Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

EbookTet By Kynangmem

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.73 MB, 21 trang )

Diễn đàn thảo luận kỹ năng mềm

Tết Ngun Đán


1

TẾT
NGUYÊN ĐÁN
Tết Cổ truyền Dân tộc












Giáp Tết Canh Dần 2010
Diễn đàn thảo luận kỹ năng mềm

Tết Nguyên Đán


2

Teát Nguyeân Ñaùn


1.Tết Nguyên Đán là gì?
Nguyên nghĩa của Tết chính là "tiết". Văn hóa Việt – thuộc văn minh nông nghiệp
lúa nước – do nhu cầu canh tác nông nghiệp đã "phân chia" thời gian trong một năm
thành 24 tiết khác nhau (và ứng với mỗi tiết này có một thời khắc "giao thời") trong
đó tiết quan trọng nhất là tiết khởi đầu của một chu kỳ canh tác, gieo trồng, tức là
Tiết Nguyên Đán sau này được biết đến là Tết Nguyên Đán.
Theo Nghĩa Hán Việt thì Nguyên là bắt đầu còn Đán là buổi sớm mai. Tết Nguyên
Đán chính là Tết bắt đầu năm, mở đầu cho một năm mới với tất cả mọi cảnh vật đều
mới mẻ đón xuân sang. Năm mới đến, những sự may mắn mới cũng đến và bao nhiêu
điều đen đủi không may của năm cũ đều theo năm cũ mà hết.
Tết Nguyên đán (Tết Cả) là lễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ
hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới; giữa một chu kỳ vận
hành của đất trời, vạn vật cỏ cây. Tết Nguyên đán Việt Nam từ buổi "khai thiên lập
địa" đã tiềm tàng những giá trị nhân văn thể hiện mối quan hệ giữa con người với
thiên nhiên, vũ trụ qua bốn mùa xuân-hạ-thu-đông và quan niêm "ơn trời mưa nắng
phải thì" chân chất của người nông dân cày cấy ở Việt Nam... Tết còn là dịp để mọi
người Việt Nam tưởng nhớ, tri tâm tổ tiên, nguồn cội; giao cảm nhân sinh trong quan
hệ đạo lý (ăn quả nhờ kẻ trồng cây) và tình nghĩa xóm làng ...
Ngày nay, cùng với người Hoa, người Việt, các dân tộc khác chịu ảnh hưởng của
văn hoá Trung Hoa như Triều Tiên, Mông Cổ… tổ chức Tết âm lịch và nghỉ lễ
chính thức. Trước đây Nhật Bản cũng cử hành Tết âm lịch, nhưng từ năm Minh Trị
thứ 6 (1873) họ đã chuyển sang dùng dương lịch cho các ngày lễ tương ứng trong
âm lịch.
2. Tết Nguyên Đán có từ bao giờ?
Nguồn gốc Tết Nguyên Đán, hay nói ngắn hơn là Tết có từ đời Ngũ Đế, Tam Vương.
Đời Tam Vương, nhà Hạ, chuộng mẫu đen, nên chọn tháng đầu năm, tức tháng
Giêng, nhằm tháng Dần.Nhà Thương, thích màu trắng, lấy tháng Sửu (con trâu),
tháng chạp làm tháng đầu năm.Qua nhà Chu (1050-256 trước công nguyên), ưa sắc
đỏ, chọn tháng Tý (con chuột), tháng mười một làm tháng Tết.
Diễn đàn thảo luận kỹ năng mềm


Tết Nguyên Đán


3

Các vua chúa nói trên, theo ngày giờ, lúc mới tạo thiên lập địa: nghĩa là giờ Tý thì có
trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người mà đặt ra ngày tết khác nhau. Đến
đời Đông Chu, Khổng Phu Tử ra đời, đổi ngày tết vào một tháng nhất định: tháng
Dần.Mãi đến đời Tần (thế kỷ III trước Công nguyên), Tần Thủy Hoàng lại đổi qua
tháng Hợi (con lợn), tức tháng Mười.Cho đến khi nhà Hán trị vì, Hán Vũ Đế (140
trước Công nguyên) lại đặt ngày Tết vào tháng Dần (tức tháng Giêng) như đời nhà
Hạ, và từ đó về sau, trải qua bao nhiêu thời đại, không còn nhà vua nào thay đổi về
tháng Tết nữa.Đến đời Đông Phương Sóc, ông cho rằng ngày tạo thiên lập địa có
thêm giống Gà, ngày thứ hai có thêm Chó, ngày thứ ba có Lợn, ngày thứ tư sinh Dê,
ngày thứ năm sinh Trâu, ngày thứ sáu sinh Ngựa, ngày thứ bảy sinh loại Người và
ngày thứ tám mới sinh ra ngũ cốc.
Vì thế ngày Tết được kể từ mồng 1 cho đến hết mồng 7 âm lịch. Ngoài ra, người ta
thường nói "20 Tết", "15 Tết"... đây chỉ là nói những ngày ảnh hưởng do những công
việc để chuẩn bị đón Tết hay dư âm còn lại của những ngày Tết.















