Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.25 KB, 5 trang )
Thuốc kháng sinh kháng khuẩn
(Kỳ 1)
1. ĐẠI CƯƠNG
1.1. Định nghĩa
Kỷ nguyên hiện đại của hóa trị liệu kháng khuẩn được bắt đầu từ việc tìm
ra sulfonamid (Domagk, 1936), "Thời kỳ vàng son" của kháng sinh bắt đầu từ khi
sản xuất penicilin để dùng trong lâm sàng (1941). Khi đó, "kháng sinh được coi là
những chất do vi sinh vật tiết ra (vi khuẩn, vi nấm), có khả nă ng kìm hãm sự phát
triển của vi sinh vật khác".
Về sau, với sự phát triển của khoa học, người ta đã
- Có thể tổng hợp, bán tổng hợp các kháng sinh tự nhiên (cloramphenicol)
- Tổng hợp nhân tạo các chất có tính kháng sinh: sulfamid, quinolon
- Chiết xuất từ vi sinh vật những chất diệt được tế bào ung thư
(actinomycin)
Vì thế định nghĩa kháng sinh đã được thay đổi: "Kháng sinh là những chất
do vi sinh vật tiết ra hoặc những chất hóa học bán tổng hợp, tổng hợp, với nồng độ
rất thấp, có khả năng đặc hiệu kìm hãm sự phát triển hoặc diệt được vi khuẩn"
1.2. Cơ chế tác dụng của kháng sinh
Sơ đồ dưới đây chỉ rõ vị trí và cơ chế tác dụng chính của các kháng sinh
trên vi khuẩn:
Hình 14.2. Các kháng sinh ức chế quá trình tổng hợp protei
1. Ức chế tạo cầu peptid ( Cloramphenicol)
2. Ngăn cản chuyển động chuyển đoạn của ribosom theo ARN m
(Erythromycin)
3. Ngăn cản sự gắn kết của ARN t vào phức hợp ribosom ARN m
(Tetracyclin)
4. Làm thay đổi hình dạng 30S mã hóa trên ARN m nên đọc nhầm
(Streptomycin)
Hình 14.3. Vị trí tác dụng củ a kháng sinh ức chế tổng hợp protein