Nội dung cơ bản của đầu tư phát triển. Tình hình đầu tư phát triển trong
hệ thống doanh nghiệp nhà nước
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
TRONG HỆ THỐNG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
I. ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN VÀ NỘI DUNG CỦA ĐẦU TƯ PHÁT
TRIỂN.
1. Các khái niệm chung.
- Đầu tư: là hoạt động bỏ vốn vào các lĩnh vực kinh tế xã hội (KT-XH) để
mong thu được lợi ích dưới các hình thức khác nhau trong tương lai. Đầu tư hay
hoạt động đầu tư là việc huy động các nguồn lực hiện tại để tiến hành các hoạt
động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn. Nguồn
lực bỏ ra đó có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động, tài sản vật chất
khác. Biểu hiện bằng tiền tất cả các nguồn lực đã bỏ ra trên đây được gọi là vốn
đầu tư. Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn),
tài sản vật chất (nhà máy, đường sá,...), tài sản trí tuệ ( trình độ văn hố, chun
mơn, khoa học kỹ thuật,…) và nguồn nhân lực. Có nhiều cách phân loại đầu tư.
Xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại ngưịi ta phân chia ra
thành :
- Đầu tư tài chính : là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay
hoặc mua chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái
phiếu chính phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của công ty phát hành (mua cổ phiếu, trái phiếu công ty).
- Đầu tư thương mại: là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để
mua hàng hố và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch
giá khi mua và khi bán.
1
- Đầu tư tài sản vật chất và nguồn nhân lực, khoa học công nghệ .. : là loại
đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm trực
tiếp tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh,
hoạt động xã hội khác. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà
cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, xây lắp, bồi dưỡng đào tạo
nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động
của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và
tạo tiềm lực mới cho nền KTXH. Loại đầu tư này được gọi chung là đầu tư phát
triển.
2. Khái niệm đầu tư phát triển.
Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn trong
hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài
sản vật chất (nhà xưởng thiết bị…) và tài sản trí tuệ (tri thức, kỹ năng…), gia
tăng năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển
Đối tượng của đầu tư phát triển: là tập hợp các yếu tố được chủ đầu tư bỏ
vốn thực hiện nhằm đạt những mục tiêu nhất định.
-> Theo quan điểm phân công lao động xã hội thì có hai nhóm đối tượng
chính là đầu tư theo ngành và đầu tư theo lãnh thổ.
-> Theo góc độ tính chất và mục đích đầu tư, đối tượng đầu tư được chia
thành hai nhóm chính la cơng trình vì mục tiêu lợi nhuận và cơng trình phi lợi
nhuận
-> Theo góc độ xem xét mức độ quan trọng, đối tượng đầu tư được chia
thành loại khuyến khích đầu tư, loại khơng khuyến khích đầu tư và loại bị cấm
đầu tư
-> Theo góc độ xem xét mức độ tài sản, đối tượng đầu tư được chia
thành: những tài sản vật chất và tài tài sản vơ hình
2
- Kết quả của đầu tư phát triển là sự tăng thêm về tài sản vật chất, tài sản
trí tuệ và tài sản vơ hình. Mặc dù đầu tư là ở hiện tại nhưng kết quả đầu tư
thường thu được trong tương lai.
- Mục đích của đầu tư phát triển là vì sự phát triển bền vững, vì lợi ích
quốc gia, cộng đồng và nhà đầu tư. Đầu tư nhà nước nhằm thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, tăng thu nhập quốc dân, góp phần giải quyết việc làm và nâng cao đời
sống của các thành viên trong xã hội. Đầu tư của doanh nghiệp nhằm tối thiểu
chi phí, tối đa lợi nhuận, nâng cao khả năng cạnh tranh và chất lượng nguồn
nhân lực…
- Chủ đầu tư của đầu tư phát triển là người sỡ hữu vốn hoặc được giao
quản lý, sử dụng vốn đầu tư. Chủ đầu tư chịu trách nhiệm kiểm tra giám sát đầu
tư, chịu trách nhiệm toàn diện về những sai phạm và hậu quả do ảnh hưởng của
đầu tư đến mơi sinh và do đó, có ảnh hưởng quan trọng đến việc nâng cao hiệu
quả hoạt động đầu tư.
3. Nội dung cơ bản của đầu tư phát triển.
Theo cách tiếp cận dựa vào lĩnh vực phát huy tác dụng của đầu tư
phát triển, đầu tư phát triển bao gồm:
* Đầu tư phát triển sản xuất
* Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng chung của nền kinh tế
* Đầu tư phát triển văn hóa giáo dục
* Đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật
* Đầu tư phát triển khác
Theo cách tiếp cận dựa vào quá trình hình thành và thực hiện đầu
tư, đầu tư phát triển bao gồm :
* Đầu tư cho hoạt động chuẩn bị đầu tư
* Đầu tư trong quá trình thực hiện đầu tư
3
* Đầu tư trong quá trình vận hành
Ở đây chúng ta chọn cách tiếp cận dựa vào khái niệm đầu tư phát
triển, theo đó khái niệm nội dung của đầu tư phát triển bao gồm: đầu tư phát
triển các tài sản vật chất và đầu tư phát triển các tài sản vơ hình.
* Đầu tư phát triển các tài sản vật chất gồm: đầu tư phát triển xây dựng cơ
bản và đầu tư vào hàng tồn trữ.
- Đầu tư xây dựng cơ bản : là hoạt động đầu tư nhằm tái tạo tài sản cố
định của doanh nghiệp. Đầu tư xây dựng cơ bản bao gồm các hoạt động như xây
lắp và mua sắm máy móc thiết bị. Hoạt động đầu tư này đòi hỏi vốn lớn và
chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn đầu tư phát triển của đơn vị. Đầu tư xây dựng
cơ bản trong khối nhà nước tuy có nhiều kết quả tốt song việc thất thốt trong
lĩnh vực đầu tư này đang rất lớn. Đây là một trong những vấn đề làm “đau đầu”
của Chính phủ ta.
- Đầu tư bổ sung hàng tồn trữ: Việc xác định quy mô đầu tư hàng tồn trữ
tối ưu cho doanh nghiệp là rất cần thiết. Trong danh mục hàng tồn trữ gồm
nguyên vật liệu, bán thành phẩm và sản phẩm hồn thành. Tùy theo loại hình
doanh nghiệp, quy mơ và cơ cấu các mặt hàng tồn trữ củng khác nhau.
* Đầu tư phát triển tài sản vơ hình gồm: đầu tư nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, đầu tư nghiên cứu triển khai các hoạt động khoa học, kỹ thuật, đầu tư
xây dựng thương hiệu, quảng cáo…
- Đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực có vị trí đặc biệt quan
trọng trong nền kinh tế và doanh nghiệp vì chỉ có nguồn nhân lực chất lượng cao
thì mới tao ra hiệu quả cao nhất. Do đó đầu tư phát triển nguồn nhân lực phải
được quan tâm tối đa, là việc làm hết sức cần thiết. Đầu tư phát triển nguồn nhân
lực bao gồm đầu tư cho hoạt động đào tạo đội ngũ lao động; đầu tư cho cơng tác
chăm sóc sức khỏe, y tế; đầu tư cải thiện môi trường, điều kiện làm việc của
người lao động.
4
- Đầu tư nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học và công nghệ.
