6
Nguồn: Niên giám thống kê 2006, tổng cục thống kê
27


×