Din n tho lun k nng mm

Tt Nguyờn ỏn


4

Ngửụứi Vieọt ủoựn Teỏt
Ngi Vit Nam cú tc hng nm mi khi Tt n li tr v sum hp di mỏi m
gia ỡnh. Nhiu ngi mun c khn vỏi trc bn th, thm li ngụi m hay nh
th t tiờn. Nhiu ngi cng mun thm li ni h ó tng sinh sng vi gia ỡnh
trong thi niờn thiu. i vi nhiu ngi xut thõn t nụng thụn Vit Nam, k nim
thi niờn thiu cú th gn lin vi ging nc, mnh sõn nh. "V quờ n Tt" ó tr
thnh thnh ng ch cuc hnh hng v ni ci ngun. Tuy l Tt c truyn ca dõn
tc nhng tu theo mi vựng, mi min ca Vit Nam hoc theo nhng quan nim v
tụn giỏo khỏc nhau nờn cú th cú nhiu hỡnh thc, nhiu phong tc tp quỏn khỏc
nhau. Núi chung Tt ba min u cú th phõn lm 3 khong thi gian, mi khong
thi gian ng vi nhng s chun b, ng vi nhng l nghi hay ng vi nhng hỡnh
thc th hin khỏc nhau, ú l Tt Niờn, Giao Tha v Tõn Niờn.
1. Tt Niờn
i vi Tt c truyn, dp tt niờn l lỳc mi nh chun b cho Tt, mua tớch tr thc
phm v dựng thit yu. Lý do l nhiu hot ng mua bỏn s b ngng tr trong
v sau Tt, chng mt vi ngy n mt tun, do mi ngi u ngh n Tt. Nhu cu
mua sm vo dp ny cng mt phn l vỡ cỏc nh thng chun b ti chớnh cho dp
Tt t nm c. Nhng nh lm ngh nụng cng tớch tr vt nuụi hay hoa mu t trong
nm c cho dp Tt.

Bc vo bt c nh no trong thi im cui nm cng cú th nhn thy ngay khụng
khớ chun b Tt nhn nhp v khn trng, t vic mua sm, may mc n vic trang
trớ nh ca, chun b bỏnh trỏi, c bn, ún tip ngi thõn xa v... i vi cỏc gia
ỡnh ln, h hng ụng, cú quan h xó hi rng, ụng con chỏu, dõu r, thỡ cụng vic
chun b cng phc tp hn.
(1) Cỳng ụng Tỏo :
Theo quan im ca ngi Vit thỡ ụng Tỏo
l
ngi ghi chộp tt c nhng gỡ con ngi lm
trong nm v bỏo cỏo vi Ngc Hong. Ngoi ra,
ụng Tỏo cũn i din cho s m no ca mt gia
ỡnh. ễng Tỏo c cỳng vo ngy 23 thỏng chp
m lch
hng nm. L cỳng ngoi hng, nn, hoa
qu, vng mó cũn cú hai m n ụng, mt m n
Diễn đàn thảo luận kỹ năng mềm

Tết Nguyên Đán


5

bà và con cá chép, cá chép sẽ đưa ông Táo vượt qua Vũ Môn để lên Thiên đình gặp
Ngọc Hoàng. Không khí Tết nhộn nhịp bắt đầu kể từ ngày "tiễn" Táo quân về chầu
trời vào ngày 23 tháng Chạp (tức ngày 23 tháng 12 Âm Lịch)
Theo tục cổ truyền của người Việt thì Táo quân gồm hai ông và một bà, tượng trưng
là 3 cỗ, "đầu rau" hay "chiếc kiềng 3 chân" ở nhà bếp. Vào ngày này, Táo quân sẽ
lên thiên đình để báo cáo mọi việc lớn nhỏ trong nhà của gia chủ với Thượng Đế
(hay Ông Trời). Táo quân cũng còn gọi là Táo công là vị thần bảo vệ nơi gia đình
mình cư ngụ và thường được thờ ở nhà bếp, cho nên còn được gọi là Vua Bếp. Vị