Nhằm phát triển sản phẩm mới và các lĩnh vực hoạt động mới. Đầu tư nghiên
cứu hoặc mua cơng nghệ địi hỏi vốn lớn và độ rủi ro cao. Hiện nay khả năng
đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và triển khai khoa học và cơng nghệ của doanh
nghiệp Việt Nam cịn khá khiêm tốn. Đặc biệt việc nhập các công nghệ cũ, đã
lỗi thời trên thê giới còn rất phổ biến ở Việt Nam. Có rất ít các trung tâm nghiên
cứu lớn, các trường đại học với nhiều chuyên gia đầu nghành củng chưa phát
huy được vai trò nghiên cứu. Cùng với đà phát triển của kinh tế đất nước và
doanh nghiệp, trong tương lai tỷ lệ chi cho hoạt động đầu tư này sẽ ngày càng
tằng, tương ứng với nhu cầu và khả năng của doanh nghiệp.
- Đầu tư cho hoạt động marketing cũng là một lĩnh vực đầu tư hết sức
quan trọng, đặc biệt là trong các doanh nghiệp thương mại. Đầu tư cho hoạt
động marketing bao gồm đầu tư cho hoạt động quảng cáo, xúc tiến thương mại,
xây dựng thương hiệu…Đầu tư cho hoạt động marketing cần chiếm một tỷ trọng
hợp lý trong tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp
4. Vai trò của đầu tư phát triển.
- Trước hết cần phải xác định rõ rằng đầu tư nói chung có một vai trò hết
sức to lớn trong nền kinh tế, là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa
khố của sự tăng trưởng. Nếu khơng có đầu tư thì khơng có phát triển. Nhìn trên
giác độ tồn bộ nền kinh tế của đất nước, đầu tư vừa tác động đến tổng cung,
vừa tác động đến tổng cầu. Về cầu, đầu tư chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu.
Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24-28% trong
cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đối với tổng cầu, tác động của
đầu tư là ngắn hạn. Với tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng lên của đầu tư làm
cho tổng cầu tăng, đường tổng cầu dịch chuyển sang phải, kéo sản lượng và mức
giá cân bằng tăng theo. Về cung, khi đầu tư đã có thành quả thì tổng cung đặc
biệt là tổng cung dài hạn tăng lên, đường tổng cung dịch chuyển xuống dưới,
kéo theo sản lượng tiềm năng tăng và do đó mức giá chung giảm. Tăng tiêu
5
dùng tiếp tục kích thích sản xuất tăng hơn nữa. Đầu tư có tác động hai mặt đến
sự ổn định kinh tế. Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối
với tổng cầu và tổng cung làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay
giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định, vừa là yếu tố phá vỡ sự
ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia.
- Đầu tư có tác động to lớn đến việc tăng cường khả năng khoa học và
công nghệ của đất nước. Có hai con đường cơ bản để có cơng nghệ là tự nghiên
cứu phát minh và nhập cơng nghệ từ bên ngồi. Dù là tự nghiên cứu phát minh
hay là nhập cơng nghệ từ bên ngồi đều phải có đầu tư. Đầu tư là điều kiện tiên
quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ. Mọi phương án đổi
mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không
khả thi.
- Đầu tư có mối quan hệ chặt chẽ với chuyển dịch cơ cấu. Kinh nghiệm
của các nước trên thế giới cho thấy nếu muốn tốc độ phát triển kinh tế tăng cao (
9-10%) thì phải tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở khu vực công
nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm, ngư nghiệp do hạn chế nhiều
mặt, để đạt tốc độ tăng trưởng từ 5 - 6% là rất khó khăn. Như vậy chính đầu tư
đã quyết định chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng
nhanh của tồn bộ nền kinh tế.
- Ngồi ra đầu tư cịn có tác động giải quyết những mất cân đối về phát
triển giữa các vùng lãnh thổ, xố đói giảm nghèo, phát huy lợi thế so sánh về tài
nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị … của những vùng có khả năng phát triển
nhanh để làm đầu tàu cho các vùng khác. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng
trưởng và phát triển kinh tế. Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy,
muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư ít nhất phải đạt
được từ 15-20% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR mỗi nước.
- Đối với các cơ sở kinh doanh dịch vụ thì đầu tư quyết định sự ra đời, tồn
tại và phát triển của mỗi cơ sở. Đối với các cơ sở hoạt động phi lợi nhuận, để
6
duy trì sự hoạt động, ngồi tiến hành sửa chữa lớn định kỳ các cơ sở vật chất kỹ
thuật còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả những hoạt động và
chi phí này đều là những hoạt động đầu tư.
- Đầu tư phát triển có vai trị hết sức quan trọng trong nền kinh tế bởi vì
nó tạo ra các tài sản cố định. Đầu tư xây dựng cơ bản là hoạt động đầu tư để sản
xuất ra của cải vật chất đặc biệt, tạo ra cơ sở vật chất và kỹ thuật ban đầu cho xã
hội. Tất cả các ngành kinh tế chỉ có thể tăng nhanh khi có đầu tư xây dựng cơ
bản , đổi mới công nghệ, xây dựng mới để tăng năng suất, chất lượng và hiệu
quả. Đầu tư phát triển xây dựng cơ bản nhằm xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế,
tạo điều kiện cho các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước đầu tư mở rộng
sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố.
- Đầu tư phát triển sẽ tạo điều kiện để phát triển mới, đầu tư chiều sâu, mở
rộng sản xuất ở các doanh nghiệp, sẽ góp phần phát triển nguồn nhân lực, cải
thiện cơ sở vật chất của giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát triển y
tế, văn hoá và các mặt xã hội khác. Đầu tư phát triển góp phần thực hiện mục
tiêu xố đói giảm nghèo, tạo việc làm, phát triển cơ sở hạ tầng, cải thiện điều
kiện sống ở các vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa, phát triển nguồn nhân lực, xây
dựng các cơ sở sản xuất và dịch vụ, tạo ra những tác động tích cực cho vùng
nghèo, người nghèo, hộ nghèo khai thác các tiềm năng của vùng, vươn lên làm
ăn khá giả. Từ đó đảm bảo tỷ lệ cân đối vùng miền, ngành nghề, khu vực và
phân bố hợp lý sức sản xuất, tận dụng lợi thế so sánh.
- Đầu tư phát triển của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN với xuất phát điểm thấp như nước ta hiện nay có một vai trị quan trọng
hết sức to lớn, bởi vì vốn dành cho đầu tư phát triển của nhà nước chiếm một tỷ
lệ lớn trong ngân sách của toàn xã hội. Đầu tư phát triển của nhà nước góp phần
khắc phục những thất bại của thị trường, tạo cân bằng trong cơ cấu đầu tư, giải
quyết các vấn đề xã hội. Mặt khác đầu tư phát triển của nhà nước được tập trung
7
vào những cơng trình trọng điểm, sử dụng nguồn vốn lớn, có khả năng tác động
mạnh đến đời sống kinh tế xã hội. Bên cạnh đó cũng cần phải thấy rằng đầu tư
phát triển của nhà nước nếu không được quản lý một cách hợp lý sẽ dễ gây ra
thất thốt, lãng phí, kém hiệu quả hơn là đầu tư phát triển từ các nguồn vốn
khác.
II. DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
TRONG HỆ THỐNG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
1.
Khái niệm doanh nghiệp nhà nước.
Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) là loại hình doanh nghiệp được thừa
nhận tồn tại ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.Tuy nhiên, do đặc điểm hình
thành, vai trị, phạm vi hoạt động… khơng giống nhau nên quan niệm về DNNN
cũng không giống nhau.
Thông thường, DNNN là những loại hình doanh nghiệp do Nhà nước đầu
tư, xây dựng và chi phối hoạt động sản xuất và kinh doanh. DNNN có nhiều
hình thức khác nhau như doanh nghiệp quốc hữu hố, xí nghiệp quốc doanh,
doanh nghiệp công…Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc, DNNN được hiểu la
”những doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ toàn bộ hoặc một phần sở hữu và
Nhà nước kiểm soát tới một mức độ nhất định quá trình ra quyết định của doanh
nghiệp”.
Ở Việt Nam, nhận thức về DNNN là cả một quá trình gắn liền với các giai
đoạn lịch sử. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường có sự điều tiết của
Nhà nước hiên nay, nền kinh tế Việt Nam tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều
hinh thức sở hữu khác nhau như sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn
hợp… Tương ứng với mỗi hình thức sở hữu đó có ba loại hình thức doanh
nghiệp là: DNNN, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp hỗn hợp (cơng ty cổ
phần…), trong đó DNNN la nịng cốt của thành phần nhà nước, giữ vị trí chu
đạo. Chính thực tế này đặt ra vấn đề cần nghiên cứu nghiêm túc khái niệm
DNNN và cần nghiên cứu đầy đủ hơn về khái niệm này theo hướng ngày càng
phù hợp hơn với thực tế.
8
Theo Nghị định 388/HĐBT ngày 20/11/1991 của Hội đồng Bộ trưởng
(nay là Chính phủ), “DNNN là tổ chức kinh doanh do nhà nước thành lập, đầu
tư vốn và quản lý với tư các chủ sở hữu. DNNN là một pháp nhân kinh tế, hoạt
động theo pháp luật và bình đẳng trước pháp luật”. Để phù hợp với tình hình
mới Luật DNNN được ban hành ngày 24/4/1995 đã đưa ra định nghĩa như sau: “
Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và
tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động cơng ích, nhằm thực hiện
các mục tiêu kinh tế - xã hội do nhà nước giao , DNNN có tư cách pháp nhân, có
các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh
doanh trong phạm vi vốn do doanh nghiệp quản lý. DNNN có tên gọi, có con
dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam”. Tuy nhiên, chỉ đến khi luật
DNNN ra đời thì nhận thức về DNNN mới đầy đủ sát với thực tế hơn và để phù
hợp với tiến trình phát triển kinh tế và xu thế hội nhập của nước ta vào nền kinh
tế khu vực và thế giới thì theo nghị quyết số 14/2003/QH11 ngày 26 tháng
11 năm 2003 quy định về doanh nghiệp nhà nước như sau: “Doanh nghiệp
nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ
phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức cơng ty nhà nước, cơng ty
cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.”
Luật Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) được Quốc hội ban hành ngày 2611-2003, có hiệu lực thi hành ngày 1-7-2004, thay thế cho Luật DNNN ban hành
ngày 20-4-1995. Việc ban hành Luật DNNN lần này có tác dụng rất quan trọng
trong việc khắc phục những hạn chế, khuyết điểm của Luật DNNN năm 1995,
như quy định chặt chẽ hơn các vấn đề về quản lý tài chính, tiền tệ doanh nghiệp,
mở rộng thẩm quyền, đồng thời xác định rõ ràng hơn trách nhiệm của giám đốc,
quy định rõ mối quan hệ giữa Tổng giám đốc và Chủ tịch Hội đồng quản trị...
Từ khái niệm trên có thể nêu ra một số đặc trưng cơ bản của doanh nghiệp
nhà nước :
9
Thứ nhất về mức độ sở hữu vốn trong doanh nghiệp, Nhà nước là chủ sở
hữu đối với toàn bộ hoặc đa số vốn trong doanh nghiệp và vì thế nhà nước có
thể chi phối được những hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp
Thứ hai Nhà nước kiểm soát đối với quá trình ra quyết định của DNNN
bằng việc nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc nắm giữ trên 50% vốn. Song điều này
khơng có nghĩa la nhà nước can thiệp trực tiếp vào hoạt động hàng ngày của
doanh nghiệp bởi lẽ, nhà nước và DNNN là những chủ thể pháp lý tách bạch và
độc lập với nhau. Nhà nước đóng vai trị là người chủ sở hữu đối với doanh
nghiệp người đầu tư vốn, còn DNNN là chủ thể kinh doanh độc lập có tư cách
pháp lý như mọi chủ thể kinh doanh của các nhà đầu tư khác trong nền kinh tế.
Thứ ba Doanh nghiệp nhà nước là đối tượng quản lý của nhà nước, phải
thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hộido Nhà nước giao cho.
Tóm lại quan niệm về doanh nghiệp nhà nước có thể được xem xét từ các
góc độ khác nhau, thay đổi theo từng thời kỳ, gắn với thực tiễn đổi mới kinh tế
xã hội 20 năm qua ở nước ta. Trong điều kiện tiến tới hội nhập kinh tế khu vực
và toàn cầu nhưng vẫn đảm bảo đường lối độc lập tự chủ về kinh tế của nước ta
hiện nay, tạo mọi thuận lợi phát huy hiệu quả vốn Nhà nước và tiềm năng về
vốn của mọi thành phần kinh tế khác thì phải nhận thức đúng phù hợp về khái
niệm doanh nghiệp Nhà nước .
2. Phân loại doanh nghiệp Nhà nước.
Có nhiều cách phân loại doanh nghiệp Nhà nước khác nhau. Ở đây bài
viết trình bày một số cách phân loại DNNN mà sẽ được sử dụng trong nghiên
cứu.
Thứ nhất : Dựa vào mục đích hoạt động chia DNNN thành hai loại:
DNNN hoạt động kinh doanh và DNNN hoạt động cơng ích.
DNNN hoạt động kinh doanh là loại doanh nghiệp có chức năng chủ yếu
là hoạt động kinh doanh trên số vốn và tài sản Nhà nước được giao. Mục tiêu
10
chủ yếu của loại doanh nghiệp này là thu lợi nhuận và doanh nghiệp tự quyết
định loại sản phẩm kinh doanh trên cơ sở tuân thủ pháp luật.
DNNN hoạt động cơng ích là loại doanh nghiệp thuộc khu vực vơ vị lợi,
hoạt động với chức năng chủ yếu là đáp ứng nhu cầu của xã hội bằng những sản
phẩm, dịch vụ cụ thể, không thể thiếu được trong quốc kế dân sinh. Yếu tố lợi
nhuận khơng đóng vai trị quan trọng
Thứ hai: căn cứ theo mức độ đầu tư vốn Nhà nước tại doanh nghiệp chia
DNNN thành hai loại:
Doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước là những doanh nghiệp mà Nhà nước
đầu tư toàn bộ vốn điều lệ để thành lập.
Doanh nghiệp cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước là những doanh
nghiệp mà Nhà nước đầu tư trên 50% vốn điều lệ và Nhà nước giữ quyền chi
phối doanh nghiệp.
Thứ ba: căn cứ vào lĩnh vực hoạt động trong nền kinh tế DNNN được
chia thành hai loại: doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất vật chất và
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại dịch vụ.
DNNN hoạt động sản xuất vật chất là những doanh nghiệp trực tiếp tham
gia sản xuất, tạo ra các sản phẩm , hàng hóa cho xã hội. DNNN hoạt động
thương mại dịch vụ là những doanh nghiệp tham gia vào khâu lưu thơng phân
phối của q trình tái sản xuất hoặc lĩnh vực dịch vụ, nhưng không trực tiếp sản
xuất ra sản phẩm vật chất.