Táo quân quanh năm chỉ ở trong bếp, biết hết mọi chuyện trong nhà, cho nên để
Vua Bếp "phù trợ" cho mình được nhiều điều may mắn trong năm mới, người ta
thường làm lễ tiễn đưa ông Táo về chầu Trời rất trọng thể. Lễ vật cúng Táo công
gồm có: mũ ông Công ba cỗ hay ba chiếc: hai mũ đàn ông và một mũ đàn bà. Mũ
dành cho các ông Táo thì có hai cánh chuồn, mũ Táo bà thì không có cánh chuồn.
Những mũ này được trang sức với các gương nhỏ hình tròn lóng lánh và những giây
kim tuyết màu sắc sặc sỡ. Để giản tiện, cũng có khi người ta chỉ cúng tượng trưng
một cỗ mũ ông Công (có hai cánh chuồn) lại kèm theo một chiếc áo và một đôi hia
bằng giấy. Những đồ "vàng mã" này (mũ, áo, hia, và một số vàng thoi bằng giấy) sẽ
được đốt đi sau lễ cúng ông Táo vào ngày 23 tháng Chạp cùng với bài vị cũ. Sau đó
người ta lập bài vị mới cho Táo Công.
Theo tục xưa, riêng đối với những nhà có trẻ con, người ta còn cúng Táo quân một
con gà luộc nữa. Gà luộc này phải thuộc loại gà cồ mới tập gáy (tức gà mới lớn) để
ngụ ý nhờ Táo quân xin với Ngọc Hoàng Thượng Đế cho đứa trẻ sau này lớn lên có
nhiều nghị lực và sinh khí hiên ngang như con gà cồ vậy! Ngoài ra, để các ông và
các bà Táo có phương tiện về chầu trời, ở miền Bắc người ta còn cúng một con cá
chép còn sống thả trong chậu nước, ngụ ý "cá hóa long" nghĩa là cá sẽ biến thành
Rồng đưa ông Táo về trời. Con cá chép này sẽ "phóng sinh" (thả ra ao hồ hay ra
sông sau khi cúng). Ở miền Trung, người ta cúng một con ngựa bằng giấy với yên,
cương đầy đủ. Còn ở miền Nam thì đơn giản hơn, chỉ cúng mũ, áo và đôi hia bằng
giấy là đủ. Tùy theo từng gia cảnh, ngoài các lễ vật chính kể trên, người ta hoặc làm
lễ mặn (với xôi gà, chân giò luộc, các món nấu nấm, măng...v...v) hay lễ chay (với
trầu cau, hoa, quả, giấy vàng, giấy bạc..v...v..) để tiễn Táo công.
Sự tích Táo quân bắt nguồn từ Trung Hoa, truyện đã được "Việt Nam hóa" với
nhiều tình tiết khác nhau. Tuy nhiên, các câu truyện vẫn nói lên "tình nghĩa yêu
thương" giữa một người vợ và hai người chồng cũ và mới. Chính vì những mối ân
tình đó mà ba người đều đã quyên sinh vì nhau. Thượng đế thông cảm mối tình sâu
nghĩa đậm này đã cho về bếp núc ở gia đình... Bài vị thờ vua Bếp thường được ghi
vắn tắt là "Định Phúc táo Quân" nghĩa là thần định mọi sự hạnh phúc.