3. Vai trò của doanh nghiệp Nhà nước.
Doanh nghiệp nhà nước có vai trị rất quan trọng điều này được thể hiện
tại Nghị quyết 05 Hội nghị lần thứ ba BCHTƯ Đảng khoá IX: kinh tế Nhà nước
có vai trị quyết định trong việc giữ vững định hướng XHCN. DNNN phải
không ngừng được đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ vị trí then chốt
trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và
điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nịng cốt, góp phần chủ yếu để kinh tế Nhà nước
11
thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, là chủ
lực trong hội nhập quốc tế.
Theo chúng tôi cần nhấn mạnh một số điểm dưới đây về vai trò của kinh
tế Nhà nước mà nịng cốt là DNNN:
•
Vai trị chính trị: Một là, DNNN nắm giữ những ngành đặc biệt quan
trọng liên quan đến an ninh, quốc phòng quốc gia. Hai là, DNNN tham gia
chiếm giữ một số vị trí thiết yếu, quan trọng (tuỳ theo từng thời kỳ phát triển
kinh tế) để chủ động định hướng xã hội, làm đối trọng trong phát triển hội nhập
kinh tế quốc tế.
•
Vai trị xã hội: Được thể hiện ở một số điểm sau: Thứ nhất,DNNN đi
đầu trong việc thực hiện trách nhiệm xã hội đối với cộng đồng, đặc biệt đối với
địa phương nơi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, nơi các vùng kinh tế khó
khăn, vùng sâu, vùng xa. Nếu lợi nhuận là mục tiêu cở bản của doanh nghiệp tư
nhân thì đối với DNNN, ngồi mục tiêu kinh doanh cịn nhiều mục tiêu cở bản
khác. Lợi nhuận không phải là mục tiêu duy nhất mà trước hết phải xem xét đến
lợi ích chính trị- xã hội- kinh tế của đất nước. DNNN phải có mặt và phát triển
tại các lĩnh vực mà các doanh nghiệp khác khơng muốn hoặc khơng có khả năng
làm, để đảm bảo cung cấp các hàng hoá và dịch vụ cần thiết cho nhu cầu của các
tầng lớp dân cư. Vì vậy, hiệu quả của DNNN có thể là hiệu quả kinh tế, hoặc
hiệu quả xã hội, hoặc cả hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Do đó trong nhiều
trường hợp các DNNN hoạt động trong lĩnh vực cơng ích phải đặt mục tiêu lợi
nhuận xuống hàng thứ yếu. Thứ hai, DNNN đóng vai trị quan trọng trong việc
khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường, tạo điều kiện cho việc
xây dựng xã hội mới. Từ thực tiễn phát triển kinh tế thị trường ở các quốc gia
trên thế giới, bên cạnh nhiều mặt tích cực, người ta cũng nhận thấy những
khuyết tật vốn có. Những khuyết tật cơ bản của nền kinh tế thị trường bao gồm:
Một là, do theo đuổi mục tiêu làm cho chi phí biên cá nhân nhỏ hơn chi phí biên
xã hội, gây ra ảnh hưởng ngoại ứng, ô nhiễm môi trường. Hai là, việc cung cấp
12
sản phẩm công cộng thường không hấp dẫn các doanh nghiệp vì lợi nhuận ở khu
vực này thường thấp trong khi địi hỏi đầu tư lớn. Trong tình hình đó, DNNN
đóng vai trị tạo điều kiện khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường. Để
góp phấn hạn chế khuyết tật thứ hai, các DNNN không những phải xuất hiện ở
lĩnh vực cung cấp sản phẩm công cộng, mà quan trọng là phải cung cấp sản
phẩm công cộng một cách có hiệu quả.
•
Vai trị kinh tế: DNNN phải là công cụ kinh tế quan trọng để Nhà
nước trực tiếp tác động đến các quá trình kinh tế xã hội, điều tiết vĩ mô, thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế và đổi mối cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HDH. Doanh
nghiệp Nhà nước có vai trị kinh tế chung rất quan trọng. Vai trò ấy thể hiện chủ
yếu ở chỗ khắc phục thất bại thị trường, điều tiết vĩ mô, nhằm làm cho các hoạt
động kinh tế có hiệu quả, cơng bằng, ổn định. Đồng thời DNNN nắm giữ các
ngành then chốt và thực sự trở thành công cụ để Nhà nước điều tiết và định
hướng phát triển XHCN. DNNN là công cụ để Nhà nước điều chỉnh cơ cấu sản
xuất, cơ cấu kinh tế, đặc biệt cơ cấu kinh tế ngành, vùng lãnh thổ, phát triển hạ
tầng cơ sở và xây dựng từng bước nền Công nghiệp hiện đại. Vai trò chủ đạo
của kinh tế Nhà nước được thể hiện không phải ở việc phát triển tràn lan mà lựa
chọn các ngành kinh tế then chốt, mũi nhọn để phát triển. Kinh tế Nhà nước nắm
giữ phần lớn những cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội, dịch vụ công cộng…, những
lĩnh vực mà tư nhân các thành phần kinh tế khác không được làm, không muốn
hoặc không đủ năng lực đầu tư. Mặt khác, trong nền kinh tế thị trường, quyết
định đầu tư trước hết phải là của doanh nghiệp, hộ gia đình trong nền kinh tế, do
vậy trước hết phải huy động đầu tư phát triển từ khu vực tư nhân. Quyết định ấy
bị dẫn dắt bởi chính nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên có những lĩnh vực mà tư
nhân sẽ không đầu tư hoặc đầu tư khơng hiệu quả, địi hỏi đầu tư của nhà nước.
Cụ thể là nhà nước nên đầu tư sản xuất hàng hố cơng. Nhà nước phải trực tiếp
đầu tư để cung cấp một số hàng hoá tư nhân mà khu vực tư nhân khơng thể,
khơng muốn đầu tư. Ví dụ như hàng hố tư nhân chi phí cao ( nước sạch, …).
Nhà nước phải đầu tư để sản xuất một số hàng hố tư nhân vì lý do chính trị xã
13
hội, mà nếu khơng có việc sản xuất các loại hàng hố này thì nền kinh tế sẽ
khơng có hiệu quả
Ngồi vai trị kinh tế chung, nhà nước có hai vai trò cơ bản hết sức quan
trọng trong lĩnh vực đầu tư phát triển của toàn xã hội:
Một là tạo ra khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động đầu tư phát triển được
tiến hành.
Hai là khuyến khích, dẫn dắt hoạt động đầu tư phát triển theo định hướng
nhất định trên cơ sở quyết định quy hoạch, kế hoạch, cấp phát ngân sách, cho
vay vốn hoặc các biện pháp điều tiết khác.Vai trò của nhà nước trong hoạt động
đầu tư phát triển được thể hiện rõ thơng qua chính hoạt động đầu tư phát triển
của nhà nước cũng như việc điều tiết, thúc đẩy, hỗ trợ đầu tư khu vực ngoài nhà
nước( tư nhân và đầu tư nước ngoài) và thơng qua việc quyết định kế hoạch, quy
hoạch.