Diễn đàn thảo luận kỹ năng mềm

Tết Nguyên Đán


6

(2) Hương vị ngày Tết: bốn thức chủ lực "quốc hồn quốc túy":
Khoảng rằm tháng chạp, củ kiệu tươi được bày bán đầy các chợ. Các bà nội trợ mua
về cắt lấy phần củ trắng nỏn nà, phơi qua vài nắng cho khô quắt lại rồi cho vào những
ve keo, kế đó cho vào các ve củ kiệu này giấm sôi nấu với đường, xong đậy kín lại.
Vào vài buổi chợ giáp tết họ mua thịt heo mỡ, trứng vịt để chuẫn bị món dự trữ chủ
lực: thịt kho nước dừa; thêm đôi ba xấp bánh tráng, giá để làm dưa giá nữa là xong.
Không ai là người Việt mà không cảm khái thứ hương vị dân tộc và khó quên ấy:
bánh tráng nhúng nước cho mềm, trải ra trên một tay, cho lên đấy một miếng thịt mỡ,
một miếng hột vịt, vài ba củ kiệu, ít dưa giá rồi cuốn lại, chấm vào tô nước thịt kho
dằm miếng ớt. Ngày tết hễ đói bụng, hay muốn nhậu, ngoài các thứ đều không thể
thiếu được "thịt kho
, dưa giá, củ kiệu, bánh tráng". Phải nhìn thấy chúng, nếm chúng,
nuốt chúng xuống dạ dày mới gọi là thưởng thức được hương xuân trọn vẹn. Riêng
người Bắc, thay vì củ kiệu, một số người dùng củ hành ta với cách làm cũng tương
tự. Ve dưa hành có màu hồng như ngọc, trông rất đẹp và "may mắn"
(3) Chợ Tết
Đấy là những chợ đặc biệt chỉ xuất hiện vào dịp
Tết và chuyên buôn bán các loại "đặc sản" cho
người dân hưởng xuân. Vì tất cả những người
buôn bán hầu như sẽ nghỉ xả hơi trong những ngày
Tết nên nảy sinh tâm lý mua dự trữ, đưa đến mức
cầu rất cao. Hơn nữa, chợ Tết cũng để thỏa mãn
một số nhu cầu mua sắm để thưởng ngoạn, để lễ

bái như hoa kiểng, những loại trái cây, đặc biệt là
dưa hấu và những loại trái có tên đem lại may mắn
như mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài v.v. Những loại chợ Tết đặc biệt cũng sẽ chấm dứt
vào trước ngọ giao thừa. Vào những ngày này, các chợ sẽ bán suốt cả đêm, và đi
chợ Tết đêm là một trong những cái thú đặc biệt.
(4) Tục trồng cây nêu
Cây nêu là một cây tre cao khoảng 5–6 mét. Ở ngọn thường treo nhiều thứ (tùy theo
từng điạ phương) như vàng mã, bùa trừ tà, cành xương rồng, bầu rượu bện bằng rơm,
hình cá chép
bằng giấy (để táo quân dùng làm phương tiện về trời), giải cờ vải tây,
điều (màu đỏ), đôi khi người ta còn cho treo lủng lẳng những chiếc khánh nhỏ bằng
đất nung, mỗi khi gió thổi, những khánh đất va chạm nhau tại thành những tiếng kêu
leng keng nghe rất vui tai... Người ta tin rằng những vật treo ở cây nêu, cộng thêm
những tiếng động của những khánh đất, là để báo hiệu cho ma quỷ biết rằng nơi đây
Diễn đàn thảo luận kỹ năng mềm

Tết Nguyên Đán


7

là nhà có chủ, không được tới quấy nhiễu... Vào buổi tối, người ta treo một chiếc đèn
lồng ở cây nêu để tổ tiên biết đường về nhà ăn Tết với con cháu. Vào đêm trừ tịch
còn cho đốt pháo
ở cây nêu để mừng năm mới tới, xua đuổi ma quỷ hoặc những điều
không maỵ. Cây nêu thường được dựng vào ngày 23 tháng chạp
, là ngày Táo quân về
trời chính vì từ ngày này cho tới đêm Giao thừa vắng mặt Táo công, ma quỷ thường
nhân cơ hội này lẻn về quấy nhiễu, nên phải trồng cây nêu để trừ tà. Đến hết ngày
mùng Bảy thì cây nêu được hạ xuống.

(5) Tống cự nghênh tân:
Cuối năm quét dọn sạch sẽ nhà cửa, sân ngõ, vứt bỏ những thứ rác rưởi, cùng làng
xóm dọn dẹp nhà thờ, lau giặt, cắt tóc, may sắm quần áo mới, trang trí bàn thờ, lau
chùi bàn ghế ấm chén và mọi thứ thức ăn vật dụng. Ngày xưa, trước Tết một thời
gian ngắn, các bà các mẹ trong nhà phải thức khuya quay tơ, dệt vải, may áo quần
mới cho cả nhà. Công việc này thường kết thúc vào ngày cuối năm. Người ta cho
rằng cần phải rũ bỏ những cái cũ, cái không may mắn đi theo quần áo cũ và đón một
năm mới với nhiều hi vọng và niềm vui mới từ bộ quần áo mới đó. Con cháu trong
nhà từ phút giao thừa trở đi được nhắc nhở không được nghịch nghợm, cãi cọ nhau,
không nói tục chửi bậy... anh chị, cha mẹ cũng không quở mắng, tra phạt con em,
đối với ai cũng tay bắt mặt mừng, vui vẻ niềm nở, chúc nhau những điều tốt lành.
(6) Câu đối tết
Để trang hoàng nhà cửa và để thưởng Xuân, trước đây từ các nho
học cho tới những người bình dân "tồn cổ" vẫn còn trọng tục treo
"câu đối đỏ" nhân ngày Tết. Những câu đối
này được viết bằng
chữ Nho (màu đen hay vàng) trên những tấm giấy đỏ hay hồng
đào cho nên thường được gọi chung là câu đối đỏ.
Có là bao ba vạn sáu ngàn ngày được trăm bận Tết
Ước gì nhỉ một năm mười hai tháng cả bốn mùa Xuân
(7) Hoa tết
Miền Bắc
thường chọn cành đào đỏ để cắm trên bàn thờ hoặc cây đào trang trí trong
nhà, theo quan niệm người Trung Quốc, đào có quyền lực trừ ma và mọi xấu xa, màu
đỏ chứa đựng sinh khí mạnh, màu đào đỏ thắm là lời cầu nguyện và chúc phúc đầu
xuân. Miền Trung
và miền Nam lại hay dùng cành mai vàng hoặc cây mai vàng hơn,
Diễn đàn thảo luận kỹ năng mềm

Tết Nguyên Đán



8

màu vàng tượng trưng cho sự cao thượng vinh hiển cao sang, màu vàng còn tượng
trưng cho vua (thời phong kiến). Màu vàng thuộc hành Thổ trong Ngũ hành
, theo
quan điểm người Việt, Thổ nằm ở vị trí trung tâm và màu vàng được tượng trưng cho
sự phát triển nòi giống Màu vàng của mai cũng sặc sỡ không kém gì hoa đào cùng
với màu đỏ của bánh chưng xanh dưa hấu đỏ làm
ngày Tết phương Nam thêm nhiều sắc xuân. Ngoài
hai loại hoa đặc trưng cho Tết là đào và mai, hầu như
nhà nào cũng có thêm những loại hoa để thờ cúng và
hoa trang trí. Hoa thờ cúng có thể như hoa vạn thọ,
cúc, lay ơn, hoa huệ...; hoa để trang trí thì muôn màu
sắc như hoa hồng, hoa thuỷ tiên, hoa lan, hoa thược
dược, hoa violet...
Cây quất:

Thường được trang trí tại phòng khách, cây quất với lộc xanh mơn mởn, hoa trắng
lốm đốm, quả chín vàng ươm, tròn trịa, sum suê tượng trưng cho sự sinh sôi, thịnh
vượng, tràn đầy, viên mãn kết quả.
(8) Sêu Tết:
Miền Nam gọi là "đi tết", là nghĩa vụ phải làm trước Tết của chàng trai sau lễ hỏi

trước lễ cưới. Sau lễ hỏi chàng trai chính thức là rể chưa cưới và có bổn phận đối với
nhà gái. Bổn phận này bao gồm phải có "sêu tết" và đôi khi có việc đi làm rể. "Sêu"
có nghĩa là mùa nào thức ấy, chàng trai phải mang lễ vật sang biếu bố mẹ vợ chưa
cưới.
(9) Cúng Tất Niên

+ Sắp dọn bàn thờ : Trong gia đình người Việt thường
có một bàn thờ
tổ tiên, ông bà (hay còn gọi ông Vải).
Tuỳ theo từng nhà, cách trang trí và sắp đặt bàn thờ
khác nhau. Biền, bàn thờ là nơi tưởng nhớ, là thế giới
thu nhỏ của người đã khuất. Hai cây đèn tượng trưng
cho mặt trời, mặt trăng, hương là tinh tú. Hai bát hương
để đối xứng, phía sau 2 cây đèn thường có hai cành hoa
cúc giấy, với nhiều bông nhỏ bao quanh bông lớn. Cũng
có nhà cắm "cành vàng lá ngọc" (một thứ hàng mã) với cầu mong làm ăn được quả
vàng, quả bạc, buôn bán lãi gấp 5, gấp 10 lần năm trước. Ở giữa có trục "vũ trụ" là
khúc trầm hương dưới dạng khúc khuỷu, vươn lên trong bát hương. Nhiều gia đình
đặt xen giữa đèn và hương là hai cái đĩa để đặt hoa quả lễ gọi là mâm ngũ quả
(tuỳ

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×