Ở một góc độ cụ thể hơn, ta có thể thấy vai trị của nhà nước thể hiện trên
các khía cạnh như chi tiêu, cấp phát ngân sách, cho vay vốn ưu đãi; đầu tư phát
triển để tạo ra hàng hố cơng; đầu tư phát triển để thực hiện việc cung cấp công
cộng một số hàng hố tư nhân; chính sách bao tiêu một số sản phẩm và dịch vụ
từ đầu tư phát triển được lựa chọn để giữ vững cầu, ổn định giá cả và thúc đẩy
tăng trưởng; đầu tư cho nghiên cứu và phát triển; thi hành chính sách thuế khố
liên quan đến hoạt động đầu tư phát triển; quản lý nhà nước về đầu tư phát triển
(quản lý cá nhân và tổ chức tham gia đầu tư phát triển , quản lý sản phẩm của
đầu tư phát triển ); xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh
hoạt động đầu tư phát triển; thanh tra, kiểm tra hoạt động đầu tư phát triển ,...
Công tác xử lý các vướng mắc, các phát sinh trong quá trình thực hiện và vận
hành dự án đầu tư phát triển
14
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
TRONG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC THỜI KỲ 2000 – 2006
I. TỔNG QUAN CHUNG VỀ TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
TRONG HỆ THỐNG DNNN THỜI KỲ 2000 - 2006
DNNN tiếp tục là lực lượng nòng cốt của thành phần kinh tế nhà nước,
đảm bảo vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế quốc dân. Trong
những năm qua, tỷ trọng đầu tư của khu vực này trong tổng mức đầu tư tồn xã
hội vẫn được duy trì theo các năm, đóng góp rất lớn về đầu tư trong tổng đầu tư
của xã hội. Đây là nguồn vốn các doanh nghịêp chủ động trong việc huy động
và sử dụng theo đúng yêu cầu của các doanh nghịêp. Nguồn vốn này được tập
trung đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, bổ sung thiết bị để nâng cao công
suất, chất lượng sản phẩm và một phần dùng để đầu tư xây dựng mới, mở rộng
sản xuất kinh doanh. Nếu nguồn vốn huy động được từ doanh nghiệp nhà nước
được sử dụng có hiệu quả hơn sẽ góp phần trực tiếp cho tăng trưởng nhanh kinh
tế, nâng cao sức cạnh tranh trong từng sản phẩm.
Một số kết quả chính đã đạt được trong năm 2003 như sau:
- Doanh thu khu vực DNNN đạt 470.000 tỷ đồng, tăng 10,5% so với năm
2002 và 11% so với năm 2001, đã đóng góp 40% GDP của cả nước, tăng 0,5%
so với năm 2001;
- Nộp ngân sách đạt 87.000 tỷ đồng, tăng 10% so với năm 2002 và 69%
so với năm 2001 chiếm trên 60% tổng thu NSNN ;
- Lợi nhuận thực hiện đạt 21.000 tỷ đồng, tăng 10,5% so với năm 2002 và
31,2% so với năm 2001 ;
- Chiếm 50% kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Nhìn chung, tốc độ tăng trưởng bình quân trong 3 năm 2001 - 2003 của
15
DNNN đạt mức 10%/năm, xấp xỉ mức bình quân trong 10 năm 1991-2000
(11%). Trình độ cơng nghệ và quản lý có nhiều tiến bộ, sức cạnh tranh được
nâng cao, dần dần thích nghi với cơ chế thị trường.
DNNN hoạt động cơng ích đi vào thực chất hơn, đảm bảo đa số sản phẩm,
dịch vụ thiết yếu của xã hội, đặc biệt cho quốc phòng - an ninh, đồng bào vùng
sâu, vùng xa. Cải cách DNNN được đẩy mạnh theo hướng tiếp tục đa dạng hóa
sở hữu các DNNN, đạt kết quả vượt bậc so với 5 năm trước 1996 - 2000.
Doanh nghiệp nhà nước tiếp tục được sắp xếp lại theo tinh thần Nghị
quyết Trung ương 3 theo hướng đa dạng hóa sở hữu với các hình thức cổ phần
hóa, giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp nhà nước. Tổng số doanh nghiệp
nhà nước được sắp xếp lại trong 5 năm qua vượt xa cùng thời kỳ trước đó. Các
doanh nghiệp sau khi sắp xếp lại hoạt động có hiệu quả hơn, nâng cao được tính
cạnh tranh, phát huy được vai trị tích cực và chủ động trong các hoạt động kinh
tế, xã hội. Từ 2001 - 2004 cổ phần hoá được 1.654 DNNN và bộ phận DNNN
(sau đây gọi chung là DNNN) chiếm 73% tổng số DNNN cổ phần hoá từ năm
1992 đến nay (2.242 DNNN cổ phần hoá). Trong đó, năm 2001: 205 doanh
nghiệp: năm 2002: 164 doanh nghiệp: năm 2003: 532 doanh nghiệp; năm 2004:
753 doanh nghiệp. Nhiều đơn vị thực hiện tốt lộ trình cổ phần hố theo đế án đã
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, điển hình là: Bộ Xây dựng (đạt 125%),
Bộ Cơng nghiệp (đạt 106%), Tổng cơng ty Bưu chính Viễn thơng Việt Nam (đạt
182%), Tổng công ty Dệt May Việt Nam (đạt 133%), tỉnh An Giang (đạt 130%),
tỉnh Hải Dương (đạt 116%), tỉnh Vĩnh Phúc (đạt 115%), thành phố Hồ Chí Minh
(đạt 109%), thành phố Cần Thơ (đạt 109%), tỉnh Nam Định (đạt 109%), tỉnh Hà
Tây (đạt 103%). Theo kế hoạch, năm 2005 sẽ thực hiện cổ phần hố 724
DNNN, hồn thành cơ bản 104 Đề án sắp xếp DNNN đã được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt.
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt đề án cổ phần hố tồn Tổng cơng ty
Thương mại và Xây dựng (Bộ Giao thông - Vận tải) và Tổng công ty Điện tử và
16
Tin học (Bộ Xây dựng). Ngoài ra, một số đề án cổ phần hố các Tổng cơng ty
lớn đang được trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định như Tổng công ty
Xuất nhập khẩu xây dựng VINACONEX (Bộ Xây dựng); Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam. Đây sẽ là bước quan trọng để triển khai đẩy mạnh quá trình
cổ phần hố DNNN.
Nhìn chung, kết quả hoạt động kinh doanh của các DNNN sau khi cổ
phần hóa đều tốt hơn theo hướng tăng vốn sản xuất kinh doanh, tăng doanh thu,
tăng lợi nhuận và tăng thu nhập cho người lao động
Bên cạnh hình thức cổ phần hố là giải pháp mang tính đột phá trong q
trình sắp xếp, đổi mới DNNN, các hình thức khác như giao, bán, chuyển DNNN
thành cơng ty TNHH 1 thành viên cũng được triển khai mạnh, làm đa dạng hố
các hình thức sắp xếp, đổi mới cơ chế quản lý, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt
động của DNNN. Ngồi ra, cịn thực hiện các hình thức tổ chức lại, giải thể và
phá sản DNNN làm ăn kém hiệu quả.
Sau 4 năm thực hiện (2001 - 2004), cả nước thực hiện giao 127 doanh
nghiệp, bán 76 doanh nghiệp, sáp nhập 390 doanh nghiệp, hợp nhất 133 doanh
nghiệp, giải thể 134 doanh nghiệp, phá sản 18 doanh nghiệp, chuyển sang công
ty TNHH 1 thành viên 55 doanh nghiệp, thành lập mới 67 doanh nghiệp[2].
Trong quá trình sắp xếp DNNN, doanh nghiệp đã quan tâm giải quyết chế
độ cho người lao động dôi dư theo Nghị định số 41/2002/NĐ-CP ngày 11 tháng
4 năm 2002 của Chính phủ về chính sách đối với lao động dơi dư do sắp xếp lại
DNNN.
Tính đến hết năm 2004, đã có 1.342 doanh nghiệp được Bộ Tài chính
duyệt cấp kinh phí cho 62.305 người nghỉ việc hưởng theo chế độ lao động dôi
dư với tổng số tiền khoảng 1.803 tỷ đồng. Trong đó, có 6.448 người nghỉ hưu
trước tuổi với số tiền là 111,1 tỷ đồng; 55.257 người hưởng trợ cấp mất việc làm
với số tiền là 1.698,4 tỷ đồng.
Chính sách đối với những lao động dôi dư phù hợp với thực tế, quyền lợi
17
được bảo đảm, góp phần bình ổn thị trường lao động dôi dư, giảm nhẹ gánh
nặng cho xã hội, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển sau khi thực hiện các
hình thức sắp xếp.
Bên cạnh đó Đảng và chính phủ cũng khơng ngừng hồn thiện khung
pháp lý theo hướng dần bình đẳng với các doanh nghiệp khác; dần hình thành
các Tổng cơng ty mạnh, Tập đồn kinh tế lớn. Kỳ họp thứ 4, Quốc hội Khố XI
đã thơng qua Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 thay thế Luật Doanh
nghiệp nhà nước năm 1995. Luật DNNN năm 2003 đã có thay đổi lớn về khái
niệm DNNN, DNNN được hiểu là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu tồn bộ
vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối được tổ chức dưới hình thức cơng
ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty TNHH. Ngày 24 tháng 8 năm 2004, Thủ
tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 155/2004/QĐ-TTg về ban hành tiêu
chí, danh mục phân loại công ty nhà nước và công ty thành viên hạch tốn độc
lập thuộc tổng cơng ty nhà nước, đây là cơ sở để các Bộ, ngành, địa phương tập
trung đầu tư cho những doanh nghiệp hoạt động trong những ngành, lĩnh vực
then chốt, mang tính chất ổn định kinh tế - xã hội mà Nhà nước cần nắm giữ
100% vốn. Ngày 09 tháng 8 năm 2004, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
153/2004/NĐ-CP về tổ chức, quản lý tổng công ty nhà nước và chuyển đổi tổng
công ty nhà nước, công ty nhà nước độc lập theo mô hình cơng ty mẹ - cơng ty
con, làm nền tảng hình thành các Tổng cơng ty mạnh, thay đổi cơ chế quản lý từ
quan hệ hành chính sang quan hệ dựa vào tỷ lệ góp vốn.
Hiện nay, đã có 47 tổng công ty nhà nước, công ty nhà nước độc lập xây
dựng đề án chuyển đổi hoạt động theo mô hình cơng ty mẹ - cơng ty con, trình
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Trong đó, một số doanh nghiệp đã được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt và đi vào hoạt động. Ngồi ra, Thủ tướng Chính phủ
đã cho phép xây dựng thí điểm đề án các Tập đồn kinh tế hoạt động trong một
số lĩnh vực mang tính then chốt, mũi nhọn của nền kinh tế như Bưu chính - Viễn
Thơng; Dầu khí; Điện lực; Xi măng...
18
Tóm lại, với tình hình phát triển doanh nghiệp trong nước trong 5 năm
qua đã tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế theo hướng sắp xếp
lại và đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước, phát huy mạnh mẽ tiềm năng của khu
vực kinh tế dân doanh, kinh tế hợp tác xã, kinh tế trang trại...
Đóng góp của từng thành phần kinh tế vào quá trình tăng trưởng chung
của tồn nền kinh tế cũng có nhiều thay đổi, theo hướng giảm tỷ trọng của khu
vực kinh tế nhà nước, tăng tỷ trọng của khu vực kinh tế dân doanh.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì những yếu kém, tồn tại vẫn cịn
là vấn đề bức xúc, chưa được giải quyết triệt để ở nhiều lĩnh vực. Điển hình là
tình trạng thất thốt, lãnh phí vốn đầu tư phát triển diễn ra khá là phổ biến nhất
là trong xây dựng cơ bản, diễn ra trong nhiều dự án đâu tư, thuộc các nguồn vốn,
ở các ngành, các địa phương và trong tất cả các giai đoạn của quá trình đầu tư.
Năm 2002, Thanh tra Nhà nước thanh tra 17 dự án có tổng mức đầu tư là
9.385 tỷ đồng, tổng giá trị vốn đầu tư được thanh tra, kiểm tra là 6.407 tỷ đồng.
Tổng số sai phạm về kinh tế và tài chính được phát hiện ở 17 dự án là 871 tỷ
đồng, chiếm 13,6% tổng số vốn đầu tư được thanh tra, kiểm tra.
Năm 2003, Thanh tra Nhà nước thanh tra 14 dự án lớn với tổng mức đầu
tư là 8.193 tỷ đồng, trong đó giá trị vốn đầu tư được thanh tra là 6.450 tỷ đồng.
Qua thanh tra đã phát hiện nhiều sai phạm về kinh tế do làm trái các quy định
của Nhà nước là 1.235 tỷ đồng, chiếm khoảng 19% số vốn được thanh tra.
Trong tổng số vốn được phát hiện có sai phạm nói trên, Thanh tra Nhà nước đã
kiến nghị thu hồi 357 tỷ đồng, chiếm 5,5% tổng số vốn được thanh tra.
II.
NỘI DUNG VÀ THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
TRONG HỆ THỐNG DNNN 2000 - 2006
1. Đầu tư phát triển xây dựng cơ bản.
Thực trạng cơ sở hạ tầng:
Một trong nhiều yêu cầu để Việt Nam gia nhập vào WTO là phải minh
19
bạch trong việc kiểm toán chi thu của quốc gia. Do đó, lần đầu tiên trong lịch sử
Đảng CSVN đã đưa ra bản báo cáo từng phần ngân sách nhà nước năm 2005.
Theo đó, riêng trong lãnh vực quốc doanh, 19 tổng công ty và ngân hàng quốc
doanh trên 4.447 quốc doanh tồn quốc, cho thấy kết quả kiểm tốn hồn tồn
đưa đến việc thua lỗ và cơng ty quốc doanh đã làm kinh tế theo một chính sách
phi kinh tế . Sau đây là vài con số thua lỗ cũa các công ty quốc doanh trong năm
2005: Ngành dệt may lỗ 328 tỷ Đồng ; ngành giấy lỗ 199 tỷ Đồng ; ngành lương
thực lỗ 183 tỷ Đồng (1 tỷ Đồng tương đương 60.000 Mỹ kim). Tổng số nợ của
16 doanh nghiệp các ngành kễ trên là 47,000 tỷ đồng, tương đương với 80%
tổng tài sản của các công ty. Do đó, những cơng ty trên hồn tồn khơng cịn khả
năng thanh tốn phần nợ.
Cơ sở hạ tầng yếu kém trong một thời gian dài là một trong những nguyên
nhân chính khiến các DNNN làm ăn thua lỗ. Một số các nguyên nhân khác như
là trình độ quản lý, tác phong làm việc kém chuyên nghiệp, luật pháp chưa chặt
chẽ, kém linh hoạt… Các DNNN quy mô vẫn chua lớn. Nhiều DNNN có trình
độ cơng nghệ dưới mức trung bình của thế giới và khu vực. Thiết bị, dây chuyền
lạc hậu so với thế giới từ 10-20 năm, trong đó có 38% đang chờ thanh lý. Chi
phí sản xuất cơng nghiệp cịn rất cao, hạn chế mức tăng giá trị gia tăng. Cụ thể là
giá trị sản xuất mấy năm gần đây tăng 15%/năm, nhưng giá trị gia tăng chỉ tăng
10%. Tốc độ đổi mới công nghệ chậm, chỉ khoảng 10% trong thời gian qua. Các
ngành cơng nghiệp có trình độ cơng nghệ cao, hiện đại như: điện tử, tin học...
mới chỉ chiếm vài phần trăm giá trị sản xuất cơng nghiệp; dịch vụ có hàm lượng
trí tuệ cao khơng nhiều. Một số DNNN có nhiều máy móc, thiết bị tuy được đầu
tư hiện đại nhưng không huy động hết cơng suất (nhiều doanh nghiệp có hiệu
suất sử dụng tài sản cố định chỉ đạt 50-60%) hoặc tổng vốn đầu tư lớn dẫn đến
chi phí khấu hao, chi phí lãi vay trong giá thành sản phẩm cao. Nguyên nhân sâu
xa là trình độ cơng nghệ lạc hậu hiện nay, điều mà nhiều đại biểu Quốc hội đã
lên tiếng khi bàn thảo về Dự án Luật Chuyển giao Công nghệ. Khi cả nền kinh
tế Việt Nam chỉ có chưa đầy 2% số doanh nghiệp sử dụng công nghệ cao, mà rất
20
hiếm có DNNN lọt vào số 2% này, thì thực trạng hiện nay là hậu quả tất yếu
không thể tránh khỏi. Trong khi đó, tỷ lệ này ở Thái Lan là 30%, Malaysia là
51%, Singapore là 73%. Theo cuốn “Nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu
trên cơ sở cắt giảm chi phí” do Viện Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) chủ
biên, (Nhà xuất bản Tài chính tháng 7 năm 2006), tình trạng cơng nghệ ở nước
ta hiện nay đang ở vào hoàn cảnh Singapore những năm 60 của thế kỷ trước.
Thực trạng đầu tư phát triển xây dựng cở bản trong DNNN.
Trong những năm gần đây, việc phát triển cơ sở hạ tầng ở Việt Nam đã có
những tiến bộ vượt bậc. Đầu tư vào các hoạt động sản xuất kinh doanh, xây
dựng cơ sở hạ tầng và bảo vệ mơi trường có tác động trực tiếp đến tăng trưởng
kinh tế và hiệu quả của đầu tư cho thấy nhanh hơn, rõ ràng hơn. Chính vì vậy
vốn đầu tư vào lĩnh vực này được xem là quan trọng nhất, đặc biệt với các nước
đang phát triển.Việt Nam hiện đầu tư hơn một phần ba giá trị GDP; khoảng 9%
được đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng. Kết quả là Việt Nam đang nhanh
chóng đuổi kịp các nước láng giềng về dịch vụ cung cấp và chi phí. Điện khi hóa
và điện thoại là những tiến bộ lớn nhất, hệ thống đường bộ cũng được mở rộng
đáng kể. Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn phàn nàn về cơ sở hạ tầng
giao thông không đầy đủ; giá điện và điện thoại quá đắt đỏ. Để đạt được tiến bộ
hơn nữa trong phát triển cơ sở hạ tầng đòi hỏi phải đa dạng nguồn vốn điều tiết
đúng đắn hỗ trợ thu hồi chi phí và khuyến khích cạnh tranh cũng giúp thu hút tư
nhân vào tham gia vào phát triển cơ sở hạ tầng và góp phần phát triển kinh
doanh hơn nữa ở Việt Nam. Hiện đã có một số sáng kiến đầy hứa hẹn trong hầu
hết các lĩnh vực của cơ sở hạ tầng đặc biệt là tăng tính cạnh tranh giữa các nhà
cung cấp. Tuy nhiên, phần lớn các bên tham gia kinh doanh là các DNNN. Nhìn
về tương lai, trong những năm tới, không thể chỉ dựa vào sự tham gia của khu
vực kinh tế tư nhân để giải quyết nhu cầu về cơ sở hạ tầng trông đợi khu vực
kinh tế này đáp phần lớn nhu cầu. Trong lĩnh vực hạ tầng cơ sở, phát triển kinh
doanh đặc biệt phụ thuộc vào chất lượng đầu tư công và việc đặt giá phù hợp
cho dịch vụ cung cấp.
21
Vốn đầu tư phát triển của DNNN được huy động từ nhiều nguồn, bao
gồm vốn ngân sách, vốn vay và vốn tự có. Tỷ trọng của từng nguồn vốn khơng
giống nhau vì thay đổi tuỳ thuộc chính sách huy động vốn trong từng thời kỳ.
Trong những năm đầu của thời kỳ chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung
sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước XHCN, để DNNN vượt qua
những khó khăn ban đầu và làm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, thì nguồn vốn
ngân sách Nhà nước được sử dụng cho đầu tư phát triển thường chiếm tỷ trọng
lớn nhất.
Từ sau quá trình chuyển đổi cơ chế, DNNN đã phát triển, trưởng thành về
cả thế và lực. Kết quả là, những năm gần đây, Nhà nước đã khơng cịn cấp phát
vốn cho các doanh nghiệp như trước mà đầu tư cho DNNN thơng qua hình thức
cho vay. Tỷ trọng vốn ngân sách tăng chậm và ổn định ở mức cao, nguồn vốn tự
có của DNNN đã chiếm vị trí xứng đáng và vốn vay vẫn tiếp tục giảm dần trong
tổng vốn đầu tư phát triển của DNNN.
Như chỉ ra trong bảng 1, quy mô và tỷ lệ vốn NSNN chi đầu tư phát triển
của DNNN tăng liên tục trong thời kỳ 2000-2006, năm 2000 chiếm 43,6%, năm
2001 chiếm 44,7%, năm 2002 chiếm 43,8%, năm 2003 chiếm 45,0%, năm 2004
chiếm 49,5%, năm 2005 chiếm 54,4% và tính tốn sơ bộ năm 2006 chiếm
54,1%. Vốn vay tăng về quy mô song giảm khá nhanh về tỷ trọng cơ cấu, năm
2000 đạt 27774 tỷ đồng và chiếm 31,1& đến năm 2006, theo tinh toán sơ bộ đạt
41200 tỷ đồng và chiếm 22,3%. Chi tiết qua các năm như trên bảng báo cáo.
Vốn của các DNNN và nguồn vốn khác tăng đều đặn trong suốt thời kỳ các năm
2000-2006. Mức biến động qua các con số nêu trên đã phản ánh xu thế thay đổi
tất yếu theo chiều hướng tích cực.
Vốn tự có là phần vốn tự tích luỹ từ kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh của DNNN và bộ phận vốn khấu hao được để lai doanh nghiệp. Đây là
nguồn vốn quan trọng và rât có ý nghĩa trong điều kiện đổi mới cơ chế quản lý
vốn, nâng cao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, là điều kiện
để tái đầu tư, đổi mới công nghệ, mở rống sản xuất nâng cao hiệu quả hoạt động
22
của các DNNN. Như chỉ ra ở bảng 1, vốn tự có tăng đều về quy mơ, tuy giảm về
tỷ trọng nhưng giảm chậm.
Nguồn vốn ngân sách Nhà nước là phần vốn hỗ trợ DNNN đầu tư phát
triển được thực hiện theo cơ chế mới, tức chuyển từ hình thức cấp phát vốn sang
hình thức tín dụng ưu đãi đã tạo động lực thúc đẩy các DNNN năng động hơn.
Nguồn vốn này là nguồn hỗ trợ quan trọng cho DNNN song không phải là
nguồn vốn duy nhất, song đang chiếm tỷ trong lớn nhất. Đây là một vấn đề cần
được chú ý giải quyết trong thời gian tới để có thể đảm bảo được tính độc lập, tự
chủ của các doanh nghiệp nhà nước.
Quy mô vốn đầu tư của DNNN vào từng ngành nhiều hay ít có ảnh hưởng
trực tiếp đến sự phát triển của ngành đó, đến việc thay đổi cơ cấu ngành và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế quốc dân và dẫn đến hiệu quả đầu tư khác nhau giữa
các ngành.
Vốn đầu tư phát triển được tập trung sử dụng và đầu tư đồng bộ với công
nghệ hiên đại cho những ngành có tốc độ tăng trưởng cao.
Bảng 2: Vốn đầu tư theo giá thực tế phân theo ngành kinh tế
Nguồn: tổng cục thống kê (trang Web: )
Cơ cấu vốn đầu tư phát triển của DNNN chia theo ngành kinh tế (sản xuất
và thương mại dịch vụ) trong những năm qua đã có sự chuyển dịch tích cực.Vốn
đầu tư phát triển dành cho các ngành công nghiệp của DNNN có xu hướng tăng
lên nhanh, đặc biệt trong các năm 2003, 2004. Tỷ trọng vốn đầu tư phát triển của
DNNN dành cho ngành nông nghiệp giảm từ năm 2000-2003 và tăng dần từ
năm 2004-2006. Thể hiện sự chuyển dịch mạnh mẽ của cơ cấu nền kinh tế, từng
bước hồn thành mục tiêu cơng nghiệp hóa hiện đại hóa.
2. Đầu tư phát triển tài sản vơ hình :
2.1/ Thực trạng nguồn nhân lực và đầu tư phát triển nguồn nhân lực
trong hệ thống doanh nghiệp nhà nước:
23
Thực trạng nguồn nhân lực :
Ngay từ đầu năm 2006, những tín hiệu khả quan về tốc độ tăng trưởng
kinh tế, tốc độ đầu tư trong và ngoài nước, hàng loạt doanh nghiệp mới ra đời,
mở rộng quy mô sản xuất đã tạo ra sự thiếu hụt trầm trọng về nguồn lao động đã
qua đào tạo ở vùng kinh tế trọng điểm, trong đó nổi cộm là 3 địa phương TP. Hồ
Chí Minh, Đồng Nai và Bình Dương. Hiện nay, nguồn nhân lực đang là điểm
yếu của chúng ta. Nếu nguồn cung nhân lực có chất lượng khơng được cải thiện,
thì chỉ trong vịng 2 – 3 năm tới, dù có nhà đầu tư, nhưng cũng khơng có người
làm. Một số ngành kinh tế, do phát triển quá nhanh, đã nảy sinh những thách
thức không nhỏ về tuyển dụng nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao để
đáp ứng yêu cầu của thị trường. Hơn nữa, việc mặt bằng tiền lương còn trênh
nhau ở các khu vực, ngành nghề cũng là nguyên nhân tiềm ẩn dẫn đến sự biến
động, di chuyển lao động và cuối cùng là, sự thiếu hụt nhân lực ở các doanh
nghiệp, khu công nghiệp – khu chế xuất. Trong doanh nghiệp nhà nước những
bất cập trong chính sách đãi ngộ cán bộ được thể hiện 1 cách rõ ràng khi mà ở
nhiều nơi các doanh nghiệp nhà nước đang phải trả mức lương cho nhiều giám
đốc, các chuyên gia vượt khung để giữ người. Với Doanh nghiệp Nhà nước,
điều này đang có ý nghĩa rất quan trọng trong nỗ lực cải cách, nâng cao năng lực
cạnh tranh, năng lực quản trị của doanh nghiệp Nhà nước… Một điểm yếu dễ
nhận thấy ở các doanh nghiệp Việt Nam là, thiếu vắng những nhà lãnh đạo
doanh nghiệp có tầm nhìn tồn cầu, có khả năng quản trị kinh doanh một cách
khoa học và bài bản.
Hàng năm đều có một lượng sinh viên khơng nhỏ tốt nghiệp các trường
đại học, cao đẳng dạy nghề nhưng tình trạng thiếu hụt lao động có trình độ cao
vẫn khơng giảm. Do việc đào tạo nhân lực tại các trường trong nước hiện nay rất
yếu, không thể sử dụng được. Giáo trình đại học tuy in mới nhưng nội dung cũ
mấy chục năm, lạc hậu rất nhiều so với thực tế, không cập nhật được thông tin,
công nghệ mới… Thế nhưng, nếu doanh nghiệp chủ động cử người đi đào tạo ở
24
nước ngồi với chi phí cao thì lại gặp khá nhiều khó khăn từ cơ quan quản lý
Nhà nước. Đây là một bất cập trong chính sách đào tạo nguồn nhân lực ở nước
ta hiện nay.
Nhiều chuyên gia kinh tế nhận định, cơn sốt thiếu lao động đang lan rộng.
Vì thế, nếu không giải quyết tốt, sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến tốc độ tăng trưởng
kinh tế nói chung và tiến độ đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất của các doanh
nghiệp. Chính vì thế, để khắc phục sự hẫng hụt nguồn nhân lực, đã có khơng ít
doanh nghiệp buộc phải đi thuê lao động nước ngoài. Tuy nhiên việc thuê lao
động nước ngoài chỉ phù hợp với những vị trí quản lý và cùng khơng thể đi th
mãi được. Đối với lực lượng công nhân lành nghề, cán bộ quản lý chuyên môn ở
tầng trung và tầng thấp nhất thiết phải được đào tạo ngay trong nước.
Lực lượng lao động nước ta đông đảo (khoảng 40 triệu lao động vào năm
2005), nhưng tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp (khoảng 23% năm 2003). Một
bộ phận lớn thanh niên trong độ tuổi 18 – 23 (khoảng 80%) bước vào thị trường
lao động, nhưng chưa qua đào tạo nghề. Lao động phổ thông dư thừa lớn, song
thiếu lao động kỹ thuật lành nghề, thiếu chuyên gia, doanh nhân, nhà quản lý,
cán bộ khoa học và cơng nghệ có trình độ cao. Lực lượng lao động nước ta cịn
hạn chế về ý thức, tác phong công nghiệp, thể lực và trình độ chun mơn,
nghiệp vụ; năng lực hành nghề chưa đáp ứng tốt nhu cầu nhân lực của người sử
dụng lao động, nên còn một tỷ lệ đáng kể lao động qua đào tạo khơng tìm kiếm
được việc làm thích hợp hoặc làm khơng đúng với trình độ và nghề được đào
tạo. So với các nước trong khu vực, thứ bậc xếp hạng về chất lượng nguồn nhân
lực của nước ta còn thấp (Việt Nam chỉ đạt 3,79/10 so với Trung Quốc là
5,73/10 và Thái Lan là 4,04/10). Nước ta không chỉ thiếu lực lượng lao động kỹ
thụât, mà còn thiếu trầm trọng cả đội ngũ cán bộ hành chính, cán bộ quản lý chất
lượng cao.
25